Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

Cần nghĩ lại việc dùng thuốc hạ huyết áp

Nhiều mạng sống có thể được cứu nếu các bác sĩ xem xét việc sử dụng thuốc hạ huyết áp cho tất cả bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh tim, thậm chí nếu huyết áp của họ bình thường.

Nghiên cứu này kêu gọi bãi bỏ việc sử dụng những hướng dẫn hiện hành khuyên bác sĩ chỉ dùng thuốc cho bệnh nhân nếu huyết áp của họ trên một ngưỡng nào đó.
Nhưng các chuyên gia cũng ghi nhận các yếu tố lối sống đóng một vai trò quan trọng trong việc làm giảm huyết áp theo nghiên cứu công bố trên tạp chí khoa học Lancet.
Cao huyết áp được xem là nguy cơ dẫn đến bệnh tim và đột quỵ. Những hướng dẫn hiện này gợi ý bệnh nhân chỉ cần dùng thuốc khi huyết áp của họ đạt ngưỡng 140 mmHg.
Trước khi đạt đến chỉ số này ngay cả với những người có nguy cơ cao nhất, thí dụ bị đột quỵ, họ vẫn được theo dõi chứ không phải dùng thuốc.
Giờ đây, một nhóm chuyên gia quốc tế kêu gọi các bác sĩ nên tập trung vào những nguy cơ của bệnh nhân thay vì ngưỡng huyết áp “võ đoán” và cứng nhắc.
Bệnh nhân cần được dùng thuốc dựa vào nguy cơ của họ hơn là dựa trên các con số máy móc
Bệnh nhân cần được dùng thuốc dựa vào nguy cơ của họ hơn là dựa trên các con số máy móc
Các chuyên gia đã phân tích kết quả của hơn 100 thử nghiệm phạm vi lớn ảnh hưởng trên 600.000 người từ năm 1996 đến 2015.
Họ thấy rằng những bệnh nhân có nguy cơ cao nhất – gồm người hút thuốc lá có lượng cholesterol máu cao và người trên 65 tuổi mắc bệnh tiểu đường – có thể nhận được lợi ích nhiều nhất từ việc điều trị, nghĩa là giảm được nguy cơ bịnhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Thêm vào đó, nghiên cứu cũng gợi ý một khi điều trị, mức huyết áp có thể được giảm nhiều hơn mục tiêu được sử dụng hiện nay. Tuy nhiên, nghiên cứu lại thấy rằng mức huyết áp của bệnh nhân bắt đầu được điều trị càng thấp thì lợi ích nhận được từ đó càng thấp.
Các tác giả không đi quá xa để gợi ý mọi bệnh nhân phải dùng thuốc và lưu ý những tác dụng phụ của thuốc cần phải được xem xét.
GS Liam Smeeth thuộc Trường y học nhiệt đới và vệ sinh London thừa nhận các khám phá này rất quan trọng đối với những người có nguy cơ cao. Nhưng ông cảnh báo: “Không phải mọi bệnh nhân có khả năng dung nạp thuốc để giảm được huyết áp và cần phải cân bằng các tác dụng phụ của thuốc với những lợi ích”.
Trong khi đó chuyên gia tim mạch Tim Chico của đại học Sheffield (Anh quốc) cho rằng thuốc men không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết vấn đề. Ông nói: “Chúng ta có thể làm giảm huyết áp bằng những cách an toàn, rẻ tiền và hiệu quả như thuốc đó là ăn uống lành mạnh, tăng cường vận động, giảm bớt rượu bia và duy trì cân nặng lý tưởng”.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Dùng thuốc trầm cảm khi nuôi con bú được không?

Trầm cảm nếu không được điều trị có thể phá hủy “mối quan hệ mẹ - con”, tai hại hơn nữa, nếu nặng người mẹ sẽ có nhận thức không đúng về con, phát sinh những ý nghĩ tiêu cực...

Tại sao cần dùng thuốc trầm cảm?
Estrogen, progesteron tăng cao khi mang thai, rồi giảm đáng kể sau sinh. Sau sinh, chỉ có 50% vượt qua được cảm giác buồn chán. Còn lại có 15% bị trầm cảm nhẹ, xuất hiện ở ngày thứ ba với triệu chứng bực bội, gắt gỏng, dễ khóc, sau một tuần sẽ trở lại bình thường. Cũng có trường hợp trầm cảm nhẹ xuất hiện từ tuần lễ thứ nhì sau sinh, có thể kéo dài tới một năm sau. 
Thời gian này người mẹ không được gia đình, bạn bè chăm sóc, hỗ trợ như sau khi mới sinh; người mẹ thường cảm thấy lo lắng băn khoăn không biết con mình rồi có khỏe mạnh không, mình đã chăm sóc con đúng cách chưa, luôn luôn tự trách mình chưa làm tốt việc chăm sóc con cái, có lỗi, trong khi bản thân mình ở trong tình trạng mỏi mệt; người mẹ cảm thấy đời sống thực tế không như mong đợi, có nhiều khó khăn hơn khi có con. 
Thay đổi về hoóc-môn xảy ra trước đó có thể làm cho người mẹ có khuynh hướng bị bệnh tâm thần dễ bị trầm cảm song những yếu tố về gia đình xã hội cũng có vai trò không nhỏ làm xuất hiện trầm cảm. 
Cứ 500 người sinh thì có 1 người bị trầm cảm nặng: hoang tưởng, ảo giác; có người cho rằng cuộc đời đầy đau khổ, không nên đưa con mình vào cuộc đời đó; có người cho con mình có vấn đề, thậm chí có người còn giết con chỉ vì cho rằng giết con là cách giúp nó được chết yên ổn. Trường hợp trầm cảm nặng này cần được điều trị tại bệnh viện.
Theo bảng này, chỉ những thuốc có liều tương đối trẻ em tối đa không vượt quá 3% được coi là thuốc chắc chắn an toàn cho trẻ bú mẹ (bà mẹ dùng được), số còn lại có liều tương đối trẻ em lớn hơn 5% không chắc chắn an toàn với trẻ bú mẹ (bà mẹ có thể dùng song phải cân nhắc), đặc biệt loại thuốc có liều tương đối trẻ em gần sát 8 - 9% hoặc 10% là không an toàn với trẻ bú mẹ (bà mẹ không nên dùng). Một nguyên tắc là cần có kế hoạch chữa trầm cảm ổn định mới mang thai, nhưng cũng có trường hợp vì một lý do nào đó mà khi mang thai bà mẹ bị trầm cảm. Trong trường hợp này, thầy thuốc lựa chọn thuốc thích hợp dùng cho người mang thai (vì nhìn chung thuốc trầm cảm không gây hại thai nhưng có một số ít gây bất lợi cho thai). Người nào trong thời kỳ mang thai dùng thuốc trầm cảm thì sau khi sinh nếu có trầm cảm thì nên dùng loại thuốc đã dùng an toàn trong thời kỳ mang thai.
Phần lớn thuốc trầm cảm tiết vào sữa mẹ nhưng với nồng độ thấp, ít khi đạt được 10% liều của mẹ dùng
Trầm cảm nếu không được điều trị sẽ có thể phá hủy “mối quan hệ mẹ - con”, tai hại hơn nữa, nếu nặng người mẹ sẽ có nhận thức không đúng về con, phát sinh những ý nghĩ tiêu cực, do đó việc dùng thuốc trầm cảm là cần thiết. Trong khi đó, nuôi con bằng sữa mẹ là tốt nhất, đang được khuyến khích? Vậy có dùng thuốc trầm càm khi nuôi con bú được không, dùng thế nào?
Thuốc trầm cảm trong sữa mẹ và cách dùng thuốc an toàn?
Muốn trả lời được câu hỏi trên phải biết liều thuốc trầm cảm nào ở trẻ em là an toàn, thuốc nào có thể đạt được sự an toàn ấy?
Liều tương đối ở trẻ em được tính bằng phần trăm liều của bà mẹ tính bằng mg/kg/ngày. Nếu liều tương đối của trẻ em dưới 10% liều của bà mẹ dùng thì được coi là liều an toàn cho trẻ bú mẹ.
Phần lớn thuốc trầm cảm tiết vào sữa mẹ nhưng với nồng độ thấp, ít khi đạt được 10% liều của mẹ dùng. Ví dụ: paroxetin, sretralin tiết vào sữa mẹ ít, nên liều tương đối của trẻ em chỉ bằng 0,5 - 3% so với liều của bà mẹ, do đó được xem là an toàn với trẻ bú mẹ.
Trong một phân tích gộp gồm 57 nghiên cứu dùng thuốc trầm cảm nortriptylin, paroxein, sretralin trong thời gian nuôi con bằng sữa mẹ, có 200 trẻ dược thử thấy: nồng độ thuốc trong máu trẻ ở dưới mức có thể đo được. Trái lại, fluoxetin, citalopram lại ở mức có thể đo được trên một số trẻ nhưng thường không quá cao.
Bất lợi do thuốc trầm cảm gây ra cho trẻ được báo cáo trong một số ca đơn lẻ hay hàng loạt ca bao gồm các triệu chứng như: quấy khóc, bú ít, rối loạn giấc ngủ, có tính kín đáo, không có tính đặc hiệu, đôi khi cũng không hẳn là do thuốc trầm cảm gây ra. Báo cáo này thường có với fluoxetin và citalopram nhưng không có với paroxetin và sertralin.
Theo đó, các nhà nghiên cứu và thực hành lâm sàng đưa ra lời khuyên: nên dùng paroxetin, sertralin; không nên dùng fluoxetin, citalopram.
Không phải đơn vị y tế tuyến nào cũng định lượng được nồng độ thuốc trầm cảm ở máu trẻ để đưa ra một quyết định dùng chính xác. Các nhà nghiên cứu và thực hành đã đưa ra Bảng liều tương đối của trẻ (tính bằng phần trăm) so với liều của bà mẹ dùng (tính thep mg/kg/ngày). Tham khảo bảng này sẽ và đánh giá mức độ an toàn đối vói trẻ từ đó có hướng dùng thuốc cho bà mẹ đúng.
Bảng liều tương đối của trẻ so với liều bà mẹ dùng
Theo bảng này, chỉ những thuốc có liều tương đối trẻ em tối đa không vượt quá 3% được coi là thuốc chắc chắn an toàn cho trẻ bú mẹ (bà mẹ dùng được), số còn lại có liều tương đối trẻ em lớn hơn 5% không chắc chắn an toàn với trẻ bú mẹ (bà mẹ có thể dùng song phải cân nhắc), đặc biệt loại thuốc có liều tương đối trẻ em gần sát 8 - 9% hoặc 10% là không an toàn với trẻ bú mẹ (bà mẹ không nên dùng).
Một nguyên tắc là cần có kế hoạch chữa trầm cảm ổn định mới mang thai, nhưng cũng có trường hợp vì một lý do nào đó mà khi mang thai bà mẹ bị trầm cảm. Trong trường hợp này, thầy thuốc lựa chọn thuốc thích hợp dùng cho người mang thai (vì nhìn chung thuốc trầm cảm không gây hại thai nhưng có một số ít gây bất lợi cho thai). Người nào trong thời kỳ mang thai dùng thuốc trầm cảm thì sau khi sinh nếu có trầm cảm thì nên dùng loại thuốc đã dùng an toàn trong thời kỳ mang thai.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Cần phát hiện bất thường trong khi dùng thuốc

Sau bữa đi ăn thịt chó về, ông Lân thấy ngón chân cái có biểu hiện đỏ lên, sưng tấy và rất đau. Ngày hôm sau đau đến nỗi ông không đi được, mặt lúc nào cũng nhăn nhó. Gia đình bàn đi tính lại, cuối cùng quyết định chở ông lên bệnh viện để khám xem sao. Bác sĩ khám rồi cho làm xét nghiệm, chẩn đoán ông bị gút (người ta còn gọi là bị thống phong). 
Bác sĩ kê đơn thuốc và dặn ông cần uống thuốc theo đúng chỉ định, dặn kỹ ông nếu khi uống thuốc thấy những biểu hiện khác thường thì đến gặp bác sĩ ngay. Bác sĩ còn dặn dò ông tránh uống rượu, không ăn quá nhiều đạm động vật, rồi hẹn ngày tái khám.
Bác sĩ cũng cho ông biết về những biến chứng của gút như có thể dẫn đến viêm khớp mạn tính, biến dạng khớp, hủy hoại khớp. Một số ít có thể bị sỏi thận hoặc nặng hơn nữa là suy thận. Nghe vậy nên ông Lân tự nhủ: Mình phải uống thuốc cho đầy đủ.
Cần phát hiện bất thường trong khi dùng thuốc 1
Triệu chứng điển hình của bệnh gút là sưng, nóng đỏ, đau ở các khớp một cách đột ngột. Ảnh: TL 
Thuốc trị gút ông dùng có tên là colchicin. Trên đường về nhà ông sốt sắng nói cậu con trai cả rẽ ngay vào hiệu thuốc bên đường mua về uống luôn. Đến ngày thứ ba các triệu chứng sưng, đau khớp đã giảm, ông đi lại được, song cũng từ hôm uống thuốc bụng ông lại chẳng yên tý nào. 
Thi thoảng ông lại thấy đau bụng, buồn nôn, rồi có lần ông nôn thật. Lại thấy có những triệu chứng (mặc dù không giống lần trước) song cũng khó chịu không kém nên chưa đến ngày tái khám ông lại nhờ cậu con trai đưa lên bệnh viện để hỏi bác sĩ:
- Thưa bác sĩ, được bác sĩ cho thuốc uống, bệnh của tôi đã đỡ song tôi lại cứ thấy đau bụng, buồn nôn…
Và ông được bác sĩ giải thích:
- Đó là tác dụng không mong muốn của thuốc. Đối với thuốc này có tác dụng điều trị gút rất tốt song bên cạnh đó lại có nhược điểm là có thể gây ra các triệu chứng như bác đã gặp phải. Khi phải dùng với liều cao thuốc có thể gây tiêu chảy nặng, chảy máu dạ dày - ruột, nổi ban, tổn thương thận hoặc viêm thần kinh ngoại biên, rụng tóc, rối loạn về máu (trị liệu dài ngày)… 
Tuy nhiên các triệu chứng này chỉ xảy ra ở một số ít người dùng thuốc. Một lời khuyên cho những người dùng thuốc này là khi uống thuốc mà thấy có biểu hiện rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, đau bụng, nôn và tiêu chảy cần ngừng dùng thuốc vì đó là các dấu hiệu báo động sớm về khả năng có thể sẽ bị ngộ độc nặng hơn. 
Trị liệu chỉ được tiếp tục khi hết các triệu chứng trên và thường sau 24 - 48 giờ. Bây giờ đến đây rồi bác hãy an tâm nhé, chúng cháu sẽ khám lại và có thể thay sang dùng thuốc khác.
- May quá, tôi nhớ lời dặn dò của bác sĩ nên kịp thời phát hiện ra những bất thường khi dùng thuốc và đến với bác sĩ ngay.

MÙA ĐÔNG DỄ GÂY RA TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO, ĐỘT QUỴ CHO NGƯỜI MẮC BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP. NHỮNG SAI LẦM NHIỀU NGƯỜI ĐANG MẮC PHẢI DƯỚI ĐÂY SẼ KHIẾN BỆNH THÊM NẶNG.


Các bạn trẻ từ 25 tuổi trở lên cũng cần phải kiểm tra huyết áp định kỳ để sớm phát hiện bệnh. Ảnh: P.T
Các bạn trẻ từ 25 tuổi trở lên cũng cần phải kiểm tra huyết áp định kỳ để sớm phát hiện bệnh. Ảnh: P.T
Sai lầm thường hay gặp
PGS.TS Hà Hoàng Kiệm – giảng viên Khoa Nội (Học viện Quân Y) cho biết,tăng huyết áp (THA) là bệnh lý thường gặp nhất trong các bệnh lý tim mạch. Nhiều trường hợp những biểu hiện của bệnh THA không được rõ ràng nên người bệnh chủ quan. Cũng từ đó đã có những lầm tưởng hết sức nguy hiểm về căn bệnh này.
* Tăng huyết áp là do thần kinh căng thẳng
Một số người nghĩ rằng, THA là do bị căng thẳng về thần kinh. Bởi vậy họ thường chỉ uống thuốc khi bản thân cảm thấy khó chịu, căng thẳng về tinh thần. Nhưng THA không chỉ do căng thẳng về tinh thần mà nó là một bệnh. Có những người dù sống trong điều kiện thoải mái, nhẹ nhàng vẫn bị THA.
* Ngừng thuốc khi huyết áp về bình thường
Sau khi uống thuốc một thời gian, trị số huyết áp trở lại mức bình thường, nhiều người liền ngừng uống thuốc vì cho rằng đã hoàn toàn khỏe mạnh, uống tiếp sẽ gây tụt huyết áp. Điều này thực sự nguy hiểm vì huyết áp đã về bình thường là do tác dụng của thuốc, nếu ngừng thuốc huyết áp sẽ tăng trở lại. 
Hơn nữa, khi huyết áp tăng cao thường không có biểu hiện gì đặc biệt nên người bệnh khó nhận biết và có thể gây ra các tai biến nguy hiểm. Điều trị THA chủ yếu là điều trị triệu chứng và phải điều trị lâu dài, liên tục nên phần lớn người THA đều phải uống thuốc huyết áp suốt đời.
*Chỉ người già mới bị
GS.TS Nguyễn Lân Việt - Giám đốc Ban quản lý Dự án Phòng, chống tăng huyết áp cho biết, không hiếm người cho rằng chỉ người cao tuổi mới bị THA. Không phải chỉ người cao tuổi mới mắc bệnh và càng không phải người trẻ tuổi là không mắc bệnh. 
Theo điều tra gần đây của Viện Tim mạch Việt Nam tại 8 tỉnh, thành phố của nước ta, tỷ lệ THA của những người từ 25 tuổi trở lên đã là 25,1%. Trong đó có 52% không biết mình bị THA; 30% số người biết bị THA nhưng không điều trị; 64% số người biết bị THA đã được điều trị nhưng không đạt huyết áp mục tiêu.
* Mùa lạnhkhông nên chơi thể thao
Do bệnh THA có thể dẫn đến tai biến mạch máu não hoặc nhồi máu cơ tim nên nhiều người nghĩ không nên chơi thể thao, nhất là mùa lạnh càng nên kiêng. Thực tế, người THA cần phải luyện tập một cách đều đặn để giúp ổn định huyết áp, mạch máu lưu thông…
Người THA có thể chọn một số môn nhẹ nhàng như đi bộ, chạy chậm, bơi lội, bóng bàn… Nên tập vừa sức mình, tốt nhất là mỗi ngày tập 20 - 30 phút hoặc tập 3 lần mỗi tuần, không nên tập kéo dài hơn về thời gian và nặng về cường độ. Nhiều nghiên cứu cho thấy, người bệnh THA vận động tay chân thường xuyên trong ngày rất tốt cho tim mạch.
Sống khỏe với bệnh tăng huyết áp trong mùa lạnh
PGS.TS Hà Hoàng Kiệm cho biết, huyết áp về mùa đông tăng cao hơn huyết áp về mùa hè khoảng 5mmHg. Hơn nữa, huyết áp rất khó khống chế do nhiệt độ thấp, các mao mạch sẽ co lại để thân nhiệt ổn định, giảm bớt sự tỏa nhiệt khiến lực cản huyết quản điều tiết bên ngoài tăng lên. Mồ hôi lại ra ít khiến dung lượng máu tăng lên. Nhiệt độ thay đổi đột ngột, nguy cơ chủ yếu là gây ra biến chứng, đặc biệt là xuất huyết não, đứt mạch máu do thiếu máu và tử vong do nhồi máu cơ tim.
Có rất nhiều nguyên nhân gây nên THA, tuy nhiên khoảng >95% các trường hợp không phát hiện được nguyên nhân. Để sống khỏe với THA trong mùa lạnh, người mắc bệnh THA cần tuân thủ việc khám, điều trị và uống đều đặn thuốc huyết áp. Không nên tùy tiện dừng uống bởi sẽ dễ THA đột biến sau 40 giờ ngừng thuốc.
Ngoài ra, cần điều chỉnh một số thói quen sinh hoạt để phù hợp với tình trạng sức khỏe. Nên tắm bằng nước ấm và tuyệt đối tránh tắm quá lâu hoặc tắm khuya. Không nên tắm gội cùng một lúc, ra ngoài tập thể dục vào lúc sớm vì lúc này nhiệt độ còn thấp, sự chênh lệch với nhiệt độ cơ thể dễ khiến các mạch máu co lại, tăng nguy cơ huyết áp. 
Thậm chí, bệnh nhân có thể bị đột quỵ hoặc tai biến mạch máu não. Tốt nhất vận động trong nhà trong những ngày giá lạnh. Khi ra ngoài nên mặc quần áo ấm, nhất là giữ ấm đầu, cổ, bàn chân để tránh nguy cơ bị nhiễm lạnh. Hạn chế những yếu tố gây lo âu quá mức, không nên quá căng thẳng, bức xúc…
Theo GS.TS Nguyễn Lân Việt, để điều trị THA, người bệnh cần sử dụng một số thuốc hạ áp để đạt được huyết áp mục tiêu. Tuy nhiên có một số trường hợp THA kháng trị (đã sử dụng từ 3 loại thuốc hạ áp trở lên, trong đó đã có thuốc lợi tiểu) nhưng vẫn chưa đạt được huyết áp mục tiêu (< 140/90 mmHg). Trong trường hợp này gần đây người ta có áp dụng một kĩ thuật mới là triệt phá các thần kinh giao cảm quanh động mạch thận bằng sóng RF.
Việc điều chỉnh lối sống hợp lý phối hợp với điều trị các bệnh lý khác và yếu tố nguy cơ đi kèm cũng hết sức cần thiết. Cần hình thành chế độ ăn nhạt, không sử dụng rượu, bia và các chất cồn quá nhiều, hạn chế ăn mỡ động vật và thức ăn chứa nhiều cholesterol. Nên ăn những thực phẩm giàu dinh dưỡng như thịt nạc, gà, cá, sữa và chế phẩm từ đậu. Không hút thuốc vì nó ảnh hưởng đến nội mạc của mạch máu, gây ra xơ vữa mạch và gây nhồi máu cơ tim.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

Bác sĩ dinh dưỡng khuyên bà bầu uống axit folic như thế nào cho đúng

Axit folic (folate) là vitamin B cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển bình thường của mọi tế bào trong cơ thể.


Theo bác sĩ dinh dưỡng Ngọc Thư, phụ nữ mang thai cần bổ sung khoảng 400 microgram axit folic (vitamin B9) mỗi ngày, kể từ khi muốn có thai (thời điểm ngừng sử dụng các biện pháp tránh thai) cho đến khi thai nhi được 12 tuần tuổi.
Axit folic là chất dinh dưỡng cần thiết để bảo vệ bé chống lại các vấn đề liên quan đến não và tủy sống như bệnh nứt đốt sống. Đây là một dị tật ống thần kinh xảy ra ở thai nhi do một vài ống thần kinh xung quanh hệ thần kinh trung ương không khép kín hoàn toàn. Ngoài ra, axit folic có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển và phân chia các tế bào trong cơ thể bé.
Ống thần kinh là bó dây thần kinh chạy bên trong xương sống có chức năng kết nối não với các cơ quan còn lại của cơ thể thai nhi. Ống thần kinh phát triển trong vài tuần đầu tiên của thai kỳ. Ở giai đoạn này, nhiều phụ nữ còn chưa biết rằng mình đang mang thai. 
Trên thực tế, chúng ta không thể biết chính xác thời điểm mang thai, vì vậy mẹ bầu nên uống axit folic ngay khi có dự định sinh em bé. Một số nghiên cứu cho thấy axit folic cũng có thể ngăn ngừa dị tật tim ở trẻ và các dị tật bẩm sinh về miệng như hở môi, vòm miệng.
Nếu bị thiếu axit folic trong khi mang thai thì bà mẹ có thể bị thiếu máu hồng cầu khổng lồ, nguy cơ sảy thai cao, sinh non, suy dinh dưỡng bào thai và khuyết tật của ống thần kinh (nứt đốt sống, não úng thủy, thai vô sọ). Đặc biệt, những thai phụ đang điều trị bệnh động kinh grain sốt rét càng cần được bổ sung chất này vì các thuốc họ dùng có thể gây thiếu hụt axit folic.
Trong thai kỳ, mỗi ngày chị em cần uống một viên vitamin có chứa 600 microgam axit folic. Phần lớn phụ nữ không cần nhiều hơn 1000 microgam axit folic mỗi ngày. Nhưng một số phụ nữ, chẳng hạn như những người đã từng có một thai kỳ bị ảnh hưởng bởi dị tật ống thần kinh hoặc phụ nữ bị bệnh hồng cầu liềm, có thể cần lượng axit folic nhiều hơn.
Bên cạnh đó, có thể bổ sung acid folic từ một số loại trái cây và rau củ như đậu (đậu lăng, đậu pinto, đậu đen); rau xanh (đặc biệt là rau bina và rau diếp Romaine); măng tây; bông cải xanh; đậu phộng (không ăn nếu bạn bị dị ứng đậu phộng); trái cây có múi như cam và bưởi; nước cam (loại cô đặc là tốt nhất), cà chua, bơ, bánh mỳ, ngũ cốc.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Những loại thuốc cần có trong túi xách nhân viên văn phòng

Ngày nay bạn dễ dàng mua được thuốc tại các nhà thuốc nhưng có những khi đột xuất không thể mua. Tốt nhất nên chuẩn bị vài loại thuốc thiết yếu trong túi xách để khi cần thì có ngay.
Thuốc giảm đau và hạ sốt
Chuẩn bị sẵn một ít thuốc có thành phần paracetamol để giảm đau và hạ sốt. Mỗi loại thuốc có liều lượng, thành phần, mức độ công hiệu không hoàn toàn giống nhau. Các hoạt chất như ibuprofen, acetaminophen có trong các loại thuốc này cũng là thành phần phổ biến trong thuốc ho, cảm, dị ứng… 
Bạn cần đọc kỹ nhãn thuốc trước khi dùng chung với các loại thuốc khác để tránh vô tình uống quá liều quá liều. Đặc biệt, khi sử dụng thuốc hạ sốt, các lần dùng nên cách nhau khoảng 4 giờ, nếu dùng quá liều có thể gây ngộ độc.
Thuốc cảm cúm, ho
Dự trữ một ít thuốc ho dextromethorphan, thuốc cảm... Đây là các loại thuốc không cần kê đơn, nhưng người dùng nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi uống, đặc biệt là thai phụ.
Thuốc đau bụng
Smecta, hydrite là thuốc đau bụng nên có trong túi xách của dân văn phòng để phòng trường hợp bị bệnh tiêu chảy và mất nước. Chú ý pha đúng tỷ lệ được hướng dẫn trên bao bì sản phẩm để tránh ngộ độc. Ngoài ra chị em nên chú ý đến các loại thuốc giảm đau bụng kinh khi đến chu kỳ.
Thuốc dị ứng
Có rất nhiều loại thuốc cũng như dạng thuốc dùng để chống dị ứng như thuốc kháng histamin, các thuốc corticosteroid... Khi dùng các thuốc này nên tham khảo ý kiến bác sĩ để tránh những tác dụng phụ.
Các loại thuốc đặc trị riêng
Những người có tiền sử bệnh như hen, xoang, cao huyết áp, mắc bệnh lý riêng... luôn phải có thuốc đi theo người để phòng tránh những bất trắc.
Thuốc sát trùng
Loại thuốc cần có là lọ betadine, thuốc sát trùng thông dụng để sát trùng vết thương ngoài da, đồng thời chống nhiễm trùng cho vết thương.
Nước muối sinh lý
Dung dịch NaCl 0,9% (còn gọi là nước muối sinh lý) dùng để nhỏ mắt, mũi, hay súc miệng.
Kem/thuốc bôi
Đừng quên mang theo những tuýp kem, thuốc chữa và ngừa côn trùng đốt; thuốc mỡ giúp làm lành những vùng da, môi bị nứt nẻ hoặc bôi một lớp mỏng ở mũi để giảm xót.
Bông, băng, gạc y tế
Nên có sẵn vài miếng bông, băng dán cá nhân, băng gạc và băng dính để vệ sinh, băng vết thương nếu không may bị trầy xước cơ thể. 
Cao dán
Nên chuẩn bị một ít cao dán salonpas để chữa cơn đau bên ngoài, sơ cứu đau nhức các cơ và khớp, đau lưng, viêm khớp, vết bầm tím và bong gân.
Nhiệt kế
Bạn có thể tự đo nhiệt độ khi bị sốt ngay tại văn phòng mà không cần đến phòng y tế nếu có một chiếc nhiệt kế thông minh trong túi xách


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Dị ứng, chọn thuốc gì?

Dị ứng là hiện tượng cơ thể phản ứng khi tiếp xúc với các dị nguyên. Các triệu chứng dị ứng có thể xuất hiện ngay trong vài giây nhưng cũng có thể muộn hơn sau vài ngày hoặc vài tuần sau khi cơ thể tiếp xúc với dị nguyên.
Các bệnh do dị ứng thường gặp
Hoạt động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể con người diễn ra rất phức tạp nên cũng có nhiều nguy cơ xảy ra các sai sót và dị ứng là một trong những sai sót đó. Hiện tượng dị ứng là một dạng phản ứng có hại của hệ thống miễn dịch đối với các tác nhân từ môi trường sống mà bình thường vốn ít nguy hại.
Các loại phản ứng viêm dị ứng và dẫn tới các bệnh lý liên quan đến dị ứng thường gặp là hen phế quản, viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng, mày đay, sốc phản vệ chàm… Biểu hiện và mức độ của các triệu chứng dị ứng ở mỗi cá thể tùy thuộc vào loại bệnh bị mắc, mức độ mẫn cảm của cơ thể cũng như số lượng và cách tiếp xúc của dị nguyên gây bệnh.
Cần loại bỏ một số dị nguyên gây dị ứng
Điều trị bệnh như thế nào?
Để điều trị các bệnh dị ứng nói chung thì cơ bản là phải tránh tiếp xúc với các dị nguyên gây bệnh, sử dụng các thuốc chống dị ứng nhằm giảm triệu chứng và thuốc làm giảm mẫn cảm đặc hiệu.
Thuốc chống dị ứng
Do phản ứng viêm dị ứng với sự giải phóng của các hoạt chất trung gian là cơ chế gây bệnh chủ yếu của hầu hết các bệnh dị ứng nên các thuốc chống dị ứng hiện nay đều được phát triển theo hướng tác dụng ức chế phản ứng viêm dị ứng hoặc kháng lại các hoạt chất trung gian, giúp giảm các triệu chứng dị ứng cấp tính. 
Trong những năm gần đây, đã có nhiều nhóm thuốc chống dị ứng mới ra đời theo xu hướng này, trong đó có các thuốc kháng histamin thế hệ mới, kháng leukotrien, kháng thromboxan, kháng các cytokin của tế bào T, ổn định màng tế bào mast và nhiều tác nhân kháng lại các tế bào và phân tử khác.
- Thuốc kháng histamin: Vai trò quan trọng của histamin và thụ thể histamin H1 trong các bệnh dị ứng đã được hiểu biết ngày càng đầy đủ. Các loại thuốc thế hệ mới cũng đã ra đời ngày càng nhiều với mục đích tăng cường hiệu quả và giảm thiểu khả năng tương tác thuốc cũng như các tác dụng có hại của thuốc. 
Các thuốc kháng H1 và thế hệ 2 như loratadin, cetirizin, fexofenadin, levocetirizin, deslorratadin… hiện được ưa sử dụng hơn so với các thuốc thế hệ cũ do thuốc thế hệ mới ít gây buồn ngủ và tác dụng nhanh, ít nguy cơ gây tương tác thuốc và ít tác dụng phụ hơn so với chế phẩm gốc.
- Các thuốc kháng Leukotrien: Leukotrien là một nhóm các hoạt chất trung gian có vai trò không nhỏ trong các phản ứng viêm dị ứng và có thể trực tiếp gây ra nhiều triệu chứng dị ứng như co thắt cơ trơn phế quản, tăng tiết dịch nhày, giãn mạch… 
Hiện nay, khá nhiều thuốc kháng leukotrien ra đời như montelukast, zafirlukast, zileuton hiệu quả và tính an toàn của các thuốc này đã được chứng minh trong điều trị các bệnh dị ứng như mày đay mạn tính, viêm mũi dị ứng, hen phế quản.
Thuốc giảm mẫn cảm đặc hiệu
- Thuốc kháng IgE: Kháng thể IgE có vai trò hết sức quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của hen phế quản và nhiều bệnh lý dị ứng khác. Sự kết hợp của kháng thể này với kháng nguyên gây bệnh sẽ khởi động chuỗi phản ứng viêm dị ứng. 
Các thuốc kháng IgE tổng hợp như omalizumab có khả năng liên kết và bất hoạt các kháng thể IgE tự do gây giảm nồng độ kháng thể IgE tự do trong máu tới 90%. Nhiều nghiên cứu gần đây đã cho thấy omalizumab có hiệu quả tốt trong điều trị các trường hợp hen phế quản nặng, không đáp ứng với các thuốc điều trị khác.
- Các thuốc kháng thromboxan A2: Do có một số bằng chứng về vai trò của thromboxan A2 trong đợt cấp và quá trình phát triển của các bệnh dị ứng nên các nhà khoa học đã có ý tưởng sử dụng các chất kháng lại hoạt chất này trong điều trị các bệnh dị ứng. Hiện nay, các thuốc kháng thromboxan A2 như ozagrel, ramatroban và seratridust đã được chứng minh hiệu quả rõ rệt trong điều trị các triệu chứng viêm mũi dị ứng.
- Thuốc kháng cytokin của tế bào lympho Th2: Các tế bào lympho Th2 đặc hiệu kháng nguyên được cho là có vai trò khởi phát các phản ứng dị ứng. Điều này đã đưa đến khả năng kiểm soát các bệnh dị ứng bằng cách sử dụng các thuốc ức chế các cytokin của tế bào Th2, suplatast là một trong những dẫn xuất đầu tiên của nhóm này. 
Thuốc đã được chứng minh là có khả năng ức chế sản xuất các kháng thể dị ứng IgE, ngăn ngừa sự xuất hiện các đợt dị ứng cấp tính ở chuột. Hiện nay, nghiên cứu sử dụng các thuốc này trên lâm sàng vẫn đang tiếp tục được tiến hành và có thể là một hướng đi nhiều hứa hẹn.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Người bệnh cần lưu ý gì khi dùng thuốc lợi tiểu?

Thuốc lợi tiểu là thuốc có tác dụng làm tăng sự đào thải muối và nước ở thận, do đó làm giảm lượng nước trong hệ thống tuần hoàn cũng như nước ở các không gian bào. Vậy nhóm thuốc này dùng khi nào và cần chú ý gì khi sử dụng?
Các loại thuốc lợi tiểu
Thuốc lợi tiểu có thể chia thành 3 nhóm chính sau:
Nhóm thuốc lợi tiểu thiazid: gồm có các thuốc như clorothiazid, hydroclorothiazid... (nghĩa là trong cấu trúc hoá học của các thuốc thuộc nhóm này có nhân thiazid). Vị trí tác động của nhóm thuốc này là ở ống lượn xa nằm ở vỏ thận làm tăng bài tiết muối, do đó sẽ làm thải nước tiểu. 
Đây là nhóm thuốc lợi tiểu được sử dụng ưu tiên trong điều trị tăng huyết áp do hiệu quả hạ áp cao hơn các nhóm lợi tiểu khác. Biến chứng có thể gặp khi dùng nhóm thiazid là hạ kali máu do tăng sự bài tiết kali vào trong nước tiểu.
Nhóm thuốc lợi tiểu tác động ở quai Henlé: Vị trí tác động của nhóm thuốc là nhánh trên của quai Henlé nằm trên vùng tủy thận, có tác dụng lợi tiểu rất mạnh và làm mất natri nhanh hơn nhóm thiazid nên thích hợp dùng trong truờng hợp suy tim và phù nặng. Gồm có flurosemid, acid ethacrynic, bumetamid... Nhóm này cũng gây hạ kali máu.
Người bệnh cần lưu ý gì khi dùng thuốc lợi tiểu? 1
Thuốc lợi tiểu được sử dụng khi bị tăng huyết áp
Hai nhóm thuốc trên được gọi là thuốc "bài tiết" kali
Nhóm thuốc lợi tiểu tiết kiệm kali: Nhóm thuốc này tác động lên đoạn cuối của ống lượn xa gồm có spironolacton, triamteren, amilorid... Tác dụng lợi tiểu của nhóm này yếu nhưng do có khả năng giữ kali nên thường được phối hợp với thuốc thuộc nhóm thiazid hoặc lợi tiểu quai Henlé. Biến chứng của nhóm này là đôi khi gây tăng ure máu, sỏi thận, chứng to vú ở nam giới...
Ngoài ba nhóm thuốc chính kể trên còn có một số nhóm lợi tiểu khác thường dùng trong những trường hợp đặc biệt như: nhóm thuốc lợi tiểu thẩm thấu (manitol, glycerin) dùng trong phẫu thuật tim, phẫu thuật thần kinh và phẫu thuật mắt, nhóm thuốc lợi tiểu ức chế men carbonic anhydras (acetazolamid) dùng trị tăng nhãn áp.
Dùng trong trường hợp nào?
Thuốc lợi tiểu thường được chỉ định trong các trường hợp sau:
Bị bệnh tăng huyết áp: Thuốc làm tăng đào thải nước tiểu, làm giảm khối lượng nước trong cơ thể nên gián tiếp làm hạ huyết áp. Trong một số trường hợp, thuốc lợi tiểu có thể dùng duy nhất nhưng thường được kết hợp làm tăng thêm tác dụng của các thuốc hạ huyết áp.
Bị suy tim: Thuốc lợi tiểu gián tiếp làm giảm khối lượng máu lưu hành, làm giảm tiền gánh, tạo điều kiện cho tim đã bị suy yếu hoạt động tốt hơn.
Bị phù: Thuốc lợi tiểu giúp tăng cường đào thải nước bị ứ trong cơ thể do bị bệnh về phổi (phù phổi), gan (xơ gan), thận (hội chứng thận hư)...
Và những lưu ý
Có nhiều thuốc lợi tiểu mà việc chọn lựa sẽ tuỳ theo vào sự chỉ định điều trị, vào nồng độ thải natri mong muốn, vào thời gian tác dụng của thuốc, vào tác dụng phụ đặc hiệu của mỗi loại thuốc và vào tình trạng chức năng thận của người bệnh. Chỉ có thầy thuốc là người am hiểu cơ chế tác động của từng nhóm thuốc mới chọn thuốc thích hợp.
Trong điều trị tăng huyết áp thường chọn thuốc có tác dụng thải natri vừa phải và kéo dài (như nhóm thiazid). Còn điều trị phù, sự lựa chọn thuốc sẽ tuỳ thuộc vào mức độ cần thải muối. Muốn có tác dụng nhanh, đặc biệt trong phù phổi các nhà điều trị thường dùng thuốc có tác động ở quai Henlé uống và cả tiêm tĩnh mạch. Trong suy thận, người ta chỉ có thể dùng thuốc tác động ở quai chứ không dùng các nhóm thuốc khác.
Khi đã dùng thuốc, người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ theo đúng liệu trình dùng thuốc do bác sĩ chỉ định, không được tự ý ngưng, bỏ thuốc nửa chừng dù cảm thấy khỏe hơn. Có người cho rằng dùng thuốc lợi tiểu đi tiểu nhiều là "thoát dương", giảm kỷ, yếu thận và liệt dương nên đã không tuân thủ điều trị, bỏ thuốc nửa chừng. 
Điều này không nên, chỉ có spironolacton dùng liều cao và lâu ngày có thể gây tình trạng "yếu sinh lý" nhưng ngưng thuốc sẽ hồi phục. Vì vậy, người bệnh nên báo cho thầy thuốc biết tác dụng ngoại ý để thầy thuốc xử trí bằng cách thay thuốc khác chứ không nên tự ý bỏ thuốc.
Giống như mọi trường hợp cần điều trị kéo dài, khi đang dùng thuốc lợi tiểu cần tránh dùng các thuốc có tương tác bất lợi. Tức là khi đang dùng thuốc lợi tiểu không nên tự ý dùng đồng thời các thuốc khác mà phải hỏi ý kiến của bác sĩ điều trị. 
Hoặc phải kể cho bác sĩ rõ các thuốc đang dùng khi được chỉ định thuốc lợi tiểu để bác sĩ chỉ định thuốc thích hợp. Ví dụ: thuốc lợi tiểu tác động ở quai Henlé nếu dùng đồng thời với kháng sinh cephalosporin sẽ làm tăng độc tính của cephlosporin và bác sĩ sẽ tránh cho dùng thuốc kiểu phối hợp này.
Khi bác sĩ chỉ định kết hợp thuốc lợi tiểu "bài tiết" kali và thuốc lợi tiểu "tiết kiệm" kali vẫn phải theo dõi tình trạng kali máu của người bệnh vì cân bằng của cơ thể vẫn có thể nghiêng về hoặc tăng hoặc giảm kali quá mức.
Trong cơ thể, chất điện giải natri và kali đồng hành khăng khít với nhau. Các thuốc lợi tiểu thông dụng (nhóm thiazid và tác động ở quai Henlé) có tác dụng thải natri đồng thời làm mất kali. Trong khi đó kali lại đóng vai trò rất quan trọng trong co bóp tim và duy trì thể trạng tốt. 

Vì vậy, người dùng thuốc lợi tiểu nên ăn nhiều chuối, uống nhiều nước cam để được bổ sung kali. Hoặc dùng thuốc lợi tiểu mà lại có triệu chứng vọp bẻ (chuột rút), yếu cơ, mệt mỏi, khát nhiều, bất an, mạch nhanh phải đến bác sĩ khám ngay. Có khi bác sĩ cho dùng thêm thuốc bù kali mới giải quyết được tình trạng mất kali do dùng thuốc lợi tiểu.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons