Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2015

Hậu quả khôn lường khi bà bầu lạm dụng canxi và sắt

Sắt và canxi rất cần thiết cho phụ nữ mang thai.

Sắt và canxi rất cần thiết cho phụ nữ mang thai.

Tuy nhiên việc bổ sung hai loại khoáng chất này như thế nào để tốt cho sức khỏe của mẹ và sự phát triển của bào thai là điều không phải chị em nào cũng biết.
Sắt và canxi cho bà bầu - thiếu, thừa đều nguy hiểm
Không muốn đi vào “vết xe đổ” của chị dâu (sinh con thiếu tháng, thằng bé bị còi xương, suy dinh dưỡng, mẹ bị đau lưng), ngay từ những ngày đầu “có tin vui” Mai Lệ (Cầu Giấy, Hà Nội) đã mua sắt và canxi (dạng viên uống) về sử dụng. 
Ngoài ra, Mai Lệ còn ăn nhiều hải sản và dùng thêm một số loại vitamin tổng hợp, thuốc bổ, sữa, thực phẩm chức năng… bổ sung sắt và canxi. Mai Lệ không tiếc tiền đầu tư và gắng gượng nhắm mắt nhắm mũi uống vì nghĩ rằng sau này con sinh ra sẽ thông minh, khỏe mạnh, cao lớn vượt trội.
Vậy nhưng phải nhập viện sau nhiều ngày bị táo bón, người mệt mỏi và đặc biệt là hiện tượng đi tiểu ra máu, Mai Lệ mới nhận ra sai lầm đáng trách của bản thân. Sau khi thăm khám và làm các xét nghiệm, bác sĩ chuyên khoa cho biết Mai Lệ bị thừa sắt và can xi do tự ý bổ sung quá liều.
Cũng giống như Mai Lệ, bà bầu Thúy An (Vũ Thư, Thái Bình) mua liền lúc mấy loại thuốc bổ sung sắt, canxi, vitamin về dùng dù lần khám thai đầu tiên bác sĩ sản khoa bảo cô ăn, ngủ, nghỉ tốt, không bị nghén nên giai đoạn ban đầu chú ý ăn uống những món bổ dưỡng cho thai phụ và dung nạp sắt, canxi cũng như các loại khoáng chất cần thiết qua thực phẩm tự nhiên như: tôm, cua, cá, rau xanh, sữa… là đủ, còn giai đoạn sau, nếu thấy cần bác sĩ sẽ cho chỉ định. 
Vậy nhưng, do hoang mang trước sự tác động của mọi người xung quanh cộng thêm nỗi lo con phát triển chậm, Thúy An vẫn mua viên sắt và ống canxi về uống. Chỉ đến khi cầm trên tay kết quả bị sỏi thận và có nguy cơ bị vôi hóa nhau thai do nguyên nhân thừa canxi, sắt, Thúy An mới thấm thía hậu quả của việc tự ý dùng thuốc khi không có chỉ định của bác sĩ.
Bổ sung sắt và canxi cần phải tuân thủ theo đơn của bác sĩ Bổ sung sắt và canxi cần phải tuân thủ theo đơn của bác sĩ
Theo ThS.BS Lê Thiện Thành - Giám đốc BV Bảo An (Hà Nam thì hiện tượng thai phụ tự mua viên sắt, canxi, vitamin tổng hợp về uống khá phổ biến. Điều này xuất phát từ suy nghĩ phụ nữ chửa đẻ bao giờ cũng thiếu hụt sắt, canxi nên “phòng hơn chống”, uống vào chỉ có tốt chứ chẳng gây hại gì. Sai lầm đó không chỉ tồn tại ở những vùng nông thôn còn lạc hậu mà ngay ở các thành phố lớn, nhiều chị em có trình độ học vấn cao vẫn mắc phải.
Thực tế, sắt và canxi cần bổ sung một cách hợp lý, hiệu quả ngay từ giai đoạn chuẩn bị mang thai, trong suốt thai kì và cả giai đoạn cho con bú. Thiếu sắt, thai nhi có nguy cơ bị dị dạng, suy dinh dưỡng, nhẹ cân, có thể bị sảy thai, sinh non, ảnh hưởng đến thể chất và trí tuệ trẻ sau này. Còn người mẹ có thể bị thiếu máu, mệt mỏi, tăng nguy cơ nhiễm trùng. 
Thiếu canxi, thai nhi rất dễ còi xương, kém phát triển, biến dạng cấu tạo xương. Người mẹ có nguy cơ bị đau mỏi xương khớp, chuột rút, răng dễ vỡ (do cơ thể huy động canxi dự trữ xương và răng của mẹ để đảm bảo lượng canxi cho thai nhi). 
Trường hợp nặng có thể gây co giật do hạ canxi máu. Thiếu máu, thiếu sắt được xem là liên quan đến ¼ trường hợp tử vong ở thai phụ, sản phụ, làm gia tăng các tai biến sản khoa, nhất là tai biến do xuất huyết sau sinh.
Tuy nhiên, nếu tự bổ sung sắt và canxi dạng uống không theo chỉ định của bác sĩ sẽ không kiểm soát được cơ thể đang thừa hay thiếu chất, dẫn đến những hiểm họa khôn lường. Thừa sắt làm tăng nồng độ sắt tự do trong máu thai nhi, tăng nồng độ huyết sắc tố trong máu người mẹ. 
Điều này cản trở quá trình tạo máu bình thường của thai nhi, dẫn đến tình trạng bị sinh non, thiếu cân, tăng nguy cơ tử vong ở sản phụ. Người mẹ có các biểu hiện như: tiêu chảy, đi tiểu ra máu, buồn nôn, đau bụng…vv. 
Thừa canxi, thai nhi có thể bị tăng canxi trong máu, khi ra đời thóp kín quá sớm, xương hàm có thể bị biến dạng, rộng và nhô ra trước, không có lợi cho sức khỏe và ảnh hưởng đến thẩm mĩ. Bánh nhau sẽ bị tăng độ canxi hóa làm giảm trao đổi chất giữa mẹ và thai nhi, làm thai kém phát triển.
Người mẹ bị táo bón, khô miệng, đau đầu, chán ăn, mệt mỏi và nếu như người mẹ uống ít nước, lượng canxi và sắt dư thừa không đào thải được qua nước tiểu có thể bị sỏi đường tiết niệu, đặc biệt là sỏi thận. Một số trường hợp nhiễm độc canxi còn có thể đối mặt với nguy cơ tử vong.
Ngoài việc chú trọng bổ sung sắt, canxi, ThS Lê Thiện Thành còn khuyến cáo thai phụ nên bổ sung magie, kẽm, acid folic và các loại Vitamin A, B, C, D, E một cách hợp lý và hiệu quả. Ông nhấn mạnh rằng việc bổ sung bằng chế độ ăn sẽ dễ kiểm soát và an toàn hơn bổ sung dạng thuốc. Những trường hợp thiếu hụt sắt, canxi cần tuần thủ theo đơn do bác sĩ chuyên khoa kê.
Bổ sung sắt, canxi thế nào cho hiệu quả?
Tùy vào cơ địa, tình trạng sức khỏe, tiền sử bệnh lý của thai phụ, bác sĩ chuyên khoa sẽ đưa ra chỉ định, liều lượng, thời điểm và cách thức bổ sung sắt, canxi hợp lý. Với những mẹ bầu khỏe mạnh, không bị nghén có thể giai đoạn đầu chỉ cần bổ sung sắt và canxi từ nguồn thực phẩm hàng ngày, sang đến giai đoạn sau có thể dùng sắt và canxi dạng nào cũng được. Mẹ bầu bị tăng huyết áp, tiền sản giật cần cẩn trọng khi dùng các loại thuốc canxi có lẫn natri. Mẹ bầu bị tiểu đường thì không sử dụng canxi có chứa hàm lượng đường.
Trong quá trình phát triển, thai nhi thường sử dụng sắt và canxi từ người mẹ để tạo máu và xương cho sự lớn lên. Bởi vậy, ở mỗi giai đoạn thai kì, cơ thể người phụ nữ cần bổ sung lượng sắt và canxi khác nhau. 
Thông thường, trong 3 tháng đầu, nhu cầu canxi cần thiết cho cơ thể người mẹ là 800mg/ngày và nhu cầu sắt là 30mg/ngày. Sang quý 2 như cầu canxi là 1000mg/ngày và nhu cầu sắt là 40mg/ngày. Ở quý 3 nhu cầu canxi có thể lên tới 1500mg/ngày và nhu cầu sắt là 50-  60mg/ngày.
Do đó, khi mua các mẹ đừng quên kiểm tra thông tin sản phẩm: thành phần thiết yếu, hạn sử dụng… để được cung cấp đủ lượng khoáng chất cần thiết cho cơ thể. Nếu thuốc có mùi vị khó uống, gây tác dụng  phụ (nôn, đầy bụng, khó tiêu, táo bón…) thì cần tham khảo ý kiến của bác sĩ để được tư vấn kịp thời hoặc có chỉ định chuyển sang dùng loại khác.
Các mẹ bầu cần sáng suốt thông mình trong việc chăm sóc bản thânCác mẹ bầu cần sáng suốt thông mình trong việc chăm sóc bản thân
Việc bổ sung sắt và canxi cần đúng thời điểm mới phát huy hết được công dụng và có lợi cho mẹ bầu. Để cơ thể hấp thu chất sắt tốt nhất, mẹ bầu nên tuân thủ chế độ ăn dồi dào Vitamin C từ rau quả tươi (cam, chanh, cà chua…) bởi Vitamin C có chức năng giúp cơ thể tổng hợp chất sắt hiệu quả. 
Canxi thường không được tích lũy trong cơ thể mà sẽ tự động bị đào thải ra ngoài nếu dư thừa. Ở mỗi thời điểm, cơ thể chỉ có thể hấp thụ tối đa 500mg canxi nên nếu cần bổ sung một lượng lớn canxi, mẹ bầu hãy uống nhiều làm nhiều lần trong ngày để cơ thể hấp thụ hết. Vitamin D là một nhân tố quan trọng giúp cơ thể hấp thu canxi tốt nhất.
Do đó mẹ bầu cần kết hợp ăn bổ sung các thực phẩm giàu Vitamin D như: sữa, lòng đỏ trứng và tăng cường tắm nắng để hấp thu Vitamin D. Trong khi đó, đồ uống có ga, nước ngọt, cà phê và một số thực phẩm chứa nhiều axit photphoric sẽ thúc đẩy quá trình đào thải canxi của cơ thể. Chế độ ăn uống nhiều muối, nhiều chất béo cũng như các thực phẩm chứa axit phytic, axit oxalic cũng làm giảm sự hấp thụ canxi.
Đáng lưu ý là sắt và canxi là hai dưỡng chất quan trọng song kị nhau nếu uống cùng một thời điểm. Bởi vậy, nếu phải bổ sung đồng thời sắt và canxi, bà bầu nên uống cách quãng. Có thể uống canxi vào buổi sáng kết hợp với tắm nắng để hấp thu dễ hơn, buổi trưa hoặc chiều uống viên sắt. Việc sử dụng viên uống tổng hợp có chung thành phần canxi và sắt được khuyến cáo là làm mất tác dụng của cả hai dưỡng chất này.
Tốt nhất, bà bầu nên bổ sung viên đa vi chất có tách biệt thành phần sắt và canxi. Không nên uống sắt và canxi lúc đói hoặc trước giờ đi ngủ bởi chúng có thể gây nóng người khiến bà bầu khó chịu. Nên tránh xa trà, cà phê, co ca và những đồ uống có ga bởi chúng cản trở sự hấp thụ của sắt và canxi trong cơ thể. Cần tăng cường ăn rau xanh, hoa quả, uống nhiều nước để hạn chế tình trạng táo bón, khó tiêu.
Việc bổ sung sắt và canxi trong giai đoạn mang thai là vô cùng cần thiết, song chị em cần sáng suốt, thông minh trong việc chăm sóc bản thân và bé yêu, để tránh những rủi ro khong đáng có.

5 loại thuốc có thể khiến nam giới vô sinh

Hãy cẩn thận với những loại thuốc sau bởi thành phần của nó ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng, giảm khả năng thụ thai và khiến nam giới vô sinh.


5 loai thuoc co the khien nam gioi vo sinh
Thuốc tăng cơ Steroids. Các loại thuốc tăng cơ chứa steroids có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của cả 2 giới. Loại thuốc này có thể ảnh hưởng xấu đến chất lượng tinh trùng, rối loạn chức năng cương dương và có thể khiến nam giới vô sinh.
5 loai thuoc co the khien nam gioi vo sinh-Hinh-2
Thuốc chống trầm cảm. Đây là loại thuốc ngày càng bị lạm dụng, sử dụng nhiều. Thành phần của thuốc thường có imipramine, amitriptyline, clomipramine… có thể gây rối loạn chức năng cương dương ở nam giới, xuất tinh bất thường, không còn ham muốn gần gũi.
5 loai thuoc co the khien nam gioi vo sinh-Hinh-3
Thuốc chống viêm. Theo nhiều nghiên cứu, thuốc chống viêm khớp, thuốc chống viêm không steroid đều có thể dẫn đến vô sinh. Hơn hết, bản thân người dùng thuốc cần hiểu rõ công dụng, tác dụng phụ mà thuốc gây ra để hạn chế ảnh hưởng của nó lên sức khỏe, hệ thống sinh sản của cơ thể.
5 loai thuoc co the khien nam gioi vo sinh-Hinh-4
Thuốc tim mạch. Các loại thuốc chuyên chữa trị bệnh huyết áp, bệnh tim mạch… đều dễ gây ra chứng ED hay còn gọi là suy giảm khả năng tình dục.
5 loai thuoc co the khien nam gioi vo sinh-Hinh-5
Thuốc hóa trị. Thuốc hóa trị tác động sâu vào các tế bào bên trong cơ thể. Vì khả năng thấm sâu mà nguy cơ tiềm tàng mà loại thuốc này mang lại cũng rất vô cùng, và khả năng sinh sản là một trong số đó. Một số ảnh hưởng có thể phục hồi sau khi ngưng dùng thuốc, song một số khác lại gây tổn thương vĩnh viễn sau này như vô sinh hoặc hiếm muộn.

Độc tính của thuốc gây tê tại chỗ

Biểu hiện nhiễm độc cấp tính thường xảy ra do nồng độ thuốc tăng nhanh trong máu. Do đó, khi tiêm nhanh một liều nhỏ của thuốc gây tê có thể gây ra các biểu hiện nhiễm độc cấp tính

Các loại thuốc gây tê tại chỗ như novocain, lidocain, bupivacain thường được sử dụng để giảm đau trong các thủ thuật và tiểu phẫu thuật ở ngoài da và niêm mạc hoặc để phong bế các dây thần kinh cảm giác.
Nói chung, nếu được sử dụng đúng cách, các thuốc này thường chỉ tác dụng tại chỗ mà ít được hấp thu vào máu nên ít gây tác dụng phụ toàn thân. Bên cạnh các phản ứng dị ứng, tình trạng nhiễm độc do nồng độ thuốc trong máu cao quá mức cho phép cũng là một trong các tác dụng phụ thường gặp nhất với nhóm thuốc này.
Sau khi gây tê, nồng độ thuốc tê có thể tăng cao trong máu vì nhiều lý do khác nhau như thuốc gây tê được tiêm vào mạch máu, tốc độ tiêm quá nhanh, dùng vượt quá liều quy định hoặc do thuốc hấp thu vào máu quá nhanh khi gây tê ở một vùng giàu mạch máu (đặc biệt là các vùng niêm mạc).
Khi phong bế thần kinh liên sườn bằng các thuốc gây tê, thuốc cũng hấp thu nhanh hơn so với khi tiêm dưới da nên nồng độ thuốc trong máu cũng có thể tăng cao.
Các biểu hiện của nhiễm độc thuốc gây tê
Nhiễm độc thuốc gây tê chủ yếu ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương và hệ tim mạch, trong đó, các biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương thường gặp hơn và xảy ra sớm hơn so với các biểu hiện ở hệ tim mạch.
Các biểu hiện nhiễm độc cấp tính thường xảy ra do nồng độ thuốc tăng nhanh trong máu. Do đó, khi tiêm nhanh một liều nhỏ của thuốc gây tê cũng có thể gây ra các biểu hiện nhiễm độc cấp tính.
Độc tính của thuốc gây tê tại chỗ
Biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương: Các biểu hiện do kích thích hệ thần kinh trung ương thường xảy ra sớm, giai đoạn muộn là các biểu hiện do tác dụng ức chế thần kinh của thuốc.
Những trường hợp nhẹ hoặc trong giai đoạn sớm, người bệnh thường có biểu hiện hoa mắt, chóng mặt, ù tai, tê bì đầu chi, rối loạn vị giác, lú lẫn và buồn ngủ. Trong quá trình tiêm, thầy thuốc cần liên tục hỏi bệnh nhân về cảm giác của họ, nếu có dấu hiệu nghi ngờ có nhiễm độc thuốc, cần ngay lập tức ngừng tiêm.
Những trường hợp nặng, người bệnh có thể co giật, mất ý thức, hôn mê, suy hô hấp và ngừng thở. Tùy thuộc vào loại thuốc và tốc độ tăng của nồng độ thuốc trong máu, bệnh nhân có thể tỉnh lại sau một thời gian ngắn.
Các biểu hiện ở hệ tim mạch: Ở các trường hợp nhiễm độc nhẹ hoặc trong giai đoạn sớm, người bệnh thường có nhịp tim nhanh và tăng huyết áp, đặc biệt là khi thuốc gây tê được tiêm kết hợp với adrenalin. Sau đó người bệnh thường biểu hiện nhịp tim chậm và tụt huyết áp.
Những trường hợp nặng, người bệnh có trụy tim mạch và rối loạn nhịp tim do tác dụng gây độc trực tiếp của thuốc tê trên tế bào cơ tim. Nói chung, bupivacain có độc tính trên cơ tim cao hơn so với lidocain. Rối loạn nhịp tim do thuốc gây tê có thể rất nặng và dai dẳng, khó điều trị. Nồng độ thuốc gây tê đủ để gây trụy tim mạch thường cao gấp 4-7 lần nồng độ thuốc đủ để gây ra co giật.
Độc tính của thuốc gây tê tại chỗ
Dự phòng
Để giảm thiểu nguy cơ nhiễm độc thuốc gây tê tại chỗ, cần sử dụng đúng liều thuốc, lựa chọn những thuốc ít độc tính, giảm liều thuốc ở những người bệnh lớn tuổi hoặc có thể trạng gày yếu, tiêm thuốc chậm và lưu ý rút pit tông liên tục trong khi tiêm xem có máu ra không để đề phòng tiêm vào mạch máu.
Tiêm thuốc gây tê đồng thời với adrenalin (epinephrin) cũng là một biện pháp có thể giúp giảm tốc độ hấp thu thuốc vào máu. Các nghiên cứu cho thấy, việc tiêm phối hợp với adrenalin gây giảm nồng độ tối đa của thuốc gây tê trong máu khoảng 50%. Adrenalin thường được pha ở nồng độ 1/200.000, với liều tối đa là 200 microgam.
Cần lưu ý là việc tiêm phối hợp với adrenalin sẽ không giúp giảm được độc tính của thuốc gây tê nếu hỗn hợp thuốc được tiêm vào mạch máu.
Nên đặt sẵn đường truyền tĩnh mạch và chuẩn bị các thuốc và phương tiện cấp cứu trước khi gây tê. Sau khi gây tê, người bệnh cũng cần được theo dõi tại cơ sở y tế để phát hiện sớm các độc tính của thuốc có thể xảy ra sau đó.
Điều trị
Nếu người bệnh có các dấu hiệu nghi ngờ nhiễm độc thuốc gây tê trong quá trình tiêm, cần ngay lập tức ngừng tiêm và mở đường truyền tĩnh mạch. Phải đảm bảo thông thoáng đường thở và cho bệnh nhân thở ôxy nồng độ cao nếu có. Cung cấp đủ ôxy giúp ngăn ngừa tổn thương não, tình trạng co giật và các rối loạn nhịp tim khó kiểm soát.
Nếu bệnh nhân co giật, có thể dùng diazepam tiêm tĩnh mạch hoặc đặt hậu môn. Các trường hợp hôn mê phải nhanh chóng đặt ống nội khí quản và cho bệnh nhân thở máy. Nếu bệnh nhân bị trụy tim mạch, cần điều trị bằng truyền dịch và các thuốc co mạch như ephedrin.
Nếu ephedrin không hiệu quả, có thể dùng adrenalin dung dịch 1:1000 tiêm dưới da 0,3ml hoặc dung dịch 1:10,000 tiêm tĩnh mạch chậm 0,5 - 1ml. Điều trị các rối loạn nhịp tim nếu có, ép tim khi có ngừng tuần hoàn.
Nhiễm độc thuốc gây tê thường có tiên lượng tốt nếu người bệnh được phát hiện và điều trị sớm. Tình trạng nhiễm độc thường nhanh chóng hồi phục nếu được điều trị đúng.


Thuốc dạng lỏng rất dễ hỏng

Đối tượng thường sử dụng thuốc dạng lỏng đa số là người cao tuổi và trẻ nhỏ.

Ảnh minh họa: InternetẢnh minh họa: Internet
Thuốc dạng lỏng thường chứa các chất làm ngọt và các chất tạo hương nhằm che giấu mùi vị khó chịu của thuốc, giúp người sử dụng dễ dàng nuốt thuốc hơn. Điều trở ngại ở chất làm ngọt là sorbitol - một chất có thể gây tiêu chảy khi dùng nhiều. Vì vậy, nếu bạn bị tiêu chảy khi sử dụng thuốc dạng lỏng cần phải gặp dược sĩ để được đổi loại thuốc khác không chứa sorbitol.
Thuốc dạng lỏng cũng có chứa những thành phần phụ gọi là “tá dược”. Các tá dược thường không có tác dụng dược lý nhưng giúp hoạt chất thuốc hoạt động tốt hơn và giúp thuốc phân tán đồng đều toàn bộ chai thuốc từ trên xuống dưới, nhờ đó từ  liều thuốc đầu tiên cho đến liều cuối cùng, hàm lượng hoạt chất thuốc đều như nhau. Thông thường, đa số loại thuốc dạng lỏng trên nhãn đều ghi “lắc kỹ trước khi dùng” nhằm bảo đảm hoạt chất thuốc được phân tán đồng đều trong chai thuốc.
Một số thuốc lỏng cũng có chứa cồn, tuy nhiên, các chế phẩm có cồn không được sử dụng cho trẻ em và những bệnh nhân gặp các vấn đề về gan. Riêng đối với những chất làm ngọt có trong thuốc lỏng thì bệnh nhân đái tháo đường cần hỏi ý kiến dược sĩ xem chất làm ngọt ấy có thể được dùng cho bệnh nhân đái tháo đường hay không.
Thuốc dạng lỏng dễ bị biến tính nếu điều kiện bảo quản không thích hợp, vì vậy phải đọc kỹ cách bảo quản mà nhà sản xuất ghi trong bao bì thuốc, đặc biệt là những thuốc cần bảo quản trong tủ lạnh.
Không bao giờ dùng muỗng cà phê hay muỗng canh ở nhà bếp để đong thuốc vì hiện nay các loại muỗng có kích cỡ khác nhau. Nên dùng loại muỗng chuyên dụng có bán ở nhà thuốc. Thông thường với các loại thuốc dạng lỏng, nhà sản xuất có kèm theo dụng cụ đo lường thuốc. Bạn cũng có thể dùng ống tiêm sạch để đo lường dung lượng thuốc.


Bệnh nào không nên dùng thuốc bổ?

1. Ung thư tuyến tiền liệt nên tránh dùng canxi

Trung bình mỗi năm tại Anh có trên 5.000 đàn ông dùng liệu pháp hoóc-môn để điều trị bệnh ung thư tuyến tiền liệt. 
Liệu pháp này có tác dụng phong bế sản xuất hoóc-môn nam tính testosterone gây tăng tái phát ung thư, nhưng mặt trái của loại thuốc bổ này lại ảnh hưởng đến sức khỏe của xương.

Chính điều này người ta đã nghĩ đến việc bổ sung canxi cho cơ thể, nhưng theo nghiên cứu của Trung tâm y tế Wake Forest Baptist thuộc ĐH North Carolina, Mỹ, ở 2.399 người trước và sau khi sử dụng loại thuốc bổ này cho thấy tỉ trọng khoáng của xương bị giảm nghiêm trọng. 
Nếu dùng liều cao canxi có thể làm giảm hiệu ứng hoạt hóa của vitamin D, dưỡng chất cơ thể rất cần để hấp thụ canxi ngay từ giai đoạn đầu, và hậu quả làm phong bế tác dụng của canxi có trong xương.

Vì vậy, khi dùng loại thuốc bổ này nên duy trì hoạt động để tăng cường sức khỏe cho xương và sau giai đoạn điều trị tỉ trọng xương sẽ được phục hồi trở lại, không nên dùng canxi.

2. Bệnh vảy nến tránh dùng vitamin A


Một trong số những loại thuốc được sử dụng phổ biến để điều trị bệnh vảy nến là nhóm thuốc retinoids là dạng viên hoặc kem dưỡng da. Nó có tác dụng điều tiết tăng trưởng tế bào da, nhưng bệnh vảy nến lại tăng trưởng mạnh làm cho da đỏ và tạo thành những vảy mới dạng bạc.

Lý do của hiện tượng này là vì retinoids có chứa một dẫn xuất là vitamin A giúp duy trì da phát triển và nếu dùng quá nhiều vitamin A có thể gây độc. Do vitamin A là loại dưỡng chất hòa tan mỡ nên có có thể lưu lại trong cơ thể, tích tụ trong gan nên có hại cho cơ thể.

Nếu lạm dụng quá liều trên 0,7mg/ngày đối với đàn ông hoặc 0,6mg/ngày đối với phụ nữ có thể dẫn đến tình trạng viêm kết mạc, rụng tóc và làm tăng các chứng bệnh về da, nhất là nhóm người mắc bệnh vảy nến.

3. Bệnh tim nên tránh dùng vitamin E và kali

Đây là những dưỡng chất có thể làm tăng bệnh tim, kết luận này được dựa vào một nghiên cứu quy mô quốc tế dài 7 năm ở 100.000 người mắc bệnh tim, động mạch vành và đái tháo đường do ĐH McMaster của Canada thực hiện. Theo nghiên cứu, nếu dùng liều cao vitamin E (400iu- khoảng 363mg) /ngày thì rủi ro mắc bệnh suy tim tăng tới 13% và 21% nguy cơ phải nhập viện vì bệnh tim.

4. Bệnh đái tháo đường nên tránh dùng vitamin B3

Vitamin B3 còn có tên gọi khác là niacin, tham dự vào quá trình chuyển hóa và giúp cơ thể sản xuất năng lượng từ thực phẩm khi ăn vào, tuy nhiên nếu dùng liều cao (trên 13mg/ngày đối với phụ nữ và 17mg/ngày đối với nam giới) có thể làm gia tăng bệnh đái tháo đường.

5. Loãng xương tránh dùng vitamin A và phốt pho

Nếu có quá nhiều phốt pho trong máu trên 1.000mg có thể làm cho lượng canxi trong xương bị giảm mạnh và gây chứng loãng, giòn xương. 
Tại Anh người ta khuyến cáo không nên dùng quá nhiều 250mg phốt pho/ngày. Theo nhiều nghiên cứu do Thụy Điển thực hiện cho thấy cứ tăng 1mg vitamin A liều dùng hàng ngày thì tăng rủi ro gãy xương háng tới 68%.

Ngoài ra, vitamin A còn làm cạn kiệt nguồn canxi trong xương vì vậy lạm dụng vitamin A còn làm cho hàm lượng canxi trong máu tăng vọt. Người ta khuyến cáo nên dùng liều vitamin A đối với nam giới là 0,7mg/ngày và phụ nữ là 0,6mg/ngày.

6. Bệnh thận tránh dùng canxi

Nếu dùng canxi nhất là liều cao hơn so với khuyến cáo (700mg/ngày) có thể gây tích khoáng trong thận và lâu ngày gây sỏi thận, gây đau nếu không được tán nhỏ chảy qua đường nước tiểu ra ngoài, thậm chí nếu nặng thì phải phẫu thuật.

7. Bệnh đau dạ dày nên tránh dùng vitamin A


Dùng vitamin A để hạn chế tổn thương lớp lót thành dạ dày, nhưng nếu dùng liều cao, dài kỳ trên mức khuyến cáo 0,7mg/ngày (nam giới) và 0,6mg/ngày (phụ nữ), hoặc vượt trên ngưỡng 2,3mg/ngày có thể gây tình trạng có tên Hội chứng tăng huyết áp trong sọ (intracranial hypertension) căn bệnh làm gia tăng áp lực dịch não, gây thủ phạm đau đầu và rối loạn thị giác.


Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2015

Omega-3 trong dầu cá không trị được khô mắt

Thuốc hoặc thực phẩm chức năng có loại dạng viên nang mềm được gọi là “dầu cá”. Hiện nay có 2 loại: dầu cá chứa vitamin tan trong dầu là vitamin A(hoặc chứa vitamin A và D) và dầu cá chứa axít béo là omega-3 (có khi chứa thêm omega-6). Có một số người bị khô mắt do thiếu vitamin A được chỉ định dùng thuốc chứa vitamin này.
Một độc giả nữ đã viết thư hỏi: “Em làm việc với máy tính nhiều nên mắt hay bị khô. Em nghe nói bổ sung omega-3 sẽ cải thiện được tình trạng khô mắt nên em đã mua về uống. Em uống tới nay cũng được hai tháng rồi. Cho em hỏi cách bổ sung omega-3 như vậy có đúng không? Dùng lâu dài có tác dụng phụ gì không?”. Xin có đôi điều trình bày như sau:
Tình trạng khô mắt?
​Để có biện pháp điều trị khô mắt thích hợp nhất, ta nên đến khám tại chuyên khoa mắt để được bác sĩ tư vấn trực tiếp.
​Để có biện pháp điều trị khô mắt thích hợp nhất, ta nên đến khám tại chuyên khoa mắt để được bác sĩ tư vấn trực tiếp.
Mắt chúng ta luôn tiết ra nước mắt tạo thành lớp phim mỏng bảo vệ mắt. Phim nước mắt có tác dụng làm ẩm bề mặt giác mạc, kết mạc, bôi trơn mi mắt, cung cấp dinh dưỡng và dưỡng khí cho tế bào biểu mô đồng thời có vai trò miễn dịch giúp ức chế sự phát triển của các mầm bệnh. Khô mắt là tình trạng có sự tổn thương lớp phim nước mắt do sự giảm tiết nước mắt hoặc tăng sự bốc hơi nước mắt quá đáng (có bệnh nhân nước mắt chảy ròng ròng nhưng vẫn bị khô mắt do bị bốc hơi quá nhiều), gây tổn hại bề mặt nhãn cầu và tạo ra một sự rất khó chịu cho mắt. Dấu hiệu khi bệnh khô mắt thường gặp là khó chịu, cảm giác khô, rát bỏng, người bệnh như thấy có dị vật, hạt sạn trong mắt, nhìn khi mờ khi tỏ, có khi sợ ánh sáng…
Để trị khô mắt người ta thường dùng thuốc nhỏ mắt gọi là “nước mắt nhân tạo”. Trong thuốc là nước mắt nhân tạo, ngoài chứa nước muối sinh lý NaCl 0,9%, còn chứa thêm chất làm tăng độ nhầy để giúp thuốc giữ lâu trong mắt và một số chất bổ dưỡng khác. Các chất tăng độ nhầy gọi chung là hydrogel giúp nước mắt nhân tạo lưu giữ lâu hơn trên bề mặt nhãn cầu, gồm có: hydroxypropyl methylcellulose (HPMC); carboxy methylcellulose (CMC); povidone; polyethylene glycol; hyaluronic axít… Thông thường, bác sĩ có thể dùng nước mắt nhân tạo từ 30 phút đến 1 giờ/lần trong ngày để trị khô mắt, và có lời khuyên nên sống và làm việc trong môi trường có nhiệt độ thấp để chống nước mắt không bị bay hơi.
Omega-3 trong dầu cá không trị được khô mắt
Omega-3 là chất béo, thực chất là một axít béo không no chứa một nối đôi có tên là axít omega-3 (còn gọi tên thông dụng là axít oleic) có nhiều trong mỡ một số loại cá ở vùng biển lạnh và sâu là cá tuna, cá salmon. Chất béo chứa một nối đôi như: axít omega-3 được xem là tốt cho tim mạch do dùng nó sẽ làm giảm cholesterol xấu trong máu xuống mà không ảnh hưởng đến cholesterol tốt (trong khi nhiều chất béo khác lại giảm lượng cholesterol tốt trong máu xuống). Còn đối với mắt, bổ sung omega-3 để cải thiện được tình trạng khô mắt như nhiều người đã dùng là không đúng. Có trường hợp bị khô mắt do thiếu vitamin A thì bắt buộc bổ sung vitamin A, chứ hiện nay hoàn toàn không có việc bổ sung axít omega-3 để trị rối loạn về mắt. Để có biện pháp điều trị khô mắt thích hợp nhất, ta nên đến khám tại chuyên khoa mắt để được bác sĩ tư vấn trực tiếp. Bác sĩ khám trực tiếp sẽ cho biết tình trạng khô mắt như thế nào và cho dùng thuốc thật đúng. Omega-3 được dùng với dạng thực phẩm chức năng (nhiều người gọi chế phẩm là dầu cá), nếu dùng đúng liều và chế phẩm đảm bảo chất lượng dùng trong vài tháng thì không lo về tác dụng phụ.
Để bảo vệ mắt khi làm việc thường xuyên với máy vi tính, ta nên:
Cho mắt nghỉ ngơi sau mỗi 30 phút làm việc (bằng cách nhìn vào vật khác ở xa mà không phải nhìn màn hình hoặc nhắm mắt thư giãn). Lưu ý, chớp mắt thường xuyên hơn khi đang làm việc để mắt khỏi khô.
Giảm ánh sáng và sự chiếu sáng của màn hình bằng cách dùng màn chắn ánh sáng hoặc đeo kính bảo vệ mắt. Điều chỉnh ánh sáng trong phòng để tránh phản chiếu lên màn hình.

Bố trí bàn làm việc có máy vi tính hợp lý, để vị trí màn hình cách mắt từ 50 - 60 cm.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons