Khi mảng vữa xơ động mạch (VXĐM) bị đứt gãy, tạo điều kiện cho dòng máu tiếp xúc trực tiếp với các chất gây đông máu chứa trong mảng vữa xơ khiến tiểu cầu bị kết vón tại đó rồi hình thành cục máu đông gây cản trở lưu thông dòng máu và có thể gây tai biến.
Do đó, các thuốc ngăn cản tiểu cầu kết tập lại gần như đóng vai trò then chốt trong điều trị các biến chứng cấp tính cũng như dự phòng tái phát biến chứng của bệnh vữa xơ động mạch.
Một số thuốc thường dùng
Aspirin: là acid acetyl-salicylic, ban đầu, nó được sử dụng làm thuốc điều trị hạ sốt và giảm đau. Sau đó, người ta phát hiện ngoài tác dụng trên, nó còn có tác dụng kéo dài thời gian chảy máu. Đến 1967, aspirin chính thức được sử dụng trong điều trị bệnh lý tim mạch.
Aspirin được chỉ định rộng rãi trong bệnh huyết khối - nghẽn mạch như: nhồi máu cơ tim; đau thắt ngực không ổn định; tai biến thiếu máu não.
Các chỉ định này không những áp dụng trong điều trị giai đoạn cấp tính mà còn có tác dụng dự phòng tái phát cũng như dự phòng các tai biến huyết khối - nghẽn mạch ở những vị trí khác.
Hình ảnh vữa xơ động mạch
|
Ngoài ra, aspirin cũng được chỉ định rất rộng rãi trong dự phòng tiên phát các tai biến huyết khối - nghẽn mạch ở những bệnh nhân tim mạch có nguy cơ cao như: loạn nhịp tim (đặc biệt rung nhĩ), suy tim...
Thuốc phải luôn được uống sau bữa ăn để giảm bớt tác dụng gây kích ứng dạ dày (trừ các trường hợp cấp cứu). Có một dạng aspirin được bào chế chỉ hấp thu trong ruột (aspirin pH8), tránh được tổn thương dạ dày sau khi uống và thích hợp cho BN có bệnh ở dạ dày tá tràng, tuy nhiên, phải luôn nhớ là dạng này chỉ có tác dụng giảm kích ứng dạ dày tại chỗ chứ không giảm được tác dụng phụ trên dạ dày qua cơ chế tác động toàn thân.
Clopidogrel: là dẫn chất thienopyridin, có cấu trúc hoá học giống ticlopidin, cũng có tác dụng chống kết tập tiểu cầu. Hiện nay, đây là thuốc được sử dụng rộng rãi. Nhiều nghiên cứu cho thấy, thuốc có tác dụng làm giảm tới 50% các biến chứng tim mạch chính (nhồi máu cơ tim, đột tử) ở những bệnh nhân có hội chứng mạch vành cấp.
Biến chứng đáng sợ nhất của clopidogrel cũng như các thuốc chống viêm non steroid là chảy máu đường tiêu hoá. Tuy nhiên, nếu tôn trọng chống chỉ định chặt chẽ và tuân thủ cách sử dụng thuốc thì tỷ lệ này cũng rất thấp.
Các tác dụng phụ khác có thể kể đến là: rối loạn tiêu hoá: buồn nôn, nôn, tiêu chảy, viêm dạ dày...; nổi mẩn da; có thể gặp giảm tiểu cầu (rất hiếm gặp với tỷ lệ khoảng 1/200.000 bệnh nhân).
Chỉ định: Thuốc được chỉ định trong các trường hợp nhằm dự phòng huyết khối gây tắc động mạch như:
- Nhồi máu cơ tim cấp (trong vòng 35 ngày); tai biến thiếu máu não (trong vòng 6 tháng) và bệnh viêm tắc động mạch.
- Hội chứng mạch vành cấp không có đoạn ST chênh lên.
Chống chỉ định: tăng mẫn cảm với thuốc hoặc các chế phẩm của thuốc; suy gan nặng; đang có chảy máu chưa cầm được như chảy máu đường tiêu hoá, chảy máu nội sọ; không nên sử dụng cho phụ nữ có thai hoặc cho con bú.
Một số thuốc khác (ngày nay ít được sử dụng):
Dipyridamol: thuốc có đặc tính chống kết vón tiểu cầu, đồng thời còn có tác dụng giãn động mạch vành, làm tăng cung lượng động mạch vành. Tuy nhiên, hoạt tính chống kết vón tiểu cầu yếu, do vậy chỉ định hạn chế. Hiện nay, thuốc chỉ sử dụng cho bệnh nhân có chống chỉ định với aspirin, thienopyridin.
Các tác dụng phụ có thể gặp khi dùng thuốc là: đôi khi có đau đầu, bừng nóng mặt, hạ huyết áp do thuốc làm giãn mạch; có thể có nổi mẩn, nôn mửa, tiêu chảy.
Chống chỉ định: khi có truỵ tim mạch, hạ huyết áp.
Không dùng cho phụ nữ có thai.
Ticlopidin: Ticlopidin cũng là một dẫn chất thienopyridin, có khả năng ức chế mạnh kết tập tiểu cầu.
Tác dụng phụ: rối loạn tiêu hoá: buồn nôn, tiêu chảy; dị ứng thuốc: ngứa, nổi mẩn, nổi ban ở da, đôi khi có tăng các men gan và viêm gan thể ứ mật; giảm bạch cầu (1 - 2%), giảm tiểu cầu, hiếm gặp giảm sản tuỷ xương. Có thể có chảy máu; làm tăng cholesteron, triglycerid, LDL, VLDL máu trong những tháng đầu dùng thuốc.