Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016

Có nên nói không với thuốc ngủ?

Truy tìm kẻ “đánh cắp” giấc ngủ
Theo TS Ngô Thanh Hồi, giấc ngủ đối với con người là một tiêu chuẩn bắt buộc đánh giá chất lượng cuộc sống. Nhưng đời sống hiện đại có quá nhiều yếu tố khiến bạn liên tục có những “đêm trắng”. Nguyên nhân gây ra mất ngủ đó có thể chia theo ba nhóm:
- Yếu tố tâm lý: lo âu, tức giận, sợ hãi, ghen tuông, hận thù, trầm uất… khiến bạn mệt mỏi, căng thẳng khó ngủ.
- Yếu tố thần kinh: các bệnh lý tổn thương thực thể não và hệ thần kinh trung ương hoặc các bệnh gây nên sốt, suy nhược… khiến thể trạng suy nhược, khó chịu.
- Yếu tố thể dịch: biến đổi nội tiết tố, hormone do tuổi tác, do chất kích thích… gây ra hiện tượng suy giảm giấc ngủ.
Với đối tượng trung niên thì stress, áp lực cuộc sống hiện đại và sự suy giảm hormone tăng trưởng là những nguy cơ chủ yếu nhất dẫn tới mất ngủ triền miên. 
Do đó, thuốc ngủ trở thành vật bỏ túi với nhiều người nhất là với đời sống phương Tây vì chúng mang lại hiệu quả tức thời hơn các liệu pháp khác (bấm huyệt, uống thuốc Đông y, ăn uống…).
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Thuốc ngủ là cứu cánh
Từ thời cổ đại, người La Mã đã đi tìm những bài thuốc hiệu nghiệm chữa chứng mất ngủ từ cácgiống cây cỏ như: hạt của cây phỉ ốc tư, nước quả của rau diếp… người Hy Lạp cổ và người Ai Cập cũng đã biết sử dụng chiết xuất từ thuốc phiện để giúp giấc ngủ đến dễ dàng và sâu hơn cho những người khó ngủ.
Vì vậy, trong thần thoại Hy Lạp ta có thể thấy hình ảnh vị thần giấc ngủ Hypnos được miêu tả với một bên tay luôn giữ một hoa thuốc phiện.
Đầu năm 300 Trước Công Nguyên các bác sĩ Hy Lạp đã tìm ra được các bước chưng cất và pha chế hỗn hợp các loại thảo dược để cho ra loại thức uống được gọi là "Syrups buồn ngủ". 
Năm 1832, nhà hóa học Justus von Liebig người Đức đã tổng hợp được loại thuốc ngủ Hydrat có thể giúp người khó ngủ tìm được giấc ngủ sau nữa giờ. Năm 1857, các lớp học nghiên cứu về thuốc ngủ được thành lập bởi nhà hóa học người Anh, Sir Charles Locock...
Và đến ngày nay, với sự phát triển của khoa học, thị trường thuốc ngủ đã xuất hiện rất nhiều dòng khác nhau như: thuốc ngủ nguồn gốc thảo dược, thuốc ngủ thuộc nhóm Benzodiazepine, thuốc ngủ không thuộc nhóm Benzodiazepine, các thuốc an thần kinh…
Trong khi người tây phương xem việc sử dụng thuốc ngủ là bình thường thì nhiều người Việt bị chứng khó ngủ vẫn còn mơ hồ, xa lạ và thậm chí nhiều người còn “li kị” vì cho rằng thuốc an thần, thuốc ngủ là độc dược.
Từ trước đến nay, nếu người phương Tâychỉ có thể sử dụng được thuốc ngủ khi có toa kê bắt buộc của bác sĩ chuyên ngành, thì người Việt thường có tâm lý tự mua tự uống, thậm chí thích uống quá liều để thuốc mau có tác dụng nên việc sử dụng thuốc ngủ trở thành nguy hiểm và từ đó cái mác: “Thuốc ngủ = Nguy hiểm=> lánh xa” trở thành phản xạ của người Việt.
“Ứng xử” với thuốc ngủ
Trong phương pháp điều trị rối loạn giấc ngủ tại BV Tâm thần Ban ngày Mai Hương thì uống thuốc ngủ là phương pháp cuối cùng khi những liệu pháp khác không hiệu quả. 
Bởi chúng là loại thuốc có tính hai mặt rõ rệt: an thần giữ giấc ngủ và cũng lại là độc dược hạng nhất. Do đó vấn đề không phải là dùng hay không dùng mà dùng như thế nào.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Để dùng thuốc ngủ an toàn, bạn nên tuân thủ theo sự hướng dẫn của bác sĩ. Bác sĩ sẽ kiểm tra tình trạng của bạn và chọn loại thuốc phù hợp. Thuốc tạo được khởi đầu và duy trì giấc ngủ. Không gây tình trạng nhờn, lệ thuốc thuốc và có thể cắt bỏ, đổi loại khác.
Sau một thời gian sử dụng thuốc ngủ, bác sĩ sẽ chỉ định kê lại toa cho bệnh nhân để tránh nhờn thuốc, tránh phản ứng phụ gây rối loạn tâm thần. 
Đối với những người mất ngủ thường xuyên thì có thể uống đều đặn mới duy trì được giấc ngủ. Nhưng trong trường hợp không phải tối nào cũng mất ngủ, bệnh nhân nên dùng thuốc gián đoạn và chỉ uống khi thấy cần.
Lưu ý
- Phụ nữ mang thai, người bệnh hô hấp, gan, thận tuyệt đối không nên dùng thuốc ngủ. Vì chúng ảnh hưởng tới sự điều hòa chức năng gan thận, sức khỏe thai nhi.
- Tuyệt đối không sử dụng thuốc ngủ cùng các chất có cồn như rượu, bia. Nếu phải lái xe đường dài hoặc hoạt động thể chất nặng, bạn không nên dùng thuốc ngủ vào buổi tối hôm trước.
- Nhiều người đang dùng thuốc và thấy chưa hài long với giấc ngủ nên tự ý tăng liều lượng. Đó là mối nguy hiểm nhất trong việc dùng thuốc bởi rễ gây tử vong. Khi liều cũ không thấy tác dụng, bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ để đổi toa.
- Mỗi loại thuốc phù hợp với thể trạng, bệnh tình của từng đối tượng. Dùng nhiều loại cùng một lúc dễ gây hại cho sức khỏe, phản ứng thuốc, sốc thuốc.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Hiểm họa từ thuốc phá thai trôi nổi

Nhiều trường hợp thiếu nữ tự dùng thuốc phá thai đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, thậm chí người dùng còn phải trả giá bằng cả tính mạng khi dùng sai phác đồ điều trị.

Trên các trang mạng xã hội, thuốc phá thai được rao bán rầm rộ. Tuy nhiên, người bán vì lợi nhuận mà bất chấp hậu quả khôn lường có thể xảy đến với người dùng.
Tiền mất, tật mang
Bạn gái tên NTH (19 tuổi) chia sẻ trong một lần quan hệ với bạn trai do không dùng bao cao su đã dính bầu. Là sinh viên năm hai của một trường đại học ở Hà Nội, vì lo sợ gia đình và bạn bè biết chuyện, H. đã bí mật tìm hiểu thông tin về thuốc phá thai qua mạng xã hội. Nhờ người quen chỉ chỗ bán, H. quyết định tìm mua thuốc ở ngoài rồi về nhà uống. Gần một tháng sau H. phải nhập viện trong tình trạng đau bụng dữ dội và băng huyết nhiều. Bác sĩ cho biết thai chết lưuđược gần một tháng.
Một câu chuyện đau lòng khác xảy ra tại khu phố 3, phường Phú Thủy, TP Phan Thiết (Bình Thuận) vào tháng 8/2015 vừa qua khiến nhiều người đau xót và tiếc thương. Cô gái tên HTNY (29 tuổi) trú thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình (Bình Thuận) được phát hiện nằm chết trong phòng vệ sinh, xung quanh có nhiều máu, phía trong bồn cầu có một thai nhi khoảng năm tháng tuổi đã tử vong. Qua điều tra, cơ quan Công an TP Phan Thiết xác định nguyên nhân ban đầu dẫn đến cái chết của chị Y. là do băng huyết, nghi cô gái này đã tự phá thai nên đã dẫn đến hậu quả trên.
Mặc dù đã có quy định cấm, thuốc phá thai vẫn được bán chui cho khách, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng của người dùng. Ảnh: PHI HÙNG
Thuốc phá thai cần là có
Không cần kết quả siêu âm hay bệnh án, hiện một số quầy thuốc Tây dễ dàng bán thuốc phá thai cho khách hàng có nhu cầu ở các tuần đầu thai kỳ, thậm chí là vượt quá tuần tuổi quy định. Trên các diễn đàn mạng xã hội cũng quảng cáo và rao bán thuốc phá thai rầm rộ, như với lời lẽ ngon ngọt giúp các cô gái lỡ dại giải quyết nhanh gọn, không gây đau đớn.
Thay vì đến bệnh viện để được tư vấn phá thai, nhiều chị em đã tìm đến các quầy thuốc hoặc lên mạng tra cứu nguồn cung cấp thuốc. Chỉ cần gõ từ khóa và click chuột, một loạt địa chỉ kèm theo số điện thoại người cung cấp sẽ hiện ra tức thì.
Trong vai khách hàng có nhu cầu muốn mua thuốc để tự giải quyết, một đồng nghiệp nữ đến hiệu thuốc tân dược ở phố Trần Cung (Cổ Nhuế, Bắc Từ Liêm, Hà Nội). Khi ngỏ ý muốn mua loại thuốc trên, nhân viên chừng 30 tuổi đứng trong quầy thuốc hỏi: “Tuần mấy rồi em, sinh viên hả?”. Thấy khách tỏ vẻ ngại ngùng gật đầu, chưa chờ hết câu trả lời của khách, người phụ nữ bồi thêm: “Yên tâm, nhiều cặp vợ chồng lỡ kế hoạch, hay mấy em sinh viên trót dính bầu đều tới đây hỏi chị. Vào bệnh viện lắm thủ tục, mất thời gian”.
Theo lời người bán, nhờ người quen làm trong một bệnh viện nên cửa hàng mới có nguồn cung cấp loại thuốc này. Nếu khách nào có nhu cầu, cửa hàng sẽ cung cấp cho khách mua về tự xử. Để tạo lòng tin, người phụ nữ khẳng định: “Cả khu phố duy nhất nhà chị bán loại thuốc này, giá cả phải chăng. Thuốc bỏ thai kèm thuốc bổ khoảng 500.000 đồng”.
Vị này tư vấn thêm thai khoảng 5-6 tuần tuổi sử dụng thuốc khá an toàn. Nếu thai lên tới 8-9 tuần thì hơi nguy hiểm. Thuốc được bọc trong túi nylon màu đen cất cẩn thận, bên trong có hai loại gồm Mifepristone (200 mg) và Misoprostol (200 mg). 
Theo người này, thai phụ sẽ phải uống một viên Mifepristone trước, loại thuốc này có tác dụng làm mềm tử cung, tác động cho bào thai bong ra khỏi buồng tử cung khiến thai lưu nhanh chóng. Sau hai ngày, khách hàng tiếp tục ngậm tám viên thuốc có tên Misoprostol, làm kích thích co bóp tử cung để đẩy thai ra ngoài.
Loại thuốc này sẽ phải chia thành bốn lần ngậm, mỗi lần là hai viên, thời gian giữa các lần ngậm cách nhau ba giờ. Ngoài ra, một số loại thuốc khác được kê theo đơn như thuốc làm giảm tình trạng thai nghén cho người mang thai, thuốc kháng sinh chống viêm, sắt, thuốc giảm đau dạ dày… Những loại thuốc này được uống sau khi thai được đẩy ra ngoài. Thấy khách tỏ vẻ lo lắng vì phải uống nhiều loại thuốc, dược sĩ trấn an: “Cứ về uống theo lời hướng dẫn của chị thì không sao đâu, có gì cứ gọi điện thoại cho chị”.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Người cao tuổi: Dùng nhiều thuốc chưa hẳn là tốt

Những bất lợi khi dùng nhiều thuốc
Dùng nhiều thuốc bệnh cùng lúc song không đúng cách, sẽ bị thừa hay tương tác thuốc. Một số thí dụ:
Bị đau dạ dày, khó chịu, mất ngủ. Vừa dùng thuốc giảm tiết dịch vị cimetidin vừa dùng thuốc ngủ seduxen. Cimetidin vốn có tác dụng phụ gây lú lẫn, kích động, hoang tưởng, dùng thêm seduxen sẽ làm cho tác dụng phụ này tăng lên, gây buồn ngủ kéo dài, không chủ động được, dễ bị ngã.
Không những người cao tuổi mà ngay cả một số nhân viên y tế cũng hiểu sai rằng dùng nhiều thuốc chữa cùng một bệnh sẽ làm cho hiệu quả điều trị tốt hơn. Không hoàn toàn đúng như thế.
Đang dùng thuốc trầm cảm sertralin. Mất ngủ lại dùng thêm thuốc ngủ triazolam. Trầm cảm vốn là do thiếu hụt chất dẫn truyền thần kinh trong syap; người bệnh ở trong trạng thái thần kinh trung ương bị ức chế (không ham thích, không muốn làm việc, buồn chán). 
Thuốc trầm cảm làm cho cơ thể phục hồi các chất dẫn truyền trong synap ngang với ngưỡng sinh lý, được coi như là thuốc kích thích thần kinh trung ương. Thuốc ngủ triazolam ức chế hệ thần kinh trung ương. Dùng cả thuốc ngủ và thuốc trầm cảm là dùng hai thuốc có tác dụng ngược, làm mất hiệu quả của nhau.
Bị cao huyết áp, dùng thuốc huyết áp nhưng lại bị hen nên dùng thêm thuốc chữa hen chứa ephedrin hoặc corticoid tiêm hay uống kéo dài. Ephedrin là thuốc tăng cường hoạt động của thần kinh giao cảm làm cho tim đập mạnh, co mạch ngoại vi, gây tăng huyết áp. 
Corticoid tác động giữ muối và nước, làm cho nước trong máu trong dịch gian bào tăng, tác dụng lên sự chuyển hóa glucid làm glucose - máu tăng… dẫn tới tăng huyết áp. Như vậy, các thuốc chữa hen làm mất tác dụng của thuốc chữa cao huyết áp.
Dùng thuốc “bổ dưỡng” kèm với thuốc chữa bệnh không đúng, gây trở ngại cho việc chữa bệnh:
Người bị bệnh mắt đã dùng mỗi ngày 2 viên tobicom (chứa vitamin A, 2.500 IU/viên). Trong thời gian này, lại dùng thêm mỗi ngày 1 viên thuốc bổ pharmaton (cũng chứa vitamin A, 2664 IU/viên). Tính cộng lại, người bệnh đã dùng liều vitamin A đến 7664IU/ngày, cao hơn nhu cầu cần thiết (tối đa chỉ 5.000IU/ngày). 
Vitamin A (dưới dạng acid retinoic, một chất chuyển hóa có hoạt tính của vitamin A) kích thích sự hoạt động của các tế bào hủy xương dẫn đến tăng sự tiêu xương, dẫn đến giảm mật độ chất khoáng xương, xương thiếu độ chắc, dòn, kém dẻo dai, sức chịu lực kém, dễ gãy đồng thời tăng sự hình thành xương màng gây nên phì đại xương. 
Các nghiên cứu cho thấy: những người bổ sung vitamin A trên 5.000 IU/ngày có mật độ chất khoáng xương thấp hơn 10% so với những người bổ sung ít hơn 5.000IU/ngày; có nguy cơ gãy cổ xương đùi gấp 2,1 lần so với người chỉ bổ sung mỗi ngày ít hơn 1.666 IU/ngày. Như vậy, trong trường hợp đã dùng tobicom, việc dùng pharmaton gây thừa vitamin A, dẫn đến hại xương.
Người cao tuổi cần khám, dùng thuốc theo chỉ định
Người cao tuổi cần khám, dùng thuốc theo chỉ định
Trong khi dùng thuốc chữa cao huyết áp, nghe nói dùng vitamin C làm tăng cường khả năng miễn dịch nên thường xuyên dùng viên sủi vitamin C, có khi dùng thường xuyên như một loại nước giải khát. Viên sủi chứa nhiều natribicarbonat (NaHCO3) làm tăng lượng Na+ như khi ăn mặn muối Natrichorid (NaCl). Na+ kéo ion canxi (Ca+2) vào nhiều trong nội bào. 
Chính Ca+2 khi vào nội bào nhiều sẽ gắn kết với phức tropomin C, làm thay đổi cấu trúc không gian của phức này, bộc lộ actin, tạo điều kiện cho actin kết hợp với myosin gây co cơ. Sự co cơ thành tiểu động mạch tăng sẽ cản trở lưu thông máu, dẫn tới cao huyết áp. Như vậy, tá dược NaHCO3 trong viên sủi C làm giảm hiệu lực của thuốc chữa cao huyết áp.
Nghe nói canxi là “chiếc gậy của tuổi già”, có lợi cho người loãng xương, có người đã dùng canxi vitamin D quá nhiều. Tại Mỹ, nghiên cứu WHI (Women Health Intitative) trên 36.000 người mãn kinh (50 - 70 tuổi) thấy: dùng mỗi ngày 1.000mg canxi, 400IU vitamin D có làm tăng mật độ xương lên chút ít so với nhóm chứng, nhưng không giảm nguy cơ gãy xương. 
Các nhà nghiên cứu Australia phân tích lại các nghiên cứu WHI, thống nhất với kết luận này; đồng thời thấy thêm: việc dùng canxi làm tăng 31% nguy cơ nhồi máu cơ tim (số liệu từ 5 nghiên cứu trên 8.000 người); tăng 27% nhồi máu cơ tim (số liệu từ 11 nghiên cứu trên 12.000 người). Theo đó, Hội nghị xương khoáng chất tại Mỹ năm 2001 kết luận: “Dùng canxi điều trị loãng xương không có lợi ích mà còn nguy hại”. 
Như vậy, việc dùng thuốc bồi bổ canxi vitamin D quá nhiều không đem lại lợi ích gì cho việc chữa loãng xương mà lại có nguy cơ gây hại cho tim mạch. Muốn phòng loãng xương cần cung cấp đủ nhu cầu canxi ngay từ khi còn trẻ mà không đợi đến lúc già. Ở tuổi già nếu cần bổ sung canxi vitamin D vì thiếu hụt thì chỉ bổ sung vừa đủ, khi bổ sung đủ nhu cầu thì dừng lại ngay.
Dùng phối hợp nhiều thuốc cùng cơ chế dược lý để chữa một bệnh không tăng thêm lợi ích mà tăng độ độc:
Trong điều trị, thầy thuốc cho phối hợp các thuốc chữa cùng một bệnh nhưng phải có cơ chế khác nhau. Ví dụ: trong bệnh đái tháo đường dùng riêng sulfonylure (glibenclamid) thì chỉ kích thích tuyến tụy, dùng riêng biguanid (metformin) thì chỉ ức chế gan phóng thích glucose từ glycogen. Dùng chung, sẽ phối hợp hai cơ chế này, tụy và gan không phải làm việc quá sức mà vẫn kiểm soát được đường huyết. Dùng riêng, phải dùng liều cao, sulfonylure có thể gây hạ đường huyết, biguanid có thể tăng acid lactic máu. Dùng chung, liều mỗi thành phần chỉ còn bằng 40 - 60% liều dùng đơn, nên không gây các tác dụng phụ này. 
Nếu phối hợp hai thuốc chữa bệnh cùng cơ chế sẽ không lợi. Ví dụ: khi nhiễm khuẩn hô hấp cấp nặng, thầy thuốc đã cho dùng amikacin với liều thích hợp sẽ ức chế được vi khuẩn. Người bệnh sốt ruột dùng thêm cả gentamycin tiêm. Dùng thêm gentamycin không tăng thêm hiệu lực (vì riêng amikacin đã đủ ức chế vi khuẩn rồi), trong khi đó sẽ tăng thêm độc tính với thính giác, gây điếc (vì cả amikacin và gentamycin đều có độc tính này).
Dùng biệt dược trùng lặp nên quá liều, gây độc:
Người bệnh khi bị sốt mới dùng paracetamol thấy chưa đỡ vội vàng dùng thêm panadol, một biệt dượcchứa paracetamol và ibuprofen. Như vậy là dùng liều paracetamol gấp đôi liều bình thường. Nếu dùng đúng liều paracetamol là thuốc lành tính, nhưng dùng liều cao paracetamol có thể gây viêm gan cấp.
Dùng tăng liều lượng, kéo dài thời gian dùng theo cảm tính… gây ra tai biến:
Do sợ tăng đường huyết, đôi khi người bệnh tự ý tăng liều thuốc đái tháo đường lên để phòng dư. Việc tăng liều thuốc phòng dư này sẽ gây hạ đường huyết quá mạnh, xuống dưới mức an toàn sẽ gây hạ huyết áp, trụy mạch.
Mục đích dùng thuốc chữa cao huyết áp là để hạ huyết áp xuống mức chấp nhận được gọi là huyết áp mục tiêu. Người bệnh khi thấy trong người khó chịu, nhức đầu thì cho rằng vì huyết áp tăng cao rồi tự ý dùng tăng liều thuốc cao huyết áp. Thực ra trong người khó chịu hay nhức đầu chưa hẳn là do cao huyết áp mà có khi do một lý do khác. Tăng liều thuốc hạ huyết áp không đúng có khi gây tụt huyết áp đột ngột thậm chí trụy mạch nguy hiểm.
Trong viêm khớp dạng thấp, kháng viêm không steroid (aspirin, ibufrofen, diclofenac) chỉ làm giảm đau, giảm viêm. Trong bệnh mạn này, chỉ khi đau và viêm không chịu được mới dùng kháng viêm không steroid. Có người cứ hơi đau chưa đến mức cần đã vội dùng thuốc, kết quả là dùng nhiều đợt, những đợt đó rất gần nhau. Lẽ ra, khi giảm đau giảm viêm đến mức cơ thể có thể chịu đựng được thì ngừng dùng. Một số người muốn khỏi hẳn bệnh nên kéo dài thời gian dùng ra. Do đó, thuốc phát sinh tác dụng phụ đầu tiên là gây viêm loét dạ dày vi thể (phải soi mới thấy, không có biểu hiện lâm sàng) về sau thì viêm loét dạ dày thực sự (có dấu hiệu lâm sàng, X-quang rõ).
Làm sao để tránh dùng nhiều thuốc?
Về người bệnh: cần khám, dùng thuốc theo chỉ định. Tùy trường hợp, thầy thuốc sẽ:
- Chỉ dùng thuốc chữa bệnh chính, khi bệnh chính đỡ, theo đó, bệnh chứng phụ cũng hết. Ví dụ: chỉ cần dùng thuốc chống tiết dịch vị cimetidin; khi bệnh dạ dày đỡ, không còn khó chịu, sẽ ngủ được, mà không nhất thiết phải dùng seduxen.
- Trong trường hợp cần dùng cùng lúc hai thuốc chữa hai bệnh khác nhau, thầy thuốc sẽ chọn các thuốc thích hợp để chúng không cản trở nhau.Ví dụ: thầy thuốc cho dùng thuốc chữa cao huyết áp, vẫn cho dùng thuốc kiểm soát hen nhưng không dùng ephedrein, corticoid tiêm uống… mà dùng corticoid hít. Corticoid hít thường dùng liều nhỏ, có tác dụng tại chỗ, không gây tác dụng phụ tăng huyết áp.
- Cũng có khi thầy thuốc cho xê dịch thời gian dùng sẽ tránh được thừa thuốc. Ví dụ: khi thầy thuốc cho dùng tobicom (chứa vitamin A) thì không cho dùng pharmaton (cũng chứa vitamin A).
- Khi chữa một bệnh, nếu cần phối hợp thuốc thì thầy thuốc sẽ kết hợp hai thuốc có cơ chế dược lý khác nhau sẽ tăng hiệu quả mà độc tính sẽ giảm.Ví dụ như phối hợp 3 - 4 kháng sinh có cơ chế tác dụng khác nhau trên vi khuẩn lao để chữa bệnh lao.
- Thầy thuốc có khi dùng cách khác mà không tăng, hoặc nếu cần tăng liều thì có tính toán cụ thể để tránh quá liều. Ví dụ: một nghiên cứu tại các phòng khám Pháp cho biết người cao huyết áp đến viện khi nhức đầu khó chịu hay có tăng huyết áp chút ít thì chỉ cần cho nghỉ yên tĩnh ở phòng đợi, sẽ có 80 - 90% trường hợp trở lại trạng thái huyết áp bình thường mà không cần dùng thuốc hay nhập viện.
Về phía bệnh viện:
Riêng các bệnh viện có tổ chức nhiều đơn nguyên khám chuyên khoa cần bố trí thầy thuốc (đúng ra là bố trí phòng tổng hợp cuối cùng) xem lại các đơn mà các chuyên khoa đã cho, trao đổi lại với thầy thuốc, lược bỏ các thuốc thừa, các thuốc gây tương tác. Chủ động hơn, khi bị nhiều bệnh mạn, người bệnh nên đến phòng nội tổng hợp khám khai luôn cùng lúc các bệnh, nếu thầy thuốc thấy có thể chữa kết hợp được ngay ngay với chuyên khoa nào thì gửi khám tại chuyên khoa đó, bệnh mạn nhưng chưa chữa được ngay sẽ dành chữa vào thời gian thích hợp khác.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Tác dụng phụ nguy hiểm của miếng dán chống say xe

Với những người bị say tàu xe, việc dùng miếng dán chống say là giải pháp được nhiều lựa chọn. Tuy nhiên, khi dùng loại thuốc thấm qua da này dễ gặp những tác dụng phụ rất nguy hiểm.
Khổ sở vì dùng miếng dán chống say xe
Chị L.T.T ở Hoàng Mai (Hà Nội) rất sợ đi các phương tiện giao thông, vì đi loại phương tiện nào (ôtô, tàu hỏa...) chị cũng đều bị say, nôn thốc nôn tháo, phải nằm bê bết vài ngày. Hôm về quê có việc hiếu, chị được mọi người mách dùng miếng dán chống say xe, sẽ không còn cảm giác nôn nao, ngủ một giấc là đến nơi. Thế là chị dán một miếng lên sau vành tai, rồi ngủ mê mệt suốt chặng đường cả đi và về, không có cảm giác say. 
Chỉ tiếc là khi đến nơi cần tỉnh táo để giải quyết mọi việc thì chị cứ mắt nhắm mắt mở buồn ngủ, ngồi gật gù như người lên đồng. Hai ngày, rồi ba ngày sau đó chị vẫn còn cảm giác lơ mơ, hoa mắt, chóng mặt và không thể tập trung làm được việc gì. 
Quá sợ hãi và không chịu đựng được các cảm giác này, chị tới bác sĩ khám bệnh. Sau khi hỏi han tỉ mỉ, bác sĩ khẳng định, các dấu hiệu trên ở chị, cũng như nhiều người khác đã gặp phải là do bị tác dụng phụ của miếng dán chống say xe.
Tác dụng phụ nguy hiểm của miếng dán chống say xe
Miếng dán chống say xe cũng có tác dụng phụ nguy hiểm
Thuốc ngấm qua da và các tác dụng phụ
Miếng dán dùng dán sau tai để chống say tàu xe (thường có hình chữ nhật hay hình tròn) là loại thuốc điều trị ngấm qua da, có tác dụng toàn thân, không khác gì thuốc uống. Miếng dán có chứa dược chất scopolamin. Khi dán lên da (vùng sau tai), thuốc sẽ thấm dần xuyên qua da để vào tĩnh mạch dưới da, vào máu với một lượng đủ có tác dụng chống co thắt, giảm sự kích thích đưa đến hóa giải buồn nôn và nôn do say tàu xe.
Ưu điểm của miếng dán là không bất tiện như thuốc tiêm, không có sự biến đổi hấp thu và bị chuyển hóa bởi gan như thuốc uống, có thể cung cấp dược chất một cách liên tục, không phải dùng thuốc nhiều lần trong ngày, khi muốn ngưng điều trị chỉ cần bóc bỏ miếng dán ra khỏi da là được. 
Tuy nhiên, điều cần lưu ý là dạng thuốc dán xuyên da này có thể gây các tác dụng phụ rất khó chịu, giống như dạng thuốc uống hay tiêm. Do miếng dán được dán ngay sau tai nên thuốc ngấm vào tĩnh mạch não nhanh rồi tác dụng ngay lên các cơ quan của não. Cụ thể, tác dụng bất lợi của miếng dán chống say xe gây ra cho người sử dụng là: liệt đối giao cảm (do tác động đến hệ thần kinh) làm khô miệng, táo bón, nhức đầu, lơ mơ, ói mửa, rối loạn điều tiết mắt (làm mắt nhìn mờ, hoa mắt)... 
Nếu dùng miếng dán chống say cho trẻ em thì tác dụng phụ thật vô cùng đáng ngại và phải sau nhiều ngày (có khi cả tuần) các cảm giác khó chịu mới hết hẳn.
Có trường hợp còn nghĩ đây là miếng dán chứ không phải là thuốc nên muốn dán thật nhiều thì tác dụng mới nhanh và lâu nên thường sử dụng một lúc 2, 3 miếng dán hoặc sử dụng cùng lúc với thuốc uống. Việc làm này rất phản khoa học và rất nguy hiểm. Bởi bản thân miếng dán cũng là một dạng thuốc và đã được nhà sản xuất tính toán liều lượng tốt nhất có trong miếng dán, phù hợp với thể trạng của người sử dụng. 
Khi dùng nhiều miếng dán cùng lúc, thuốc sẽ ngấm hết qua da, thẩm thấu vào máu với liều lượng rất cao. Khi đó người sử dụng sẽ ở trong tình trạng dùng thuốc quá liều, việc gặp tác dụng phụ rất khó tránh khỏi và sẽ nặng hơn, thậm chí nguy kịch vì ngộ độc thuốc. Tuyệt đối không dùng kết hợp cả miếng dán và thuốc uống, thuốc tiêm chống say xe. 
Việc dùng nhiều loại thuốc cùng lúc sẽ khiến thần kinh trung ương và toàn thân bị chi phối bởi nhiều loại thuốc, tình trạng quá liều luôn thường trực, tai biến, ngộ độc do thuốc luôn cận kề, chưa kể những tương tác cộng hưởng thuốc sẽ khiến cơ thể phải chịu những hậu quả khó lường.
Những lưu ý đặc biệt
Trước khi dùng miếng dán chống say xe, cần tuân theo sự hướng dẫn về cách dùng như: thời điểm dán, dán trong bao lâu, nơi dán, khoảng cách giữa hai lần dán... để hạn chế các tác dụng phụ có thể gặp phải. Nên dán miếng dán vào vùng da khô sau tai từ 4 - 6 giờ trước khi khởi hành, bởi đó là thời gian cần thiết để thuốc trong miếng dán thẩm thấu qua da và phát huy tác dụng (nếu sáng hôm sau đi thì nên dán vào ngay buổi tối trước khi đi ngủ). 
Không được dán ở nơi da bị kích thích hay trầy xước vì sẽ làm tăng sự thẩm thấu qua da của hoạt chất này và có thể gây ngộ độc. Không dùng miếng dán chống say xe cho phụ nữ có thai và trẻ em dưới 8 tuổi. Trẻ em trên 8 - 15 tuổi thì dùng nửa miếng dán.
Khi dùng miếng dán chống say xe mà thấy có triệu chứng bất thường như: nhìn mờ, hoa mắt, nhức đầu, ảo giác... thì phải bóc miếng dán khỏi da ngay. Nếu thấy sức khỏe giảm sút, cần tới bác sĩ khám để được can thiệp kịp thời. Sau khi dán hoặc gỡ miếng dán nên rửa tay thật kỹ để thuốc không dính vào đồ ăn, thức uống, vô tình được đưa vào cơ thể sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Báo động tử vong do dùng thuốc quá liều

Bất chấp mọi nỗ lực để chống lại sự bùng phát của nhóm thuốc gây nghiện, con số tử vong do quá liều dùng đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Theo Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát bệnh tật (CDC) thì việc dùng thuốc quá liều và việc sử dụng heroin là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến các ca tử vong tại Mỹ, gia tăng 14% từ năm 2013 đến 2014.
Năm qua, có 47.055 người tử vong do dùng thuốc quá liều, cao hơn con số chết do tai nạn giao thông gấp 1,5 lần. Nhóm thuốc opioids chiếm 61% trong tất cả các ca tử vong vì dùng thuốc quá liều.
Theo số liệu mới nhất của CDC thì tử vong do các loại opioids thiên nhiên như: morphine, codein...; các loại thuốc giảm đau bán tổng hợp như oxycodon và hydrocodone tăng vọt 10% từ năm 2013 đến 2014. Tử vong vì quá liều heroin tăng 26%. Nhưng những thuốc giảm đau tổng hợp lại chiếm đến 80% ca tử vong - con số lớn nhất trong cuộc khảo sát. 
Cũng theo CDC, sự gia tăng những cái chết vì opiod tổng hợp trùng khớp với con số báo cáo về việc gia tăng các xưởng sản xuất fentanyl bất hợp pháp. Hầu hết những người sử dụng heroin trước đây đang bắt đầu chuyển qua dùng thuốc giảm đau opioid tổng hợp vì có cấu trúc hóa học tương tự, cùng gắn vào một thụ thể trên não bộ, nên việc sử dụng những loại thuốc giảm đau này ngoài bớt đau còn gây cảm giác khoan khoái.
Từ năm 2000 đến nay, con số tử vong vì dùng thuốc opiod quá liều đã tăng 200%, tương đương với gần nửa triệu người đã mất mạng.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Cẩn trọng khi dùng thuốc trị hen cho người cao tuổi

Việc dùng thuốc trị hen cho NCT sao cho an toàn là điều mà cả thầy thuốc, người bệnh và người nhà bệnh nhân đều quan tâm.
Nguyên nhân gây hen ở NCT
Các yếu tố thuận lợi làm cho bệnh hen xuất hiện ở NCT như nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp hay mạn tính do vi sinh vật có hại (vi khuẩn, virut, vi nấm) như viêm họng mạn tính, viêm xoang, viêm phế quản, giãn phế quản do lạnh đột ngột hoặc lạnh kéo dài trong khi mặc không đủ ấm hoặc phòng ngủ không kín, bị gió lùa, mắc chứng hen sữa từ nhỏ... 
NCT bị hen có thể do gặp phải kháng nguyên lạ từ môi trường sống như: lông súc vật, phấn hoa, thực phẩm (tôm, cua…), khói, bụi đường, khói thuốc lá, thuốc lào. Nấm mốc cũng là một nguyên nhân được nhắc tới nhiều trong căn nguyên gây nên bệnh hen suyễn. NCT thường mắc nhiều bệnh và phải dùng thuốc, trong đó một số loại thuốc có thể gây bệnh hen.
Biểu hiện của hen suyễn thường là: ho, khó thở, khò khè, thời kỳ đầu có thể khó thở từng cơn có tính chất chu kỳ, đôi khi liên quan đến thời tiết, các chất tiếp xúc… Sau cơn khó thở thường ho, có đờm loãng...
Lòng phế quản bị thu hẹp ở người bệnh hen 
Khó khăn trong điều trị
Việc điều trị hen cho NCT gặp nhiều khó khăn hơn người trẻ vì: NCT thường mắc nhiều bệnh: đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh tim... nên hằng ngày phải dùng đều đặn nhiều thứ thuốc, đôi khi sự tương tác giữa các thuốc làm giảm hiệu quả và gây ra tác dụng phụ.
Người bệnh không nhận biết sớm các triệu chứng bệnh trở nặng nên không thể xử trí kịp thời. Người bệnh có thể quên uống thuốc hoặc bỏ thuốc làm tái phát cơn hen mặc dù đã được kiểm soát. NCT dễ bị tác dụng phụ khi dùng thuốc hơn người trẻ. 
Hơn nữa, do cấu trúc và chức năng của đường hô hấp bị biến đổi và suy giảm do quá trình lão hóa nên sự đáp ứng với thuốc cũng kém đi. NCT thường gặp khó khăn trong việc sử dụng các thuốc dạng hít và thiết bị máy móc. 
Vì vậy, sự giúp đỡ, hỗ trợ của người thân hoặc người chăm sóc rất cần thiết trong việc kiểm soát bệnh hen cho NCT, giúp người bệnh có thể dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ, theo dõi và phát hiện khi bệnh trở nặng cũng như những biến chứng do bệnh hoặc do thuốc gây ra.
Sử dụng thuốc
Thuốc dùng để điều trị hen gồm hai nhóm chính là thuốc chống co thắt phế quản để cắt cơn hen và thuốc chống viêm.
Chống co thắt phế quản
Các thuốc nhóm kích thích ß2 adrenergic (còn gọi là thuốc chủ vận ß2) hiện là thuốc hiệu quả và hay dùng nhất trong việc cắt cơn hen. 
Trong các thuốc thuộc nhóm này, người ta chia làm 2 loại căn cứ vào thời gian tác dụng của thuốc gồm: Thuốc tác dụng ngắn là salbutamol, terbutalin (bricanyl), fenoterol, có khởi phát tác dụng nhanh và thời gian tác dụng chỉ kéo dài từ 4 - 6 giờ. 
Thuốc tác dụng chỉ kéo dài: salmeterol, formoterol có thời gian tác dụng kéo dài khoảng 12 giờ. Các thuốc dùng để cắt cơn hen này nên dùng dưới dạng hộp có liều định chuẩn (MDI) để xịt họng khi có cơn khó thở hoặc dạng ống khí dung. Để dự phòng cơn hen về đêm thì nên dùng salbutamol tác dụng kéo dài hoặc salmeterol uống buổi tối.
Thuốc nhóm kháng cholinergic: Tác dụng giãn cơ trơn do ức chế thụ cảm thể muscarinic ở cơ trơn phế quản, ức chế phó giao cảm, tác dụng cắt cơn hen kém hiệu quả hơn so với nhóm kích thích ß2 adrenergic, tác dụng chậm hơn nhưng thời gian kéo dài hơn. 
Thuốc hay được sử dụng trong nhóm này là ipraptopium bromide (hộp xịt họng) hoặc dùng dạng phối hợp với fenotenol hoặc dùng dạng xịt họng đóng trong hộp có liều định chuẩn.
Thuốc chống viêm
Các thuốc hay dùng prednisolon, methylprednisolon dùng đường tiêm trong cơn hen cấp tính nặng. Khi đã cắt cơn thì nên dùng thay bằng đường uống hoặc corticosteroide tại chỗ. Corticosteroid tại chỗ: becotid (beclomethasone), pulmicort (budesonide): dùng dạng xịt hít, nếu hen chưa ổn định có thể khí dung.
Lưu ý khi dùng thuốc hen cho NCT
Tác dụng phụ của các thuốc điều trị hen cũng thường gặp ở NCT hơn so với người trẻ. Người bệnh thường rất nhạy cảm với các tác dụng phụ của thuốc, nhất là những người có bệnh tim mạch kết hợp. Khả năng đào thải thuốc kém cũng làm cho bệnh nhân hen lớn tuổi có nguy cơ cao bị ngộ độc thuốc. 
Những bệnh nhân uống thuốc chống viêm hoặc dùng đường hít kéo dài trong điều trị các đợt hen cấp có nguy cơ cao bị loãng xương nên cần được bổ sung canxi và vitamin D để dự phòng loãng xương.
Để phòng bệnh, cần hạn chế tiếp xúc với tác nhân gây bệnh như len, dạ, bụi, khói thuốc, các chất khử mùi, các loại dầu thơm...; tránh dùng thực phẩm và gia vị làm bùng phát cơn hen.
Một số loại thuốc thường dùng có thể gây kịch phát cơn hen hoặc làm triệu chứng hen nặng thêm như: aspirin và các thuốc kháng viêm điều trị viêm khớp, giảm đau.
Thuốc ức chế beta điều trị tăng huyết áp và bệnh tim hoặc thuốc nhỏ mắt có chứa chất ức chế beta điều trị glaucome có thể làm cho cơn hen nặng hơn. Vì thế, khi đi khám bệnh, NCT cần báo cho bác sĩ những thuốc mình đang dùng.
Khi nào bệnh nhân hen cần nhập viện?
Trong quá trình điều trị hen, nếu NCT có những dấu hiệu sau đây thì cần phải nhập viện ngay: Cơn hen rất nặng hoặc không đáp ứng tốt với điều trị. Chức năng phổi kém trên phế dung ký. Có tiền sử phải nhập viện hoặc phải dùng máy giúp thở trong cơn hen. Bệnh nhân mắc kèm bệnh nặng về phổi hoặc tổn thương phổi như viêm phổi hoặc tràn khí màng phổi (xẹp phổi)…


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc giải rượu: có giải được rượu?

Nắm bắt được tâm lý muốn uống rượu bia mà không “xỉn”, một số hãng dược phẩm đã tung ra thị trường hàng loạt sản phẩm gọi là “viên giải rượu”. Viên giải rượu có hiệu quả như mong muốn không?
Bia, rượu, nước giải khát có gas, rượu đế, rượu nếp than, rượu thuốc, rượu mạnh đóng chai… là những sản phẩm chứa chủ yếu là ethanol. Độ rượu là tỷ lệ thể tích ethanol trên thể tích dung dịch. Ví dụ: rượu đế 40 độ tức là trong 100ml rượu có 40ml ethanol, 1ml ethanol nặng khoảng 0,79g.
Rượu và quá trình chuyển hóa, đào thải
Về mặt khoa học, rượu là một dung dịch gồm nước và ethanol (trong đó ethanol chiếm từ 1 - 50% tính theo thể tích, vì vậy được gọi là rượu từ 10 - 500). 
Ngoài các thành phần chính trên, rượu còn chứa một lượng nhỏ các chất riêng biệt của mỗi nhà sản xuất nhằm tạo nên mỗi loại rượu một màu sắc, một hương vị đặc thù: bia 4 - 8%, rượu vang 8 - 12%, vokda 37 - 45%, rượu nếp tự nấu 30 - 45%, wisky 40 - 50%, brandy 45%...
Không có thuốc nào giải được rượu
Làm xét nghiệm cồn trong máu cho ta kết quả dưới dạng Xmg/dl hay Xmg% tức là trong 100ml máu có Xmg rượu. Nồng độ cồn trong máu 150mg/ dl là vượt quá ngưỡng tham gia giao thông (80mg%); 120 - 160mg/dl: say rượu nặng; trên 300mg/dl: mất ý thức, hôn mê với suy tim và suy hô hấp; trên 500mg/dl: nồng độ gây chết. Vậy uống bao nhiêu là đủ? 
Theo WHO thì cứ 1kg thể trọng trong một ngày chỉ nên đưa vào cơ thể 1g ethanol = 1,2ml cồn nhưng phải chia đều ra trong 1 ngày. 
Trong 1 lít bia có chứa 40 - 80ml cồn, vậy một người nặng khoảng 70kg thì trong một ngày đêm chỉ nên uống lượng bia tối đa từ 1 - 1,2 lít nhưng phải chia đều ra. 
Còn khi uống quá liều theo khuyến cáo thì sao? Khi rượu vào cơ thể, lượng rượu được hấp thu hoàn toàn trực tiếp vào máu 20% ở dạ dày, 80% ở ruột non.
Tốc độ hấp thu vào máu của rượu nhanh hay chậm, tùy thuộc vào dạ dày đầy hay đang trống, khi đói thì tốc độ hấp thu của rượu càng nhanh hơn, làm người ta mau say hơn lúc no bụng. 
Sau khi được hấp thu, rượu vào máu và phân tán đến khắp các mô tế bào cơ thể, có thể vượt qua nhau thai, tìm thấy trong cịch não tủy và tích tụ ở não. 
Vì vậy, có thể xác định nồng độ rượu trong bất cứ dịch sinh lý nào (nước tiểu, máu, dịch não tủy, hơi thở…). Quá trình đào thải chủ yếu qua chuyển hóa qua gan (khoảng 90%), còn lại được đào thải qua mồ hôi, nước tiểu và hơi thở…
Khi vào cơ thể rượu tác động chính đến 2 cơ quan là thần kinh trung ương và gan.
Ở thần kinh trung ương: rượu ức chế thứ tự từ trên xuống, đầu tiên là vỏ não, tiểu não, tủy sống cuối cùng là trung tâm hành tủy. Cho nên khi uống một lượng nhỏ rượu sẽ thấy dễ chịu, uống nhiều gây an thần, mất ức chế, giảm khả năng phán đoán, nói líu nhíu, mắt hoa và trở nên hung dữ hơn.
Ở gan: trong cơ thể gan đóng vai trò là một nhà máy thải độc, khi rượu vào thì gan chuyển hóa thành những chất không độc đào thải ra khỏi cơ thể. Đây chính là khả năng chuyển hóa giải độc rượu của gan.
Quá trình này hoạt động tốt khi có dự hiện diện của men xúc tác tên là NAD (nadnicotintamid - ademin - dinuclentid) do gan sản xuất với số lượng hạn chế để có đủ khả năng chuyển hóa từ 7 -10g/giờ (tương đương khoảng 1 ly bia hay 1 chung rượu nhỏ). 
Điều này cho thấy khi uống quá nhiều bia rượu gan không kịp sản xuất đủ lượng men để chuyển hóa giải độc rượu. Khi đó lượng rượu tích tụ lại trong cơ thể, gây độc cho cơ thể, đặc biệt gan là cơ quan chịu tác động trực tiếp.
Về lâu dài tác hại càng nguy hiểm, đầu tiên chỉ gây ra hiện tượng đầy bụng khó tiêu, đó là giai đoạn đầu của tổn thương thực thể đến gan, về sau gây ra các bệnh gan nhiễm mỡ, viêm gan, xơ gan và cuối cùng là ung thư gan đưa đến tử vong.
Không có thuốc nào giải được rượu, bảo vệ gan
Các viên thuốc giải rượu có mặt trên thị trường hiện nay có rất nhiều: RU-21, tiếp là ME-21, Mewol-21 và gần đây góp mặt trên thị trường là Voskyo. Các viên thuốc này có thành phần tương tự nhau, chủ yếu gồm đường, vitamin B1, B6, PP, acid glutamic, acid fumaric, acid succinic. 
Thực chất, các chất này không phải là thuốc mà là một dạng thực phẩm chức năng. Nó có tác dụng bổ trợ một phần trong quá trình chuyển hóa rượu, chứ chưa có tài liệu nào chứng minh tác dụng bảo vệ hoặc phục hồi cơ quan dễ bị rượu làm tổn hại là gan hoặc triệt tiêu tác dụng của rượu trên hệ thần kinh trung ương để làm mất đi trạng thái “xỉn”.
Khi uống nhiều rượu thường xuất hiện trạng thái đau đầu, cho nên người uống nhiều rượu thường dùng thêm các chế phẩm có aspirin, paracetamol, kháng viêm không csteroid... 
Điều này càng làm ảnh hưởng xấu thêm cho chức năng gan. Khi phối hợp các thuốc này với rượu sẽ làm kích ứng niêm mạc đường tiêu hóa gây xuất huyết tiêu hóa. Nếu nồng độ paracetamol trong máu cao, vượt quá khả năng khử độc của gan gây hoại tử tế bào gan hàng loạt, gây ra biểu hiện viêm gan cấp. 
Ngoài ra, người uống nhiều rượu còn dùng một số loại thuốc tráng dạ dày để uống rượu cho lâu say như phosphalugel, kremil-s, maalox... Thực chất những thuốc này chỉ làm chậm quá trình hấp thu rượu vào máu thôi chứ không phải những thuốc này bao hết đường tiêu hóa để rượu không hấp thu được vào máu.
Như vậy, không có một “thần dược” nào giúp cho con người uống rượu không say. Uống thuốc giải rượu để tăng “đô” khi đi nhậu chỉ chuốc họa vào thân. Có những trường hợp được ghi nhận là suýt mất mạng vì tưởng mình có thuốc giải rượu nên cứ uống. Chưa nói đến sự nguy hiểm khi gặp phải rượu giả.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons