Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

Thuốc nào kẹt lắm hãy uống?

Kẹt chỉ ở chỗ “khách hàng là thượng đế”, không lẽ không biên toa cho thuốc khi bệnh nhân cần ngủ cho được để mai còn kéo cày.
Nếu tưởng giấc ngủ là khoảng thời gian để ngưng hoạt động của cơ thể thì lầm. Đó chính là khoảnh khắc quý giá để cơ thể chủ động tổng hợp kháng thể, huy động thực bào, gia tốc tiến trình hồi phục, điều chỉnh thần kinh giao cảm, hưng phấn chức năng tư duy... 
Thiếu ngủ chính là đòn bẩy khiến sức đề kháng bị xói mòn. Nhưng không thể vì thế mà chấp nhận trả giá cao với phản ứng phụ của thuốc an thần.
Mua thuốc độc trả góp
Nhiều người đang vung tay quá trán với thuốc an thần chắc chắn đã "không uống không vào giường" nếu biết là:
- Tỉ lệ tai biến mạch máu não ở người quen dùng thuốc an thần cao gấp ba nếu so với người không lệ thuộc thuốc!
- Số trường hợp đau đầu kinh niên ở người dùng thuốc ngủ cao gấp bốn lần số người không cần thuốc!
- Tỉ lệ tử vong ở người nhồi máu cơ tim trước đó thường dùng thuốc an thần cao gấp đôi số nạn nhân tuy cũng vào phòng cấp cứu nhưng ít khi uống thuốc ngủ!
Đáng nói là theo kết quả khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu về giấc ngủ ở Stuttgart, CHLB Đức, không dưới 1/3 số người mất ngủ không nhất thiết phải dùng thuốc an thần loại hóa chất tổng hợp mà chỉ cần điều chỉnh nếp sinh hoạt, nhiều khi chỉ cần thay đổi vài thói quen xoay quanh giờ ngủ, thay vì nhanh tay mở tủ thuốc đầu giường!
 - 1Nguyên tắc đơn giản để dễ ngủ: Không vào giường nếu không buồn ngủ.
Giải pháp trong tầm tay
Theo chuyên gia về bệnh lý do stress ở ĐH y Munich, nhiều người đang mất ngủ đã có thể yên giấc hơn nhiều nếu áp dụng một số biện pháp sau:
- Không vào giường nếu chưa buồn ngủ. Không dùng giường ngủ như nơi làm sổ sách, đánh máy vi tính, đọc báo… vì cơ thể sẽ tiếp tục nhịp làm việc thay vì đổi hệ qua chế độ nghỉ ngơi!
- Không ngủ thì thôi nhưng hễ ngủ thì ráng tối thiểu bảy tiếng đồng hồ. Ngủ ít hơn là lý do gây tình trạng quen dần với giờ đánh thức mới khiến gia chủ choàng tỉnh khi đồng hồ mới gõ hai, ba tiếng!
- Tránh ngủ trễ và dậy trễ hơn vào cuối tuần vì nhịp sinh học bị xáo trộn khi bước vào ngày đầu tuần và sau đó gây mất ngủ cả tuần!
- Nên ngủ trưa khoảng 30 phút. Không cần lâu hơn và đừng ngả lưng sau 15 giờ.
- Đừng ngủ gà ngủ gật trước máy truyền hình vì khi vừa đứng lên vào giường thì trung khu điều hành giấc ngủ phát ngay tín hiệu đánh thức do tưởng đã xong giấc ngủ.
- Đừng bực tức nếu lỡ thức giấc nửa đêm, cũng đừng hối hả tìm lại giấc ngủ bằng mọi giá vì với trung khu thần kinh thì giấc ngủ đằng nào cũng đã vãn tuồng.
- Tránh ăn quá no sát giờ ngủ nhưng cũng đừng để bụng quá đói trước khi đi ngủ. Trung khu điều khiển giấc ngủ rất nhạy cảm với năng lượng nên thừa hay thiếu đều không hoạt động. 
Tình trạng này càng rõ nét hơn nữa ở người bệnh tiểu đường nếu đường huyết đến tối vẫn còn cao, cũng như ở người có đường huyết quá thấp khi sắp lên giường.
- Đừng gây trở ngại cho hoạt động của trung khu điều khiển giấc ngủ bằng cách uống cà phê hay rượu bia vào buổi tối. Cho dù có ngủ được nhờ say mềm thì khi thức dậy khó tránh mệt nhừ. Hậu quả là "túy khách" khó tránh mất ngủ trong những đêm sau đó, trừ khi ngày nào cũng xỉn!
- Đừng chơi thể thao quá sát giờ ngủ vì dễ gây hao hụt canxi và magiê, hai khoáng tố vốn cần thiết để trấn an hệ thần kinh.
- Tránh xem phim tình tiết éo le hay bàn cãi công việc gay gắt trước giờ ngủ vì sau đó khó tránh nhập vai ngay trong giấc ngủ rồi trăn trở suốt đêm.
- Đừng vội vã dùng ngay thuốc ngủ khi vừa mất ngủ vì chỉ khiến gia chủ ngày càng lệ thuộc thuốc và bắt buộc tăng liều lượng để mua thuốc độc trả góp từng đêm. 
Trái lại nên thử áp dụng các phương pháp không dùng thuốc như thiền định, ấn huyệt, ngâm chân nước ấm, tắm nước nóng và nước lạnh…, cũng như ưu tiên cho dược thảo có tính an thần như lạc tiên, vông nem, sen…
- Đừng quên là nhiều khi nhờ cây thuốc có công năng giải độc cho cơ thể như actisô, linh chi… mà lại ngủ ngon.


Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

Cảm cúm theo mùa - Chọn thuốc gì?

Bệnh cảm cúm theo mùa do virut gây ra. Bệnh thường lành tính và tự khỏi trong vòng 7 ngày.

Tuy nhiên cũng cần chú ý tới các biến chứng nguy hiểm nếu cơ địa bệnh nhân yếu như viêm phổi, viêm tai xương chũm..., nhất là ở trẻ em và người cao tuổi. Bệnh có biểu hiện như sốt, gai rét, ớn lạnh, nhức đầu, đau mình, mệt mỏi nhiều và cảm giác như kiệt sức.
Đối với các thể bệnh cúm thông thường, điều trị chủ yếu là giảm các triệu chứng do bệnh gây ra như hạ sốt, giảm đau đầu, đau mỏi người bằng thuốc cảm có bán tại các nhà thuốc. Bệnh nhân cần được nghỉ ngơi cho đến khi hết sốt, ăn thức ăn dễ tiêu và uống nhiều nước. 
Nên mua gói thuốc oresol (thành phần là glucose và một số muối của nhóm halogen) để pha uống có tác dụng rất tốt. Khi dùng thuốc trị cảm cúm chú ý chỉ dùng một loại theo liều lượng hướng dẫn trên vỉ thuốc. Đây là các thuốc bán không cần đơn và chỉ dùng trong thời gian ngắn để giảm sốt, giảm đau, chống dị ứng, trị nghẹt mũi...
Biện pháp chủ yếu để phòng bệnh cúm là sử dụng vaccin cúm. Các vaccin hiện nay được tinh chế cao và có ít tác dụng phụ. 
Vaccin nên được dùng sớm vào mùa thu trước đợt bùng nổ bệnh cúm và phân lập lại hàng năm để duy trì miễn dịch chống lại những chủng virut cúm phổ biến nhất.



Lạm dụng kháng sinh, nguy cơ 
viêm khớp

Thêm một lý do để không nên lạm dụng kháng sinh khi một nghiên cứu cho biết trẻ em nếu phải điều trị bằng thuốc diệt vi khuẩn cũng làm tăng nguy cơ bị viêm khớp thiếu niên.

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học thuộc Viện Sức khỏe trẻ em (New Jersey, Mỹ) phân tích dữ liệu sức khỏe từ năm 1994 - 2013 của hơn 450.000 trẻ trong độ tuổi 1 - 15 tại Vương quốc Anh.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy trẻ sử dụng thuốc kháng sinh lúc nhỏ tăng gấp đôi nguy cơ bị viêm khớp khi so với trẻ bình thường. Đặc biệt ở trẻ sử dụng trên 5 loại kháng sinh tăng gấp 3 nguy cơ này.
Dù kháng sinh đặc biệt mang lại lợi ích trong việc chống nhiễm trùng, tuy nhiên cũng có thể gây nên các tác dụng phụ khác như tiêu chảy, dị ứng, suy chức năng các cơ quan...



Anh: Uống thuốc giảm đau, thiếu nữ chết thảm vì suy gan

Georgia Littlewood (17 tuổi) chết thảm sau khi tự ý uống thuốc giảm đau paracetamol điều trị chứng đau bụng.
Kết quả giám định ban đầu cho thấy, cô gái đến từ Huddersfield, Tây Yorkshire chết vì suy gan do sử dụng thuốc giảm đau paracetamol nồng độ gấp 3 lần cho phép.
Uong thuoc giam dau, thieu nu chet tham vi suy gan
Vẻ mặn mà của Georgia khi còn sống
Georgia vốn là nhân viên văn phòng tại salon tóc. Thời điểm xảy ra sự cố, cô cùng bạn trai Tom Keen đi ăn đêm. Mọi việc đều suôn sẻ cho đến lúc 2g, Georgia cảm thấy đau bụng, tự ý uống thuốc giảm đau. 

Georgia tiếp tục nôn nhiều khiến bạn trai buộc phải đưa cô về nhà. Sức khỏe cô gái không tiến triển tốt hơn, thậm chí Georgia không thể nhận ra người thân khiến gia đình buộc phải đưa vào Bệnh viện Hoàng gia Huddersfield.
Dù được điều trị tích cực song Georgia qua đời sau hai ngày nhập viện. Nói về cái chết thảm này, các bác sĩ cho biết cô đã dùng quá nhiều paracetamol để làm dịu cơn đau mà không có sự hướng dẫn của người có chuyên môn.
Được biết, đây không phải lần đầu Georgia tự ý dùng thuốc. Mẹ cô cho hay con gái mình từng dùng ibuprofen để xua tan tình trạng đau đầu.
Điều tra kỹ hơn, cơ quan chức năng khẳng định Georgia tự ý sử dụng thuốc giảm đau quá liều không liên quan đến hành vi tự sát. Chính việc dễ dàng có được thuốc giảm đau cùng sự tùy tiện, thiếu hiểu biết dẫn đến tình trạng suy gan cấp tính do ngộ độc paracetamol gây nên cái chết đau đớn của cô gái trẻ.
Sự việc dấy lên nỗi no ngại về sự phổ biến của các loại thuốc giảm đau. Bạn có thể mua chúng ở bất kỳ hiệu thuốc tư nhân nào, thậm chí cả trong siêu thị. Điều này vô cùng nguy hại bởi sử dụng thuốc không đúng cách gây nên những tác dụng phụ khôn lường.

Thuốc... hại da

Một số loại thuốc thông dụng có thể làm tăng cường độ của ánh sáng tới da, khiến nguy cơ sạm da, nám da, nổi mẩn hoặc xuất hiện những rối loạn về da.

Nhiều người tự bảo vệ da dưới ánh nắng chói chang khi đi biển hoặc khi phải gồng mình chống nắng trong đám... kẹt xe bằng những phương pháp rất “khoa học” như sử dụng kem chống nắng, trang bị những phương tiện rất “khí thế” như bao tay, khẩu trang. Thậm chí, có người “kín mít” như Ninja. Tuy nhiên, rất ít người biết rằng một số loại thuốc thông dụng có thể làm tăng cường độ của ánh sáng tới da, khiến nguy cơ sạm da, nám da, nổi mẩn hoặc xuất hiện những rối loạn về da.
Những dược phẩm (DP) gây ra hiện tượng này được phân loại là "DP nhạy cảm với ánh sáng" (Sun-sensitizing drugs), có nghĩa là những DP sẽ gây tác dụng phụ lên da khi người sử dụng tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Một số DP bị tác động bởi tia UVB sóng ngắn, nhưng phần lớn bị tác động bởi tia UVA sóng dài.
Có hai dạng DP chính khiến da nhạy cảm với ánh sáng. Dạng thứ nhất là các DP gây dị ứng với ánh sáng (photoallergy). Khi da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời sau khi sử dụng một số DP bôi trực tiếp lên bề mặt da, tia tử ngoại (còn gọi là tia UV) từ ánh sáng mặt trời sẽ gây ra những thay đổi cấu trúc hóa học của thuốc, và cơ thể sẽ tạo ra những kháng thể để phản ứng lại.
Những phản ứng này sẽ tạo ra mẩn đỏ hoặc vết chàm trên da. Những phản ứng dị ứng thường xuất hiện vài ngày sau khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.
Dạng thứ hai phổ biến hơn, gọi là quang độc tính (phototoxicity). Có rất nhiều thuốc gây nhạy cảm với ánh sáng. Dạng nhạy cảm này xảy ra khi da tiếp xúc với ánh sáng mặt trời ngay sau khi sử dụng một số DP, bao gồm dùng đường uống, đường chích... 
Khi đó, DP trong cơ thể sẽ hấp thụ tia UV và sẽ thải vào da, làm cho tế bào da bị chết. Chỉ sau vài ngày sử dụng DP, những triệu chứng sạm, đỏ da, vết chàm sẽ xuất hiện rõ ở những vùng da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. 
Với một số bệnh nhân, những triệu chứng nhạy cảm với ánh sáng có thể tồn tại tới 20 năm kể từ ngày ngưng sử dụng thuốc. Thuốc dễ gây nhạy cảm với ánh sáng dạng này bao gồm những kháng sinh thuộc "gia đình" tetracycline, các loại thuốc kháng viêm không steroidal (nonsteroidal anti-inflammatory drugs- NSAIDs) chẳng hạn như ibuprofen, thuốc tim mạch như cordarone.
Tuy nhiên, không phải ai cũng bị phản ứng khi sử dụng các DP nhạy cảm với ánh sáng. Cũng có thể biểu hiện bệnh chỉ xuất hiện một lần rồi thôi, cũng có những phản ứng cứ tái đi, tái lại. Những bệnh nhân nhiễm HIV là nhóm dễ bị ảnh hưởng bởi những DP gây nhạy cảm với ánh sáng nhiều nhất.
Ngoài DP, một số thực phẩm cũng có thể làm cho da bị nhạy cảm với ánh sáng nếu tiếp xúc với da hoặc khi lấy nước ép bôi vào da (để làm đẹp hoặc giảm đau...) như chanh, cần tây, cà rốt, trái sung...


Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015

Thuốc trị bệnh huyết trắng

Bệnh huyết trắng là một trong những bệnh phụ khoa mà hầu hết phụ nữ nào cũng đã có lần mắc phải. Bệnh ảnh hưởng tới sức khỏe và cần điều trị dứt điểm tránh tái đi tái lại.

Bệnh huyết trắng
Huyết trắng (còn gọi là khí hư) bình thường khi có màu trắng đục hoặc trong, ít, không hôi, không gây ngứa âm hộ, không đau khi giao hợp... Huyết trắng có vai trò giữ cho âm đạo luôn ẩm, chống các vi khuẩn gây bệnh xâm nhập cơ thể. Tuy nhiên, khi nhiều mầm bệnh tấn công vượt quá khả năng bảo vệ của loại dịch này dẫn đến viêm nhiễm gọi là bệnh huyết trắng.
Huyết trắng bệnh: Số lượng nhiều, hôi, có màu vàng, xanh, trắng đục đóng thành váng; gây ngứa, bỏng rát, giao khi hợp đau, tiểu đau, tiểu nhiều lần, đau âm ỉ vùng bụng dưới. Tác nhân gây ra bệnh huyết trắng có thể là do nấm men, tạp trùng hoặc trùng roi. Cũng có tình trạng huyết trắng ra nhiều do viêm lộ tuyến cổ tử cung hoặc u xơ tử cung.
Bệnh huyết trắng không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng gây phiền toái và cảm giác khó chịu cho phụ nữ. Nếu để tình trạng bệnh kéo dài, lây lan, tái phát nhiều lần sẽ dẫn đến nguy cơ vô sinh, ung thư cổ tử cung... Đối với phụ nữ mang thai: bệnh huyết trắng nếu chữa khỏi ở giai đoạn đầu sẽ không ảnh hưởng đến thai nhi. Tuy nhiên, nếu huyết trắng do nấm kéo dài, không điều trị sẽ làm viêm nhiễm, thủng màng ối hay rỉ ối dẫn đến sinh non.
Và thuốc trị
Để điều trị bệnh huyết trắng, cần căn cứ vào nguyên nhân gây bệnh để dùng thuốc.
Huyết trắng do Candida albicans: có màu trắng đục, dính từng mảng, có lúc có mùi hôi, kèm theo triệu chứng ngứa ở âm hộ. Điều trị: đặt âm đạo bằng thuốc miconazole hay clotrimazole trong 6 ngày, kết hợp uống fluconazole, liều duy nhất (1 viên).
Huyết trắng do nhiễm Trichomonas Vaginalis: có màu vàng - xanh, loãng, có bọt, với số lượng nhiều, kèm theo triệu chứng ngứa rát âm hộ, có cảm giác như có con gì bò trong âm đạo, giao hợp đau, tiểu nóng. Điều trị: uống viên tinidazole hoặc secnidazole liều duy nhất.
Huyết trắng do tạp trùng: có màu vàng hoặc xám, loãng, tráng đều thành âm đạo, có mùi hôi. Điều trị: uống metronidazol liều duy nhất hoặc dùng liều uống trong 7 ngày.
Lưu ý: Các thuốc điều trị bệnh huyết trắng có nhiều tên biệt dược và hàm lượng khác nhau. Vì vậy, khi có biểu hiện bất thường ở vùng kín, chị em cần đi khám phụ khoa để được tư vấn và dùng thuốc. Cần tuân thủ chặt chẽ liều điều trị của bác sĩ. Không bỏ thuốc giữa chừng hay tự ý dùng thuốc, bệnh sẽ nặng hơn hoặc dễ tái phát, việc điều trị sẽ càng khó khăn.
Để phòng tránh bệnh huyết trắng, chị em cần vệ sinh vùng kín một cách khoa học, kết hợp với một chế độ ăn đầy đủ rau xanh, dưỡng chất và thói quen sinh hoạt lành mạnh một vợ một chồng. Không dùng dung dịch rửa quá nhiều lần trong ngày, bỏ thói quen thụt rửa âm đạo vì có thể làm thay đổi độ pH. Năng thay quần lót, tránh mặc quần ẩm ướt, luôn giữ cho vùng kín khô thoáng...


Không dùng tôi trong nhiễm khuẩn đang tiến triển

Hydrocortisone tôi là loại thuốc glucocorticosteroid, corticosteroid. Tôi được chỉ định dùng để chữa eczema cấp và mạn do nhiều nguyên nhân khác nhau, ngứa hậu môn - sinh dục.

Tôi còn được dùng như một liệu pháp thay thế. Hydrocortison (hoặc cortison) thường là corticosteroid được lựa chọn để điều trị thay thế cho người bị suy vỏ thượng thận (suy vỏ thượng thận tiên phát và thứ phát, tăng sản thượng thận bẩm sinh hoặc hội chứng thượng thận sinh dục). 
Liệu pháp tiêm bắp hoặc tĩnh mạch thường dành cho người bệnh không uống được thuốc hoặc trong tình huống cấp cứu, khi cần phải có tác dụng nhanh, như ở người bị suy thượng thận cấp (do cơn Addison hoặc sau cắt bỏ tuyến thượng thận, do ngừng thuốc đột ngột liệu pháp corticosteroid hoặc do tuyến thượng thận không đáp ứng được với stress gia tăng ở các người bệnh đó) và ở một số trường hợp cấp cứu do dị ứng: trạng thái hen và sốc, đặc biệt sốc phản vệ…
Tuyệt đối không dùng tôi cho người bệnh nhiễm khuẩn (đặc biệt trong lao tiến triển), nhiễm virut (thủy đậu, zona, herpes giác mạc), nhiễm nấm bệnh hay kí sinh trùng chỉ được dùng glucocorticoid sau khi đã được điều trị bằng các thuốc chống nhiễm các bệnh kể trên.
Khi dùng thuốc bôi ngoài da, tránh tiếp xúc với kết mạc mắt. Khi dùng cho trẻ nhỏ trên một diện tích rộng của thân thể, đặc biệt nếu dùng thời gian dài thì phải quan tâm đến nguy cơ ức chế trục hạ đồi - tuyến yên - thượng thận, gây tác dụng không mong muốn toàn thân. Khi dùng liều cao, cần rất thận trọng ở người bệnh bị loãng xương, mới nối ruột, loạn tâm thần, loét dạ dày tá tràng, lao, tăng huyết áp do đái tháo đường, suy tim và ở trẻ em đang lớn.
Không bao giờ được dùng glucocorticoid trong nhiễm khuẩn đang tiến triển, trừ trường hợp đã dùng thuốc chống nhiễm khuẩn trước đó. Mặt khác, vẫn có nguy cơ làm tăng nhiễm khuẩn do bị ức chế miễn dịch khi dùng glucocorticoid. Thận trọng khi dùng tôi cho phụ nữ mang thai và cho con bú.
Bạn có thể gặp một số tác dụng phụ của tôi: loãng xương, teo cơ. Hội chứng dạng Cushing ở một mức độ nào đó, chậm lớn ở trẻ em; không đáp ứng thứ phát của vỏ thượng thận và tuyến yên, đặc biệt trong thời gian stress, như khi bị chấn thương, phẫu thuật hoặc bị bệnh, tăng cân.
Bạn nên chú ý việc sử dụng các thuốc khác có thể làm ảnh hưởng đến tác dụng của tôi. Tốt nhất, nên sử dụng theo hướng dẫn của thầy thuốc. Với bất cứ triệu chứng khác lạ gì, bạn nên dừng thuốc và báo ngay cho thầy thuốc để có được tư vấn chính xác nhất.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons