Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

Phát hiện thuốc giảm đau gây nguy cơ đông máu

Trong một bài viết trên tạp chí Thấp khớp, xuất bản ngày 24/9, cho biết việc sử dụng các loại , kháng viêm không steroid (NSAIDs) có thể làm tăng nguy cơ máu đông ở tĩnh mạch. 
Những loại máu đông bao gồm huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) và thuyên tắc phổi (PE). Nguy cơ xuất hiện máu đông ở những bệnh nhân sử dụng  thuốc NSAID đã tăng lên đến 80%, các tác giả nghiên cứu cho hay. 
Thuốc giảm đau có thể gây đột qụy hoặc nhồi máu cơ tim vì hiện tượng cục máu đôngThuốc giảm đau có thể gây đột qụy hoặc nhồi máu cơ tim vì hiện tượng cục máu đông. Ảnh minh họa
Phân tích dựa trên 6 nghiên cứu cho thấy có 21.401 bệnh nhân đã mắc huyết khối tĩnh mạch (VTE), tức là xuất hiện cục máu đông trong tĩnh mạch. Ngoài ra, ngày 24/9 Health Day cũng thông tin chi tiết về mối tương quan giữa việc sử dụng thuốc giảm đau NSAIDs và nguy cơ tăng hiện tượng cục máu đông. 
Thuốc chống viêm không steroid được tìm thấy trong các loại thuốc theo toa cũng như trong các loại chế phẩm có tác dụng giảm đau và hạ sốt. Học viện chuyên Gải phẫu Chỉnh hình Mỹ đã liệt kê các thành phần phổ biến nhất trong NSAID bao gồm: aspirin, ibuprofen và naproxen thuộc những thương hiệu như Advil, Motrin, Aleve và nhiều sản phẩm aspirin do công ty Bayer sản xuất. Acetaminophen không nằm trong danh sách thuốc NSAID, tuy nhiên nó vẫn có thể được tìm thấy trong công thức của loại thuốc này.  
Đơn thuốc NSAIDs gồm chất ức chế COX-2. Vioxx và Bextra đã bị cấm khỏi thị trường do nguy cơ khiến bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ và các chứng bệnh lâm sàng Cleveland Clinic .. 
Celebrex vẫn có mặt trong toa thuốc nhưng tương tự như NSAIDs, thuốc này cũng được cảnh báo làm tăng nguy cơ đột quỵ hoặc đau tim cho người sử dụng.
Mặt khác, thành phần COX-2 trong thuốc gây nguy cơ chảy máu đường tiêu hóa ít hơn so với các loại thuốc giảm đau khác và có thể phù hợp hơn đối với một nhóm bệnh nhân nhất định. 
Tờ Health Day đã trích dẫn lời của TS Steven Carsons, trưởng phân khoa bệnh thấp khớp, dị ứng và miễn dịch học tại BV Đại học Winthrop, cho rằng aspirin tiếp tục là một loại thuốc ngăn ngừa hiện tượng cục máu đông hiệu quả. Ông cũng nhận định thêm việc sử dụng naproxen không làm tăng nguy cơ đông máu. 
Tuy nhiên, hiện tượng huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi có thể đe dọa đến tính mạng người bệnh, Trung tâm kiểm soát dịch bệnh.
Máu đông gây nguy hiểm nhất khi chúng hình thành trong mạch máu ở tim và não, hoặc chảy từ những khu vực khác trong cơ thể đến. Hiện tượng này dễ gây đột quỵ hoặc nhồi máu cơ nhiệt khi cục máu đông chặn dòng lưu thông đến các bộ phận của não hoặc tim. 
Acetaminophen là thành phần hoạt chất trong hàng loạt các loại thuốc như Tylenol. Cho dù thuốc theo toa hay mua riêng lẻ tại các quầy, thì thành phần này luôn được sử dụng để giảm đau và hạ sốt tương tự như NSAIDs. 
Tuy nhiên, đây không phải là một loại thuốc kháng viêm không steroid, vì vậy Acetaminophen gây nguy cơ tổn thương gan. Đặc biệt, bệnh nhân không nên dùng nhiều hơn 4.000 mg Acetaminophen mỗi ngày. 
Tóm lại, bệnh nhân cần tham khảo ý kiến của bác sĩ và các hướng dẫn sử dụng kèm theo về các loại thuốc giảm đau hoặc hạ sốt trước khi dùng. Cả NSAIDs và Acetaminophen có trong hàng loạt các dược phẩm khác nhau. Hơn nữa, liều lượng tích lũy trong một số thuốc còn vượt giới hạn an toàn cho phép.


Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

Thuốc mới điều trị ung thư da giai đoạn cuối

Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ mới đây đã phê chuẩn Odomzo (sonidegib) để điều trị cho bệnh nhân ung thư tế bào biểu mô giai đoạn cuối cục bộ đã tái phát sau phẫu thuật hoặc xạ trị, hoặc các bệnh nhân không thể làm phẫu thuật hoặc xạ trị.
Ung thư da là dạng ung thư phổ biến nhất và ung thư tế bào biểu mô chiếm khoảng 80% trong tổng số các loại ung thư không phải là u hắc tố (non-melanoma). Ung thư tế bào biểu mô bắt đầu từ tầng da đầu tiên (gọi là lớp biểu bì) và thường phát triển ở những vùng đã từng thường xuyên tiếp xúc với ánh mặt trời và các dạng tia cực tím khác. 

Theo Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ, số lượng ca mắc mới ung thư da không phải u hắc tố có vẻ như đang tăng theo từng năm. Ung thư tế bào biểu mô giai đoạn cuối cục bộ là ung thư tế bào biểu mô chưa lan ra các phần khác của cơ thể, nhưng không thể được chữa trị bằng phẫu thuật và xạ trị.
Odomzo là thuốc viên dùng một lần mỗi ngày có tác dụng ngừng hoặc làm chậm lại sự phát triển của các tổn thương do ung thư. Tuy nhiên, thuốc cần được cảnh báo có nguy cơ gây chết thai hoặc dị tật bẩm sinh nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh nếu người mẹ sử dụng khi mang thai. 

Các bệnh nhân nên kiểm tra tình trạng mang thai của mình trước khi điều trị bằng Odomzo và cả bệnh nhân nam lẫn bệnh nhân nữ nên được cảnh báo về các nguy cơ của thuốc và được khuyên sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả.
Một số tác dụng phụ của thuốc có thể xảy ra như co cơ, rụng tóc, rối loạn vị giác, mệt mỏi, buồn nôn, đau cơ xương, tiêu chảy, sút cân, chán ăn, đau cơ, đau bụng, đau đầu, nôn mửa và ngứa. 

Odomzo cũng có khả năng gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng trên cơ xương, bao gồm tăng creatine kinase huyết thanh (với các báo cáo hiếm gặp về sự tiêu cơ vân, co thắt cơ, và nhức gân).


Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Độc tính của thuốc gây tê tại chỗ

Các loại thuốc gây tê tại chỗ như novocain, lidocain, bupivacain thường được sử dụng để giảm đau trong các thủ thuật và tiểu phẫu thuật ở ngoài da và niêm mạc hoặc để phong bế các dây thần kinh cảm giác.
Nói chung, nếu được sử dụng đúng cách, các thuốc này thường chỉ tác dụng tại chỗ mà ít được hấp thu vào máu nên ít gây tác dụng phụ toàn thân. Bên cạnh các phản ứng dị ứng, tình trạng nhiễm độc do nồng độ thuốc trong máu cao quá mức cho phép cũng là một trong các tác dụng phụ thường gặp nhất với nhóm thuốc này.
Sau khi gây tê, nồng độ thuốc tê có thể tăng cao trong máu vì nhiều lý do khác nhau như thuốc gây tê được tiêm vào mạch máu, tốc độ tiêm quá nhanh, dùng vượt quá liều quy định hoặc do thuốc hấp thu vào máu quá nhanh khi gây tê ở một vùng giàu mạch máu (đặc biệt là các vùng niêm mạc).
Khi phong bế thần kinh liên sườn bằng các thuốc gây tê, thuốc cũng hấp thu nhanh hơn so với khi tiêm dưới da nên nồng độ thuốc trong máu cũng có thể tăng cao.
Các biểu hiện của nhiễm độc thuốc gây tê
Nhiễm độc thuốc gây tê chủ yếu ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương và hệ tim mạch, trong đó, các biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương thường gặp hơn và xảy ra sớm hơn so với các biểu hiện ở hệ tim mạch.
Các biểu hiện nhiễm độc cấp tính thường xảy ra do nồng độ thuốc tăng nhanh trong máu. Do đó, khi tiêm nhanh một liều nhỏ của thuốc gây tê cũng có thể gây ra các biểu hiện nhiễm độc cấp tính.
Độc tính của thuốc gây tê tại chỗ
Biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương: Các biểu hiện do kích thích hệ thần kinh trung ương thường xảy ra sớm, giai đoạn muộn là các biểu hiện do tác dụng ức chế thần kinh của thuốc.
Những trường hợp nhẹ hoặc trong giai đoạn sớm, người bệnh thường có biểu hiện hoa mắt, chóng mặt, ù tai, tê bì đầu chi, rối loạn vị giác, lú lẫn và buồn ngủ. Trong quá trình tiêm, thầy thuốc cần liên tục hỏi bệnh nhân về cảm giác của họ, nếu có dấu hiệu nghi ngờ có nhiễm độc thuốc, cần ngay lập tức ngừng tiêm.
Những trường hợp nặng, người bệnh có thể co giật, mất ý thức, hôn mê, suy hô hấp và ngừng thở. Tùy thuộc vào loại thuốc và tốc độ tăng của nồng độ thuốc trong máu, bệnh nhân có thể tỉnh lại sau một thời gian ngắn.
Các biểu hiện ở hệ tim mạch: Ở các trường hợp nhiễm độc nhẹ hoặc trong giai đoạn sớm, người bệnh thường có nhịp tim nhanh và tăng huyết áp, đặc biệt là khi thuốc gây tê được tiêm kết hợp với adrenalin. Sau đó người bệnh thường biểu hiện nhịp tim chậm và tụt huyết áp.
Những trường hợp nặng, người bệnh có trụy tim mạch và rối loạn nhịp tim do tác dụng gây độc trực tiếp của thuốc tê trên tế bào cơ tim. Nói chung, bupivacain có độc tính trên cơ tim cao hơn so với lidocain. Rối loạn nhịp tim do thuốc gây tê có thể rất nặng và dai dẳng, khó điều trị. Nồng độ thuốc gây tê đủ để gây trụy tim mạch thường cao gấp 4-7 lần nồng độ thuốc đủ để gây ra co giật.
Độc tính của thuốc gây tê tại chỗ
Dự phòng
Để giảm thiểu nguy cơ nhiễm độc thuốc gây tê tại chỗ, cần sử dụng đúng liều thuốc, lựa chọn những thuốc ít độc tính, giảm liều thuốc ở những người bệnh lớn tuổi hoặc có thể trạng gày yếu, tiêm thuốc chậm và lưu ý rút pit tông liên tục trong khi tiêm xem có máu ra không để đề phòng tiêm vào mạch máu.
Tiêm thuốc gây tê đồng thời với adrenalin (epinephrin) cũng là một biện pháp có thể giúp giảm tốc độ hấp thu thuốc vào máu. Các nghiên cứu cho thấy, việc tiêm phối hợp với adrenalin gây giảm nồng độ tối đa của thuốc gây tê trong máu khoảng 50%. Adrenalin thường được pha ở nồng độ 1/200.000, với liều tối đa là 200 microgam.
Cần lưu ý là việc tiêm phối hợp với adrenalin sẽ không giúp giảm được độc tính của thuốc gây tê nếu hỗn hợp thuốc được tiêm vào mạch máu.
Nên đặt sẵn đường truyền tĩnh mạch và chuẩn bị các thuốc và phương tiện cấp cứu trước khi gây tê. Sau khi gây tê, người bệnh cũng cần được theo dõi tại cơ sở y tế để phát hiện sớm các độc tính của thuốc có thể xảy ra sau đó.
Điều trị
Nếu người bệnh có các dấu hiệu nghi ngờ nhiễm độc thuốc gây tê trong quá trình tiêm, cần ngay lập tức ngừng tiêm và mở đường truyền tĩnh mạch. Phải đảm bảo thông thoáng đường thở và cho bệnh nhân thở ôxy nồng độ cao nếu có. Cung cấp đủ ôxy giúp ngăn ngừa tổn thương não, tình trạng co giật và các rối loạn nhịp tim khó kiểm soát.
Nếu bệnh nhân co giật, có thể dùng diazepam tiêm tĩnh mạch hoặc đặt hậu môn. Các trường hợp hôn mê phải nhanh chóng đặt ống nội khí quản và cho bệnh nhân thở máy. Nếu bệnh nhân bị trụy tim mạch, cần điều trị bằng truyền dịch và các thuốc co mạch như ephedrin.
Nếu ephedrin không hiệu quả, có thể dùng adrenalin dung dịch 1:1000 tiêm dưới da 0,3ml hoặc dung dịch 1:10,000 tiêm tĩnh mạch chậm 0,5 - 1ml. Điều trị các rối loạn nhịp tim nếu có, ép tim khi có ngừng tuần hoàn.
Nhiễm độc thuốc gây tê thường có tiên lượng tốt nếu người bệnh được phát hiện và điều trị sớm. Tình trạng nhiễm độc thường nhanh chóng hồi phục nếu được điều trị đúng.


Dùng thuốc ngủ đúng cách

Đối với một số người, việc sử dụng thuốc ngủ sẽ đem lại cảm giác minh mẫn, nhanh nhẹn mỗi khi thức dậy. Nhưng cũng có những người lại phải chịu đựng cảm giác mệt mỏi, uể oải do tác dụng phụ của thuốc ngủ gây nên. Do đó khi dùng thuốc ngủ cần lưu ý một số điểm sau đây:

- Thuốc ngủ có thể giúp giảm nhanh các triệu chứng của chứng mất ngủ. Nó có thể giúp bạn nâng cao được chất lượng giấc ngủ và chống được triệu chứng mệt mỏi vì thiếu ngủ. Thuốc ngủ cũng phát huy tác dụng rất tốt khi bạn đang trong quá trình điều trị, có vấn đề gì trong cuộc sống và cần chìm vào giấc ngủ ngay. 

Tuy nhiên nó chỉ có tác dụng tốt nhất khi được dùng trong một thời gian ngắn. Nếu muốn điều chỉnh các rối loạn của giấc ngủ hoặc muốn chữa trị mất ngủ bằng thuốc ngủ thì hoàn toàn không phải là phương pháp thích hợp. 
Bạn có thể điều trị thuốc ngủ chỉ trong thời gian ngắn khi bạn đang tìm ra và “dứt điểm” nguyên nhân gây ra chứng mất ngủ của bạn để điều chỉnh. Nên dùng liều thấp nhất có hiệu quả trong một thời gian ngắn nhất, nói chung không dùng lâu hơn 3 tuần và không dùng mỗi đêm.
- Một số loại thuốc ngủ có thể gây ra các phản ứng phụ như chứng buồn nôn hoặc lơ mơ cả ngày hoặc có thể gây nghiện nếu như bạn dùng nó nhiều hơn vài tuần. Các tác dụng này có thể nguy hiểm cho người già vì dễ té ngã và những người đang điều khiển máy móc hoặc lái xe.
Dùng thuốc ngủ lâu ngày gây lờn thuốc (dùng một liều cao hơn để có kết quả như nhau) và lệ thuộc thuốc (gây triệu chứng uể oải khi ngưng dùng thuốc).

- Thuốc ngủ có rất nhiều loại khác nhau. Thế nên tốt nhất trước khi quyết định dùng nó, bạn phải theo chỉ dẫn của bác sĩ. Không tự dùng thuốc ngủ hoặc dùng lại đơn thuốc ngủ mà không thông qua bác sĩ.

- Không uống thuốc ngủ với rượu và với bất kỳ loại thuốc nào khác có ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh trung ương.

- Không dùng thuốc ngủ cho trẻ em và phụ nữ mang thai. Những người bị bệnh đường hô hấp cũng không nên dùng thuốc ngủ vì nó ảnh hưởng đến sự điều hòa chức năng thở ở não.

- Thuốc ngủ được chuyển hóa ở gan và được bài tiết qua thận nên nếu chức năng gan, thận bị suy yếu, thuốc ngủ sẽ tồn tại trong cơ thể lâu dài hơn, do đó những người bị bệnh gan, thận, người cao tuổi càng hạn chế dùng thuốc ngủ càng tốt.


Cảnh báo sức khỏe khi sử dụng dầu cá sai cách

Dầu cá là loại thuốc hoặc thực phẩm chức năng (TPCN) có dạng viên nang mềm chứa vitamin, tan trong dầu hoặc chất bổ dưỡng, được dùng để bồi dưỡng sức khỏe.

Tuy nhiên, nếu dùng sai cách, người sử dụng có thể nhận lấy những hậu quả khôn lường.

Cảnh báo sức khỏe khi sử dụng dầu cá sai cách

Dầu cá thông dụng hiện chia làm 2 loại: Dầu cá chứa vitamin tan trong dầu là vitamin A, D và loại chứa axít béo omega-3, omega-6. Hai loại dầu cá này được nhiều người mua sử dụng, đặc biệt dùng cho trẻ nhưng sự hiểu biết về chúng có khi còn hạn chế.
Cảnh báo sức khỏe khi sử dụng dầu cá sai cách (Ảnh minh họa)Cảnh báo sức khỏe khi sử dụng dầu cá sai cách (Ảnh minh họa)

Sử dụng dầu cá sai cách do dùng chung với các thuốc hạ huyết áp, thuốc tránh thai

Dùng dầu cá với các thuốc hạ huyết áp có thể làm tăng tác dụng của các thuốc này và có thể giảm huyết áp quá mức cần thiết, khiến bạn mệt mỏi, chóng mặt, buồn nôn. Đồng thời dùng dầu cá chung với viên thuốc tránh thai có thể ảnh hưởng làm giảm tác dụng của dầu cá.
Sử dụng dầu cá sai cách làm giảm đáp ứng miễn dịch của cơ thể
Dầu cá liều cao có thể làm giảm đáp ứng miễn dịch của cơ thể, gây ra vấn đề với những người vốn đã có hệ miễn dịch yếu sẵn.
Sử dụng dầu cá sai cách làm tăng nguy cơ nhịp tim không đều ở những bệnh nhân cấy máy khử rung
Một số nghiên cứu cho thấy dầu cá có thể làm tăng nguy cơ nhịp tim không đều ở những bệnh nhân cấy máy khử rung. Để an toàn tốt nhất là nên tránh các chế phẩm dầu cá.
Sử dụng dầu cá sai cách vì dùng trong thời gian đang hóa trị ung thư
Trên tạp chí Cancer Cell, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khuyến cáo đến các bệnh nhân ung nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng chất bổ sung như viên dầu cá khi họ phát hiện thấy chúng có thể kìm hãm sự tác động của các thuốc hóa trị.
Các thử nghiệm được tiến hành trên loài chuột chỉ ra rằng các tế bào gốc trong máu phản ứng với thuốc  trị ung thư phổ biến cisplatin, đặc biệt ung thư buồng trứng và tinh hoàn,  Các tế bào gốc này bắt đầu sản xuất hai loại axit béo là KHT và 16:4 (n-3). Những axit béo này bắt đầu tạo ra một loạt các phản ứng hóa học giúp các tế bào ác tính kháng cự lại các liệu pháp hóa trị.
Các nhà nghiên cứu khuyến cáo những axit béo này có nhiều trong các sản phẩm dầu cá.

8 điều nên biết về "viagra dành cho phái nữ"

"Viagra dành cho phái nữ" Addyi có cơ chế hoạt động tương tự thuốc trầm cảm. Nếu không cẩn thận khi dùng, thuốc có thể khiến chị em hạ huyết áp và ngất xỉu.

sprout-pill-custom-1dd00605e42-2650-3712
Ảnh: media.npr.org.
Ngày 18/8, “Viagra dành cho phái nữ” đầu tiên trên thế giới đã được cấp phép lưu hành. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, loại thuốc có tên Addyi này ẩn chứa không ít nguy cơ nếu được sử dụng kèm rượu hoặc các loại thuốc khác. Các bác sĩ cũng không được phép kê loại thuốc này nếu chưa qua một bài kiểm tra trực tuyến. Dưới đây là những lưu ý về Addyi.
Thuốc hoạt động như thế nào
Tương tự thuốc chống trầm cảm, Addyi tác động lên các chất có liên quan đến tâm trạng và cảm giác ngon miệng trên não. Thật ra, loại thuốc này ban đầu được nghiên cứu để điều trị trầm cảm chứ không phải cải thiện ham muốn tình dục. Hiện chưa rõ tại sao lại có sự thay đổi này. Các nhà nghiên cứu thuốc đặc biệt nhấn mạnh khả năng làm tăng dopamine và giảm serotonin của Addyi.
Thuốc dành cho ai
Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) chứng nhận Addyi được dành cho những phụ nữ tiền mãn kinh bị rối loạn ham muốn tình dục, hay nói rõ hơn là bị giảm ham muốn dẫn đến tổn thương tình cảm.
Thống kê cho thấy, khoảng 5,5 - 8,6 triệu phụ nữ Hoa Kỳ gặp vấn đề này, trong đó 8-14% nằm ở độ tuổi 20 - 49. Các bác sĩ luôn khuyến cáo cẩn trọng trước khi đưa ra kết luận bởi có rất nhiều yếu tố khác nhau dẫn đến tụt giảm ham muốn tình dục, ví dụ như trục trặc trong mối quan hệ, tác dụng phụ từ thuốc ngủ và thuốc giảm đau.
Nhiều quốc gia không tán đồng việc sử dụng thuốc bởi các nhà tâm lý học lập luận rằng ít ham muốn không nên bị coi là một chứng bệnh.
Tại sao loại thuốc này gây tranh cãi
Addyi đã trải qua một thời gian dài mới được cấp phép lưu hành. Trong nhiều năm, loại thuốc này liên tục bị từ chối. Một bên, hãng sản xuất Sprout Pharmaceuticals cho rằng phụ nữ cần thuốc để điều trị các vấn đề liên quan đến tình dục. Nhưng bên khác, các luật sư bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng lại ra sức phản đối vì thuốc mang quá nhiều tác dụng phụ, đồng thời đặt câu hỏi liệu có nên coi bản năng tình dục là vấn đề bệnh tật.
Thuốc có hiệu quả không
Các chuyên gia thường mô tả tác dụng của Addyi là “khiêm tốn” trong khi nghiên cứu của hãng sản xuất chỉ ra phụ nữ dùng Addyi sẽ tăng ham muốn đều đặn sau mỗi tháng. Nhóm khoa học của FDA thì nhận định hiệu quả của loại Viagra này tương đối “nhỏ”, nhưng đủ để đáp ứng tiêu chuẩn của Cơ quan.
Các tác dụng phụ là gì
10% bệnh nhân sử dụng thuốc trong nghiên cứu của hãng Sprout Pharmaceuticals có những triệu chứng giống nhau gồm chóng mặt, mệt mỏi và buồn nôn. Các chuyên gia cũng cảnh báo phụ nữ không nên uống Addyi với rượu hoặc các loại thuốc khác vì sẽ dễ bị hạ huyết áp và ngất xỉu.
Thuốc có giá bao nhiêu
Chị em sẽ phải trả từ 30 đến 75 USD một tháng để sử dụng Addyi.
Tại sao giờ đây FDA lại cấp phép cho Addyi
Khi từ chối Addyi lần đầu tiên vào năm 2010, FDA đã kết luận rằng loại thuốc này thất bại trong mục đích cải thiện ham muốn ở nữ giới. Sau đó, nhà sản xuất thuốc đã có những điều chỉnh và trong các cuộc kiểm tra độ an toàn gần đây, Addyi đã ra khỏi vòng nguy hiểm. 
Tuy vậy, vẫn có những ý kiến trái chiều cho rằng FDA đã bị ảnh hưởng từ Sprout Pharmaceuticals chứ không thực sự quyết định dựa trên các kết quả khoa học thu được.
Khi nào thuốc sẽ được bán
Theo dự định, Addyi sẽ được tung ra thị trường vào giữa tháng 10.


FDA phê chuẩn Addyi, viên libido cho phụ nữ

Đánh dấu kết thúc thắng lợi cho một chiến dịch vận động hành lang tố cáo Cơ quan thực dược phân biệt đối xử về giới tính, không quan tâm đến nhu cầu tình dục của phụ nữ.

18libido-web-master675Câu hỏi lớn giờ đây được đặt ra là có bao nhiêu phụ nữ sẽ dùng Addyi do Sprout Pharmaceuticals bào chế.
Viên Addyi của hãng Sprout Pharmaceuticals hiện nay là loại thuốc đầu tiên được chấp thuận dùng để điều trị yếu sinh lý hoặc bất lực cho cả hai giới. Viagra và các loại thuốc khác đã có dành cho đàn ông được chấp thuận giúp điều trị rối loạn dương cương, hoặc một vài khiếm khuyết của nội tiết tố testosterone, chứ không tăng cường ham muốn.
Những người ủng hộ từng làm áp lực cho việc chấp thuận Addyi – nhiều người trong số này thuộc liên minh Even the Score – cho rằng một loại thuốc cải thiện đời sống tình dục của phụ nữ đã ra đời quá chậm trong khi nam giới đã có sẵn nhiều chọn lựa.
“Viên thuốc là bước đột phá đối với sức khoẻ tình dục của phụ nữ,” Sally Greenberg, tổng giám đốc Liên minh người tiêu dùng quốc gia, bình luận.
Những người đối lập cho rằng chiến dịch đằng sau viên Addyi đã nhạo báng cả hệ thống quản lý dược phẩm và đồng loã với phong trào của những phụ nữ làm áp lực đối với FDA trong việc phê chuẩn một loại thuốc chỉ có tác dụng rất yếu và có thể gây ra nhiều phản ứng phụ như hạ huyết áp, ngất xỉu, buồn nôn, chóng mặt và buồn ngủ.
Quyết định hôm thứ ba của FDA không phải là điều gì đáng ngạc nhiên vì một uỷ ban tư vấn của các chuyên gia bên ngoài đã được biểu quyết thông qua với số phiếu 18 trên 6 hồi tháng sáu cho rằng viên thuốc nên được phê chuẩn, mặc dầu cần có những đề phòng để hạn chế các nguy cơ dẫn đến lạm dụng. Ngay cả một số thành viên của uỷ ban thuộc bên ủng hộ cũng bày tỏ sự ủng hộ dè dặt.
Câu hỏi lớn giờ đây được đặt ra là có bao nhiêu phụ nữ sẽ dùng Addyi, được coi là một loại kích dục (flibanserin) và đôi khi còn được gọi là “Viagra hồng”. Theo một khảo sát, khoảng 10% phụ nữ bị rối loạn ức chế ham muốn tình dục, tình trạng bệnh tật mà viên thuốc được chấp thuận dùng để điều trị.
TS Lauren Streicher, trợ giáo sư sản khoa lâm sàng và phụ khoa tại ĐH Tây Bắc, cho rằng bà cảm nhận được một mối quan tâm lớn đối với một loại thuốc như Addyi trong số các bệnh nhân của bà. Theo bà, sự có sẵn loại thuốc như thế sẽ khuyến khích nhiều phụ nữ bày tỏ với các bác sĩ về các vấn đề tình dục của họ lần đầu tiên.
“Tôi nghĩ rằng điều đó sắp làm thay đổi đối thoại trong các phòng khám khắp đất nước,” bà phát biểu, cũng giống như đã từng xảy ra sau khi Viagra được phê chuẩn cho đàn ông vào năm 1998 để họ bày tỏ về việc rối loạn chức năng dương cương.
Cindy Whitehead, giám đốc điều hành hãng Sprout, từ chối dự báo doanh số Addyi và cho biết thuốc sẽ đưa ra bán vào ngày 17.10.
Để xoa dịu những quan ngại về việc thuốc có thể bị lạm dụng, Sprout cho biết hãng sẽ không quảng cáo trên radio hoặc tivi trong vòng 18 tháng sau khi thuốc được phê duyệt. Bà Whitehead cho rằng công ty sẽ tập trung tiếp thị thuốc với các bác sĩ, chớ không nhắm đến người tiêu dùng. Sprout sẽ thuê 200 trình dược viên, đủ để gọi cho khoảng 30.000 bác sĩ, chủ yếu là các bác sĩ sản phụ khoa, cũng như một số nhà tâm thần học và các bác sĩ chăm sóc ban đầu.
Bà Whitehead cho biết giá chính xác của viên Addyi vẫn chưa gút nhưng cho rằng nó khoảng tương đương với liều dùng hàng tháng cơ bản của thuốc trị rối loạn dương cương. Những viên thuốc này thường được dùng khi cần thiết, trong khi Addyi được cho là chỉ dùng ban đêm. Điều đó khiến cho so sánh có thể khập khiễng. Nhưng 10 viên Viagra, một liều dùng hàng tháng, giá khoảng 400USD.
Chưa rõ là các hãng bảo hiểm sẽ chi bao nhiêu cho Addyi, mặc dầu bà Whitehead cho biết bà kỳ vọng rằng sản phẩm sẽ được đồng chi khoảng 30 - 75USD mỗi tháng, tương đương với thuốc trị rối loạn dương cương. Sprout sẽ giúp bệnh nhân đồng thanh toán, bà nói.
Addyi được cho là không dùng cho phụ nữ uống rượu, vì điều đó làm tăng nguy cơ ngất xỉu. Và viên thuốc có thể được chỉ định hoặc phân phối bởi các bác sĩ và dược sĩ đã xem trình bày thuốc trực tuyến và trải qua một cuộc sát hạch về kiến thức của họ.
Leonore Tiefer, một nhà điều trị về tình dục tại Trường dược ĐH New York và là người phê phán thuốc, dự đoán những hạn chế sẽ làm cho Addyi trở nên nổi tiếng. “Nó sẽ gây rối nhiều hơn sự chính đáng của nó.”


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons