Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

Cách dùng thuốc chống dị ứng an toàn


Các thuốc này người bệnh có thể tự mua dùng hoặc dùng theo đơn của bác sĩ. Tuy nhiên khi dùng các thuốc này cần cảnh giác những bất lợi do chúng gây ra….

Thuốc kháng histamin
Thuốc kháng histamin đường uống: Gồm các dạng thuốc viên và dung dịch, được dùng trong các trường hợp ngứa, chảy nước mũi, phát ban (nổi mề đay), bao gồm các thuốc như: Loratadin, cetirizin, desloratadin... Một số thuốc kháng histamin đường uống có thể gây khô miệng và buồn ngủ, nhất là các kháng histamin thế hệ 1 như: Diphenhydramin, chlorpheniramin… Nói chung các thuốc kháng histamin thường gây an thần không nên dùng khi lái xe hoặc làm các hoạt động đòi hỏi sự tỉnh táo.
Kháng histamin dạng xịt, nhỏ mũi: Giúp giảm hắt hơi, ngứa mũi hoặc chảy nước mũi, nghẹt mũi, gồm các thuốc azelastin, olopatadin… Khi dùng các thuốc này người bệnh có thể thấy có vị đắng trong miệng, chóng mặt, buồn ngủ hoặc mệt mỏi, khô miệng, nhức đầu, rát mũi, chảy máu mũi, buồn nôn, chảy nước mũi, đau họng và hắt hơi.
Thuốc kháng histamin nhỏ mắt: Thường được kết hợp với các thuốc khác như ổn định tế bào mast hoặc thuốc thông mũi. Thuốc nhỏ mắt kháng histamin có thể giảm bớt các triệu chứng như: Ngứa, tấy đỏ và sưng mắt. Bạn có thể cần phải sử dụng những loại thuốc này nhiều lần trong ngày, bởi vì những tác động có thể kéo dài chỉ một vài giờ. 
Tác dụng phụ của các loại thuốc này có thể bao gồm đỏ mắt, chảy nước mắt, nhức nhẹ hoặc đau đầu. Thuốc nhỏ mắt kháng histamin có thể làm tăng nguy cơ viêm mắt khi bạn đang đeo kính áp tròng.
Cách dùng thuốc chống dị ứng an toàn 1
Thuốc corticoid dạng xịt có thể gây tác dụng phụ khó chịu, kích ứng mũi
Các loại corticoid
Các thuốc corticosteroid (viết tắt là corticoid) khi sử dụng nhất thiết phải có đơn của bác sĩ. Người bệnh không tự ý sử dụng các loại thuốc này vì bên cạnh tác dụng chữa bệnh thuốc còn gây ra nhiều tác dụng phụ có hại nguy hiểm cho người sử dụng. Vì vậy, khi dùng các thuốc này cần tuân thủ theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ về liều lượng cũng như liệu trình điều trị. Thuộc loại này bao gồm các dạng thuốc sau:
Thuốc dạng xịt mũi: Có tác dụng ngăn chặn và làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng dị ứng của viêm mũi dị ứng, giúp đỡ nghẹt mũi, hắt hơi và ngứa, chảy nước mũi. Trên thị trường bao gồm các loại thuốc như: Fluticason, mometason, budesonide… Tuy nhiên, tác dụng phụ có thể bao gồm mùi khó chịu, kích ứng mũi và chảy máu cam.
Corticoid dạng hít: Các loại thuốc này thường được thực hiện trên cơ sở hàng ngày như là một phần của điều trị hen suyễn. Ví dụ như: Fluticason, budesonid, beclomethason… Các tác dụng phụ có thể gây khô miệng, họng và nhiễm khuẩn nấm miệng.
Dạng thuốc nhỏ mắt: Được sử dụng để điều trị kích ứng mắt nặng do sốt và viêm kết mạc dị ứng. Ví dụ như: Dexamethason, fluorometholon, hay prednisolon… Tuy nhiên khi sử dụng các loại thuốc này cần lưu ý, thuốc có thể gây mờ mắt. Sử dụng kéo dài có thể làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn mắt, bệnh tăng nhãn áp và đục thủy tinh thể.
Kem bôi da chứa corticoid: Bao gồm các thuốc như hydrocortison, triamcinolon, flucina… Đây là các thuốc hay được người dân tự ý mua về sử dụng, đôi khi không cần đơn của bác sĩ. Tuy nhiên nếu sử dụng trong thời gian trên 1 tuần cần hỏi ý kiến của bác sĩ hoặc dược sĩ. Tác dụng phụ có thể bao gồm kích ứng da và đổi màu. Sử dụng lâu dài có thể gây mỏng da, teo da….
Corticoid đường uống: Gồm dạng thuốc viên và dung dịch, được sử dụng để điều trị các triệu chứng nghiêm trọng gây ra bởi tất cả các loại phản ứng dị ứng. Vì chúng có thể gây ra nhiều tác dụng phụ ngắn hạn và dài hạn, corticoid đường uống thường được quy định đối với khoảng thời gian ngắn. Sử dụng lâu dài có thể gây đục thủy tinh thể, loãng xương, yếu cơ, loét dạ dày và chậm phát triển ở trẻ em. Corticoid đường uống cũng có thể làm trầm trọng thêm bệnh cao huyết áp.
Người bệnh cần lưu ý
Tùy từng trường hợp cụ thể mà bác sĩ lựa chọn loại thuốc và dạng thuốc dùng cho thích hợp và hiệu quả. Các thuốc chống dị ứng vẫn có thể gây ra những tác dụng không mong muốn. Một số loại thuốc dị ứng có thể gây ra vấn đề không tốt cho cơ thể khi kết hợp với các thuốc khác hoặc có chống chỉ định trong một số trường hợp. 
Vì vậy khi dùng thuốc chống dị ứng người bệnh cần nói cho bác sĩ biết nếu mình đang mang thai; cho con bú; bị bệnh mạn tính như tăng huyết áp, đái tháo đường, loãng xương, tăng nhãn áp… hoặc đang dùng bất cứ loại thuốc nào.
Khi sử dụng thuốc chống dị ứng người bệnh cần theo dõi các tác dụng phụ do thuốc gây ra và thông báo cho bác sĩ biết khi mình gặp phải những bất lợi này để bác sĩ có cách xử trí kịp thời, thích hợp; tránh tai biến do thuốc gây ra.



Những cách bổ sung testosteron không cần thuốc



Nhiều người trong chúng ta tin rằng chỉ có các thuốc mới làm tăng hàm lượng testosteron trong khi trên thực tế có nhiều cách để làm tăng hàm lượng hormon này một cách tự nhiên.
Testosteron có liên quan tới ham muốn tình dục và hình thành cơ bắp ở nam giới. Nhiều người trong chúng ta tin rằng chỉ có các thuốc mới làm tăng hàm lượng testosteron trong khi trên thực tế có nhiều cách để làm tăng hàm lượng hormon này một cách tự nhiên, an toàn hơn mà không cần dùng thuốc.
Thử HIIT và tập tạ
Tập tạ là một trong những cách tự nhiên để tăng hàm lượng testosteron. Ngoài ra, HIIT (phương pháp tập luyện giảm mỡ nhanh) là một dạng tập luyện huy động tất cả các cơ trong một thời gian ngắn. Nó giống như chạy nhanh trong 1 phút và ngồi nghỉ 1 phút và lặp lại. HIIT kéo dài khoảng 4-5 phút. Khi vận động mạnh các cơ, cơ thể sẽ sản sinh testosteron để đẩy nhanh quá trình phục hồi.
Hạn chế sử dụng đường
Insulin có thể thay đổi hàm lượng testosteron và làm giảm hàm lượng này rõ rệt. Do vậy, hãy tránh xa các loại thực phẩm có đường.
Bổ sung vitamin D3
Bạn nên hấp thu nhiều vitamin D3 từ chế độ ăn uống hàng ngày vì nó giúp cơ thể sản sinh testosteron. Trên thực tế, loại vitamin này là một hormon và nó làm tăng hàm lượng testosteron, miễn dịch và sức khoẻ  xương. Phần lớn chúng ta đều có thể bị thiếu hụt vitamin D. Nhiều người không nhận đủ ánh sáng mặt trời và đó có thể là nguyên nhân khiến hàm lượng này suy giảm.
Có đời sống tình dục tích cực
Đời sống tình dục của bạn cũng có thể ảnh hưởng tới hàm lượng testosterone.
Duy trì tư thế đúng
Một nghiên cứu mới đây khẳng định rằng thậm chí tư thế của bạn cũng ảnh hưởng tới hàm lượng testosteron một cách tích cực hoặc tiêu cực tuỳ thuộc vào tư thế đúng hay sai.
Bổ sung kẽm
Ăn nhiều các loại rau có lá và nếu có thể là thịt đỏ để nhận kẽm vào trong cơ thể. Kẽm có vai trò sản sinh nhiều testosteron. Nếu não quyết định sản sinh testosteron nhiều hơn, chế độ ăn của bạn nên chứa đủ kẽm. Tuy nhiên, dư thừa kẽm cũng không tốt cho sức khoẻ.
Không loại bỏ chất béo
Mặc dù quá nhiều chất béo là nguy hiểm, tuy nhiên cơ thể vẫn cần chất béo. Hàm lượng testosteron đòi hỏi một số dạng chất béo. Ăn nhiều cá hồi, hạt lanh, bơ sữa, các loại hạt và bơ.
Giảm thiểu căng thẳng
Căng thẳng nhiều có nghĩa cơ thể sản sinh nhiều cortisol và ít testosteron. Căng thẳng có thể làm tổn hại tới hệ miễn dịch của bạn, kích hoạt chất béo, giảm khối cơ…



Ảnh hưởng khi dùng thuốc hormon sinh dục kéo dài



Hormon sinh dục là các nội tiết tố được duy trì trong cơ thể ở mức độ nào đấy để duy trì các biểu hiện cơ bản của giới tính là nam hoặc nữ. Nếu các hormon này duy trì ở mức phù hợp thì nó sẽ giúp cân bằng giới tính hoặc những cảm xúc bản thân, giúp bạn tránh xa một số bệnh tật. Ngược lại, nếu các hormon này quá thấp hoặc quá cao trong cơ thể đều ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe và giới tính của con người.
Một số hormon sinh dục đặc trưng
Testosteron đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì cảm xúc tình dục. Testosteron thường liên kết mật thiết với các đặc tính của các cá thể nam nhưng nó cũng có mặt trong cơ thể của các cá thể nữ. Hormon này được sản xuất bởi các tế bào Leydig ở tinh hoàn của nam giới và trong buồng trứng ở nữ giới. 
Ngoài ra, các tuyến thượng thận của cả hai giới cũng sản xuất DHEA testosteron là một tiền chất của testosteron. Đây là một hormon có thể làm cho nam biến thành nữ. Nếu cơ thể có quá nhiều hormon testosteron sẽ khiến giọng nói ồm ồm và tăng sự phát triển của khối lượng cơ bắp. Testosteron cũng làm tăng sự ham muốn tình dục ở cả hai giới.
Estrogen là hormon nữ giới được sản xuất trong buồng trứng cũng như trong các tế bào chất béo nhất định của cơ thể. Estrogen giúp tăng trưởng và phát triển hoàn thiện các bộ phận sinh dục nữ, vú và lông ở vùng mu. Do đó, nếu thiếu hụt estrogen có thể gây ra sự suy giảm tình dục ở giới nữ. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu gây ra chứng khô âm đạo và các triệu chứng khác trong thời kỳ mãn kinh.
Progesteron được sản xuất trong buồng trứng ở nữ giới. Nó là một trong những loại hormon kích thích và điều hòa nhiều chức năng của cơ thể, có vai trò trong việc duy trì thai kỳ, giúp cơ thể chuẩn bị sẵn sàng cho sự thụ thai, mang thai và điều hòa chu kỳ kinh nguyệt hàng tháng ở nữ giới. Nếu nồng độ progesteron cao sẽ gây ra các triệu chứng tiền kinh nguyệt như hiện tượng căng ngực, cảm giác phù nề và cảm xúc không ổn định. Khi nồng độ progesteron thấp sẽ khiến kinh nguyệt không đều.
Tuyến yên và mối liên quan với các tuyến nội tiết khác trong cơ thể
Thuốc hormon - “Con dao hai lưỡi”
Các thuốc hormon thường được dùng trong chuyên ngành nam khoa và phụ khoa để điều trị một số triệu chứng liên quan đến giới tính và các bệnh về sinh dục. Việc sử dụng các thuốc này cần phải được theo dõi chặt chẽ và có sự điều chỉnh liều lượng cần thiết khi có triệu chứng phụ ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cơ thể. 
Các thuốc hormon đều có mặt trái của nó đã được cảnh báo trước. Hiện nay có những người chuyển giới cũng thường xuyên phải sử dụng hormon này để duy trì bản sắc giới mà họ mong muốn. Nhưng việc dùng thuốc hormon để duy trì giới tính là một “con dao hai lưỡi” với những hệ quả tiêu cực đến sức khỏe vì các hormon sinh dục là nhóm thuốc có nhiều tác dụng không mong muốn. 
Các androgen sinh dục nếu dùng thường xuyên không những tác động đến các yếu tố phụ của giới tính như lông, râu, tóc, mô mỡ trên cơ thể mà còn có thể gây ung thư và các bệnh về tim mạch. Trong suốt cuộc đời sau khi phẫu thuật chuyển giới, những người này phải dùng thuốc nội tiết nam hoặc nữ. Những thuốc này không hề rẻ và họ bị áp lực kiếm tiền để chi phí cho việc này.
Một vấn đề nữa đặt ra là họ phải được điều trị đúng phác đồ, được các thầy thuốc chuyên về nội tiết sinh dục theo dõi chặt chẽ để nếu có trục trặc gì, họ sẽ được điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, hiện nay người chuyển giới thường tự dùng thuốc theo mách bảo hoặc theo đơn mang về từ nơi mà họ đã phẫu thuật tự nguyện. 
Khi tự điều trị, họ sẽ không biết được dạng thuốc nội tiết nào là tốt, liều lượng thuốc như thế nào phù hợp, cần điều chỉnh gì khi có trục trặc. Vì thế, việc dùng thuốc sai sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Chẳng hạn, việc dùng thuốc nội tiết tố nữ dạng uống ethinyl estradiol có thể làm thuyên tắc tĩnh mạch do huyết khối (gây đột tử). 
Điều trị chuyển giới giống như điều trị một bệnh mạn tính phải dùng thuốc suốt đời mà muốn an toàn thì người bệnh phải được bác sĩ chuyên khoa kê toa thuốc, theo dõi định kỳ, điều chỉnh liều lượng. Nếu sử dụng thường xuyên các thuốc hormon nội tiết tố sinh dục sẽ làm thay đổi cơ thể. Testosteron giúp lông trên cơ thể người nữ thành nam phát triển nhiều hơn. 
Sự phân bố mỡ của cơ thể cũng thay đổi dưới tác động của nội tiết tố nữ. Tuy nhiên, nội tiết tố sinh dục không làm thay đổi bộ xương. Testosteron giúp giọng nói của người nữ thành nam trở nên trầm hẳn sau ba tháng dùng thuốc, nhưng estrogen lại không thể giúp giọng của người nam thành nữ trở nên thánh thót hơn được.



Dùng thuốc chống ngạt mũi coi chừng tai biến


Thuốc chống ngạt mũi được dùng phổ biến để điều trị các bệnh tai - mũi - họng. Tuy nhiên việc dùng các loại thuốc chống ngạt mũi cũng phải cẩn trọng để tránh gặp tai biến.

Rất thông thường
Khi bị ngạt mũi rất ít người nghĩ tới chuyện đi khám bệnh ngay mà thường mua thuốc về nhỏ hoặc xịt mũi. Có ba lý do khiến người bệnh ngại đi khám: bệnh không nguy hiểm, dễ mua thuốc và cách dùng thuốc đơn giản.
Sở dĩ thuốc được ưa dùng trong cả bệnh viện và trong cộng đồng là do tác dụng của thuốc. Công dụng của thuốc đều dựa trên một nguyên lý chung là kích thích hệ vận mạch tại chỗ của mũi theo hướng hoạt hóa hệ giao cảm, tác dụng vào thụ cảm thể alpha của adrelanin. Khi gắn vào thụ cảm thể này sẽ gây ra hoạt tính như một adrenalin chính hiệu. Nghĩa là mạch máu bị co lại, thành mạch giảm tính thấm và chống thoát dịch khỏi mạch. Từ đó hiệu năng được thể hiện.
Mặc dù có nhiều tác nhân khác nhau gây ra viêm mũi như phấn hoa, virut, vi khuẩn, nấm mốc, chấn thương hay do lạnh thì đều gây ra hiện tượng là giãn mạch máu mạnh và thoát dịch. Dịch mũi mà chúng ta vẫn thấy thực chỉ là do nước trong lòng mạch thoát ra mà thôi. Làm co mạch lại và chống thoát mạch sẽ làm giảm sổ mũi và chống ngạt mũi.
Hiện nay có nhiều loại thuốc có thuộc tính chống ngạt mũi như ephedrin, naphazolin, oxymetazolin, pseudoephedrin, phenylephrin, levo-methamphetamin, phenylpropanolamin, tetrahydrozolin…Trong đó 3 loại thuốc đầu rất phổ biến tại nước ta, thường được bào chế dưới dạng lọ xịt hoặc lọ nhỏ mũi.
Và những biến cố
Mặc dù những chứng bệnh có ngạt mũi ít khi nguy hiểm tới tính mạng và việc dùng thuốc lại đơn giản nhưng thuốc lại không hề dễ tính với một số bệnh có chống chỉ định với những thuốc này.
Thứ nhất, đó là tác dụng phụ liên quan đến tác dụng chính. Vì thuốc ứng dụng điều trị được là do hoạt tính kích thích giao cảm của nó nên những người cần hạn chế hoạt tính giao cảm thực sự dùng là không tốt. Ví dụ như người bị tăng huyết áp, nếu dùng thuốc co mạch này nhiều lần trong một ngày sẽ gây ra hoạt tính cường giao cảm và làm huyết áp tăng lên.
Nếu như huyết áp đang cao thì nó hoàn toàn có thể kích thích tạo ra một cơn tăng huyết áp kịch phát, thậm chí gây ra đột quỵ não. Với những người có nhịp tim nhanh và/hoặc rối loạn nhịp tim không đồng đều, nếu dùng thuốc có hoạt tính cường giao cảm như thuốc chống ngạt mũi thì chỉ càng làm cho tim hưng phấn, nhịp tim càng nhanh, người càng hồi hộp và cơ thể thì càng mệt. Vì thế, những người bị cường giao cảm hoặc bị những bệnh gây ra cường giao cảm thì nên hạn chế thuốc này.
Biến cố thứ hai cũng liên quan tới tác dụng chính đó là tác dụng làm co mạch. Không giống mạch máu ở những chỗ khác, mạch máu của mũi rất nhạy cảm và rất dễ biến đổi. Nó dễ co vào và giãn ra như một chiếc điều hòa vạn năng, vì nó thực hiện nhiệm vụ làm ấm và làm ẩm luồng không khí hít vào.
Nếu chúng ta làm cho mạch máu co lại nhiều quá hoặc lâu quá thì niêm mạc mũi bị teo lại, khí thở khô và niêm mạc mất chức năng. Lúc này thì việc phục hồi lại niêm mạc sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vậy, để an toàn không được dùng thuốc nhiều lần trong ngày và không dùng thuốc quá 5 ngày.



Khi nào cần dùng acid folic


Đối với phụ nữ mang thai ngoài được khuyên ăn uống đầy đủ chất còn được khuyên là dùng thêm acid folic. Bởi đây là một vitamin tổng hợp nhóm B có ảnh hưởng tới nhiều quá trình chuyển hóa.

Dùng trong trường hợp nào?
Đối với phụ nữ mang thai ngoài được khuyên ăn uống đầy đủ chất còn được khuyên là dùng thêm acid folic. Bởi đây là một vitamin tổng hợp nhóm B có ảnh hưởng tới nhiều quá trình chuyển hóa, trong đó có sự tổng hợp DNA. 
Khi kết hợp với vitamin C, acid folic được chuyển thành chất rất cần thiết cho sự tổng hợp cả DNA và RNA của cơ thể và là yếu tố không thể thiếu được cho tổng hợp nucleoprotein và tạo hồng cầu bình thường. Nếu thiếu acid folic sẽ gây ra thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ và gây dị tật cho thai nhi.
Ngoài việc bổ sung cho phụ nữ mang thai, acid folic còn được dùng trong các trường hợp: điều trị và phòng tình trạng thiếu aid folic (không do chất ức chế), thiếu acid folic trong chế độ ăn, thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ do thiếu acid folic do kém hấp thu hay tiêu chảy kéo dài, bổ sung acid folic cho người bệnh đang điều trị bằng các thuốc kháng acid folic như methotrexat, người bệnh đang điều trị động kinh bằng các thuốc như hydantoin hay đang điều trị thiếu máu tan máu khi nhu cầu acid folic tăng lên…
Thực phẩm chứa nhiều acid folic
Và những lưu ý
Cần lưu ý, không được dùng acid folic riêng biệt hay dùng phối hợp với vitamin B12 với liều không đủ để điều trị thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ chưa chẩn đoán được chắc chắn. Các chế phẩm đa vitamin có chứa acid folic có thể nguy hiểm vì che lấp mức độ thiếu thực sự vitamin B12 trong bênh thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ do thiếu vitamin B12. 
Những phụ nữ đã có tiền sử mang thai lần trước mà thai nhi bị bất thường ống tuỷ sống thì có nguy có cao mắc lại tương tự ở lần mang thai sau, vì vậy nên bổ sung acid folic từ trước khi mang thai.



Báo động về nạn thuốc giả!

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thuốc giả là thuốc bị nhiễm khuẩn, thuốc không có hoạt chất hay không đúng hoạt chất, thuốc có đúng hoạt chất nhưng không đúng liều lượng. Thuốc giả là thuốc bất hợp pháp và gây tác hại đến sức khỏe.
Như vậy, phân loại thuốc giả của WHO được mở rộng bao gồm thuốc giả và thuốc kém chất lượng.
Hiện nay, thuốc giả đang tràn ngập nhiều nơi trên thế giới, gây ra những tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe. Thuốc giả không chỉ gây ra “tiền mất tật mang” mà còn đe dọa đến tính mạng!
Mới đây, chính quyền Ấn Độ điều tra và kết luận thuốc giả là nguyên nhân dẫn đến cái chết của hàng trăm trẻ sơ sinh tại Bệnh viện phụ sản GB Pant ở Kashmir trong 3 năm qua. Và gần 8.000 bệnh nhân thiệt mạng tại một bệnh viện ở bang Jammu & Kashmir trong vòng 5 năm qua do được điều trị bằng một loại thuốc kháng sinh không có hoạt chất trị bệnh!
Vào năm 2008, 149 người Mỹ đã bị tử vong sau khi uống thuốc heparin (thuốc chống đông máu, ngăn ngừa huyết khối tim mạch) giả do Trung Quốc sản xuất!
Nạn thuốc giả hiện là vấn đề toàn cầu, khi không còn khu trú ở một quốc gia riêng lẻ mà lan tràn từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ châu lục này sang châu lục khác. Mức độ sản xuất thuốc giả đang ngày càng quy mô và tinh vi, nếu chỉ nhìn vào hình thức bên ngoài cũng không thể phân biệt được thuốc giả, thuốc thật!
Đặc biệt, Ấn Độ và Trung Quốc là những nước có nền công nghiệp dược phát triển hàng đầu trên thế giới cũng chính là các quốc gia sản xuất thuốc giả với quy mô lớn và nghiêm trọng hơn là có sự tiếp tay của một số công ty dược phẩm lớn tại các nước này.
WHO ước tính tại các thành phố lớn ở Ấn Độ, cứ 5 viên thuốc bán ra có 1 viên thuốc giả. Thuốc giả đã tăng trưởng lên mức chiếm lĩnh 10 - 20% toàn bộ thị trường.
Vừa qua, FDA (Cơ quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ) đã lên tiếng cảnh báo chất lượng và độ an toàn của các loại thuốc sản xuất tại Ấn Độ và nghiêm cấm nhập một số loại thuốc từ Ấn Độ. FDA cũng đã khởi kiện công ty Ranbaxy (một công ty dược phẩm lớn của Ấn Độ) với mức phạt 500 triệu USD do tiếp tay sản xuất thuốc giả!
Tại Trung Quốc, cảnh sát đã bắt giữ 1.300 người tình nghi sản xuất và buôn bán thuốc giả, với tang vật gồm nhiều loại dược phẩm giả (từ thuốc cảm cúm… đến thuốc tim mạch) và 9 tấn nguyên liệu thô trị giá 2,2 tỉ NDT!
Ở nước ta, trên các phương tiện truyền thông báo, đài vẫn thường ngày đưa tin các loại thuốc giả, thuốc kém chất lượng bị đình chỉ lưu hành và thu hồi. Vào ngày 24/2/2014, trong buổi lễ ký kết Quy chế phối hợp đảm bảo an ninh trật tự giữa Công an Hà Nội và Sở Y tế Hà Nội, cùng các bệnh viện trên địa bàn Hà Nội, thiếu tướng Phạm Xuân Bình, Phó giám đốc Công an Hà Nội, phát biểu: “Thuốc giả không chỉ tồn tại ở các nhà thuốc tư nhân, các cơ sở kinh doanh nhỏ lẻ mà đã thâm nhập vào một số chuỗi cung ứng như công ty, nhà thuốc bệnh viện”.
Qua đó, cho chúng ta thấy được mức độ nghiêm trọng của tình hình thuốc giả đang tràn lan ở nước ta hiện nay, gây ra những thiệt hại lớn lao về sức khỏe, tính mạng và kinh tế.
Tuy hoàn cảnh của mỗi nước khác nhau, nhưng hầu hết chính phủ các nước đều có những nỗ lực chống lại nạn thuốc giả. Ở nước ta, ngoài sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành y tế, công an, hải quan, quản lý thị trường…, người dân cần chú ý:
- Không mua thuốc giá rẻ, trôi nổi, có nguồn gốc không rõ ràng.
- Nên mua thuốc ở các nhà thuốc tư nhân, nhà thuốc bệnh viện, công ty dược phẩm có uy tín, đảm bảo được nguồn gốc rõ ràng của thuốc.




Một số loại thuốc ngừa tai biến vữa xơ động mạch

Các thuốc ngăn cản tiểu cầu kết tập lại gần như đóng vai trò then chốt trong điều trị các biến chứng cấp tính cũng như dự phòng tái phát biến chứng của bệnh vữa xơ động mạch.

Khi mảng vữa xơ động mạch (VXĐM) bị đứt gãy, tạo điều kiện cho dòng máu tiếp xúc trực tiếp với các chất gây đông máu chứa trong mảng vữa xơ khiến tiểu cầu bị kết vón tại đó rồi hình thành cục máu đông gây cản trở lưu thông dòng máu và có thể gây tai biến. 
Do đó, các thuốc ngăn cản tiểu cầu kết tập lại gần như đóng vai trò then chốt trong điều trị các biến chứng cấp tính cũng như dự phòng tái phát biến chứng của bệnh vữa xơ động mạch.
Một số thuốc thường dùng
Aspirin: là acid acetyl-salicylic, ban đầu, nó được sử dụng làm thuốc điều trị hạ sốt và giảm đau. Sau đó, người ta phát hiện ngoài tác dụng trên, nó còn có tác dụng kéo dài thời gian chảy máu. Đến 1967, aspirin chính thức được sử dụng trong điều trị bệnh lý tim mạch.
Aspirin được chỉ định rộng rãi trong bệnh huyết khối - nghẽn mạch như: nhồi máu cơ tim; đau thắt ngực không ổn định; tai biến thiếu máu não.
Các chỉ định này không những áp dụng trong điều trị giai đoạn cấp tính mà còn có tác dụng dự phòng tái phát cũng như dự phòng các tai biến huyết khối - nghẽn mạch ở những vị trí khác.
Hình ảnh vữa xơ động mạch
Ngoài ra, aspirin cũng được chỉ định rất rộng rãi trong dự phòng tiên phát các tai biến huyết khối - nghẽn mạch ở những bệnh nhân tim mạch có nguy cơ cao như: loạn nhịp tim (đặc biệt rung nhĩ), suy tim...
Thuốc phải luôn được uống sau bữa ăn để giảm bớt tác dụng gây kích ứng dạ dày (trừ các trường hợp cấp cứu). Có một dạng aspirin được bào chế chỉ hấp thu trong ruột (aspirin pH8), tránh được tổn thương dạ dày sau khi uống và thích hợp cho BN có bệnh ở dạ dày tá tràng, tuy nhiên, phải luôn nhớ là dạng này chỉ có tác dụng giảm kích ứng dạ dày tại chỗ chứ không giảm được tác dụng phụ trên dạ dày qua cơ chế tác động toàn thân.
Clopidogrel: là dẫn chất thienopyridin, có cấu trúc hoá học giống ticlopidin, cũng có tác dụng chống kết tập tiểu cầu. Hiện nay, đây là thuốc được sử dụng rộng rãi. Nhiều nghiên cứu cho thấy, thuốc có tác dụng làm giảm tới 50% các biến chứng tim mạch chính (nhồi máu cơ tim, đột tử) ở những bệnh nhân có hội chứng mạch vành cấp.
Biến chứng đáng sợ nhất của clopidogrel cũng như các thuốc chống viêm non steroid là chảy máu đường tiêu hoá. Tuy nhiên, nếu tôn trọng chống chỉ định chặt chẽ và tuân thủ cách sử dụng thuốc thì tỷ lệ này cũng rất thấp.
Các tác dụng phụ khác có thể kể đến là: rối loạn tiêu hoá: buồn nôn, nôn, tiêu  chảy, viêm dạ dày...; nổi mẩn da; có thể gặp giảm tiểu cầu (rất hiếm gặp với tỷ lệ khoảng 1/200.000 bệnh nhân).
Chỉ định: Thuốc được chỉ định trong các trường hợp nhằm dự phòng huyết khối gây tắc động mạch như:
- Nhồi máu cơ tim cấp (trong vòng 35 ngày); tai biến thiếu máu não (trong vòng 6 tháng) và bệnh viêm tắc động mạch.
- Hội chứng mạch vành cấp không có đoạn ST chênh lên.
Chống chỉ định: tăng mẫn cảm với thuốc hoặc các chế phẩm của thuốc; suy gan nặng; đang có chảy máu chưa cầm được như chảy máu đường tiêu hoá, chảy máu nội sọ; không nên sử dụng cho phụ nữ có thai hoặc cho con bú.
Một số thuốc khác (ngày nay ít được sử dụng):
Dipyridamol: thuốc có đặc tính chống kết vón tiểu cầu, đồng thời còn có tác dụng giãn động mạch vành, làm tăng cung lượng động mạch vành. Tuy nhiên, hoạt tính chống kết vón tiểu cầu yếu, do vậy chỉ định hạn chế. Hiện nay, thuốc chỉ sử dụng cho bệnh nhân có chống chỉ định với aspirin, thienopyridin.
Các tác dụng phụ có thể gặp khi dùng thuốc là: đôi khi có đau đầu, bừng nóng mặt, hạ huyết áp do thuốc làm giãn mạch; có thể có nổi mẩn, nôn mửa, tiêu chảy.
Chống chỉ định: khi có truỵ tim mạch, hạ huyết áp.
Không dùng cho phụ nữ có thai.
Ticlopidin: Ticlopidin cũng là một dẫn chất thienopyridin, có khả năng ức chế mạnh kết tập tiểu cầu.
Tác dụng phụ: rối loạn tiêu hoá: buồn nôn, tiêu chảy; dị ứng thuốc: ngứa, nổi mẩn, nổi ban ở da, đôi khi có tăng các men gan và viêm gan thể ứ mật; giảm bạch cầu (1 - 2%), giảm tiểu cầu, hiếm gặp giảm sản tuỷ xương. Có thể có chảy máu; làm tăng cholesteron, triglycerid, LDL, VLDL máu trong những tháng đầu dùng thuốc.




 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons