Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

Clopromazin: Cần biết rõ tính năng, dùng đúng

Nếu không biết rõ hiệu lực chữa bệnh chắc chắn của nó thì cho là loại thuốc cổ, không muốn dùng. Nếu không biết rõ tác dụng không mong muốn thì cho là độc, bỏ dở liệu trình điều trị. Hai điều đó đều không lợi.
Clopromazin có hiệu quả chắc chắn, giá thấp
Khi mới phát minh (năm 1952), clopromazin (biệt dược: aminazin) được đánh giá là đã tạo ra bước ngoặt trong việc tìm thuốc chữa bệnh tâm thần - thần kinh; được dùng rộng rãi để chữa bệnh tâm thần phân liệt (TTPL), chống co giật, chống nôn, an thần, giảm đau, chống dị ứng. Nay có nhiều thuốc mới có các công dụng này tốt hơn, nên phạm vi dùng của clopromazin thu hẹp lại song trong tâm thần phân liệt chopromazin vẫn còn là thuốc điều trị chủ yếu.
TTPL là bệnh xã hội với tỉ lệ mắc ở nước ta khoảng 0,7% dân số, có xu hướng tăng ( ở các nước khác tỉ lệ này khoảng 1 - 1,5% dân số).
Theo triệu chứng chính, chia TTPL thành hai ra 2 thể lớn: thể dương tính với triệu chứng chủ yếu là: ảo giác, ảo thanh, hoang tưởng, rối loạn ý nghĩ, rối loạn tổ chức, kích động, hung bạo. Thể âm tính với triệu chứng chủ yếu: tư duy cùn mòn, nghèo nàn, khô cứng, mất khả năng nói, mất hứng thú, suy sụp ý chí, vô cảm. Clopromazin có hiệu quả chắc chắn trên thể dương tính, được xếp vào nhóm cố điển (còn gọi là nhóm điển hình).
Ngày nay, còn có các thuốc mới (gồm: Resperidon, Olanzapin, Clozapin, Quitiapin, Ziprasidon) có tác dụng chủ yếu trên thể âm tính và cả trên thể dương tính, được xếp nhóm thế hệ mới (hay còn gọi là nhóm không điển hình).
Thuốc nhóm thế hệ mới được chọn dùng trong 3 trường hợp: bệnh thuộc loại âm tính dùng loại thuốc cổ điển không có hiệu quả; kém dung nạp và không đáp ứng được với loại thuốc cổ điển; khi dùng loại thuốc cổ điển bị triệu chứng ngoại tháp không chịu được. Trong thực tế, chỉ có khoảng 20 - 30% số người bệnh TTPL rơi vào 3 trường hợp trên. Phần lớn (khoảng 70 - 80%) người bệnh TTPL thuộc vào thể dương tính, đáp ứng tốt với thuốc nhóm cổ điển. 
Chữa bệnh TTPL phải dùng thuốc kéo dài (điều trị và củng cố). Giá thuốc nhóm thế hệ mới khá cao, người có thu nhập thấp khó có thể đủ tiền theo đủ liệu trình. Trong khi đó, thuốc nhóm cổ điển có giá thấp hơn nhiều lần. Đứng trên quan điểm phục vụ số đông trong cộng đồng, trên quan điểm kinh tế chọn thuốc nhóm cổ điển như clopromazin để cấp miễn phí cho người bệnh là phù hợp.
Clopromazin có tác dụng không mong muốn nhưng không đáng sợ
Gây hạ huyết áp: lúc điều trị nhất là dùng liều cao tấn công trong giai đoạn cấp, clopromaxin gây hạ huyết áp mạnh làm cho người bệnh thấy mệt.
Gây hội chứng ngoại tháp, rối loạn vận động muộn: biểu hiện là có sự rối loạn vận động và phối hợp vận động dẫn đến mất thăng bằng, đi lại khó khăn, dễ bị té ngã, dễ va chạm vào các phương tiện giao thông khác, sờ vào vật gì cũng lóng ngóng, nói không lưu loát, rời rạc, từng tiếng một.
Gây thèm ăn: ăn nhiều, béo ra, béo đến nứt da.
Gây mất tập trung buồn ngủ: ngủ lơ mơ, chập chớn, không ngủ sâu như giấc ngủ sinh lý.
Tất cả các tác dụng không mong muốn nói trên sẽ giảm, mất hẳn khi giảm liều, khi ngừng thuốc; không để lại di chứng gì về thần kinh nên không đáng sợ.
Clopromazin: Cần biết rõ tính năng, dùng đúng
Liều gây tác dụng không mong muốn tương đương với liều điều trị đặc biệt trong giai trong giai đoạn cấp, ở nội trú với liều dùng khá cao (khoảng 10 - 20 viên /ngày, viên có hàm lượng 0,025mg).
Để giảm thiểu ảnh hưởng của các tác dụng không mong muốn cần: cho người bệnh dùng thuốc ngay tại giường bệnh khi dùng liều cao hay khi tiêm, sau khi dùng phải nằm nghỉ, khoảng 3 - 4 giờ mới có thể đứng đậy (tránh ảnh hưởng xấu của hạ huyết áp). Sau khi dùng thuốc, giữ không cho người bệnh ra đường; nếu người bệnh cần đi lại chút ít trong nội viện thì điều dưỡng cần theo sát nâng đỡ (nhằm tránh tai nạn và tai biến do hội chứng ngoại tháp). 
Người nhà, nhân viên bệnh viện cần thông cảm với người bệnh trong lúc giao tiếp, kiên nhẫn lắng nghe, hiểu họ. Tư vấn cho họ trước khi dùng thuốc để khi xảy ra các tác dụng không mong muốn, họ không hoang mang, yên tâm điều trị.
Người có thai cho con bú: trong 3 tháng cuối thai kỳ dùng clopromazin sẽ làm cho trẻ sơ sinh bị hội chứng ngoại tháp, có thể hồi phục song cũng có thể rất nặng. Clopromazin tiết qua sữa gây hại cho trẻ. Người TTPL trong độ tuổi sinh đẻ nên điều trị cho bệnh ổn định rồi mới có thai. Trong thời gian dùng thuốc cần có các biện pháp hữu hiệu nhằm tránh có thai ngoài ý muốn.
Không nên dùng clopromazin khi: cơn hen cấp; phì đại lành tính tuyến tiền liệt; glaucoma góc hẹp; tắc cổ bàng quang; loét dạ dày, chít tắc môn vị; đang dùng thuốc trầm cảm IMAO hay đã ngừng dùng nhưng chưa đủ 14 ngày.
Các thuốc gây ức chế thần kinh trung ương (an thần gây ngủ) các thuốc kháng histamin, thuốc phiện, rượu, sẽ làm tăng tác dụng ức chế thần kinh trung ương và hô hấp của clopromazin, rất nguy hiểm. Tránh dùng chung clopromazin với các thuốc này.
Thuốc trầm cảm 3 vòng, thuốc điều trị Parkinson khi dùng chung với clopromazin sẽ làm tăng tính kháng cholinergic chung gây độc. Không nên dùng chung.
Thuốc barbiturat làm tăng chuyển hóa giảm nồng độ máu nên làm giảm hiệu lực của clopromazin.
Dùng thuốc TTPL nói chung cũng như dùng clopromazin phải kéo dài. Nếu bỏ dở liệu trình, bệnh sẽ tái phát nặng hơn. Cơ thể quen với quá trình ức chế do các thuốc này tạo ra, nên khi bệnh đã giảm, cần giảm liều dần dần, khi bệnh đã ổn định thì cho dùng liều duy trì (chỉ khoảng 2 viên/ngày) để củng cố kết quả thu được.
Trong quá trình điều trị, người bệnh cần được theo dõi liên tục, cần khám định kỳ, để thầy thuốc xem xét lại tình trạng bệnh, điều chỉnh thuốc liều lượng cho phù hợp.

Trong điều trị TTPL cần có sự hỗ trợ của gia đình, cộng đồng: không được cho người bệnh là người điên, kỳ thị, mà phải gần gũi giúp đỡ họ. Thái độ thân tình, hành động hỗ trợ thiết thực sẽ có ý nghĩa rất quan trọng. Hiệu quả điều trị sẽ được tăng lên nhờ vào điều này.



Chữa đau răng, thuốc gì?

Đau răng không phải là bệnh riêng của người già (đầu bạc răng long) mà là của mọi lứa tuổi kể từ 2 tuổi trở đi. Sâu răng bắt đầu từ 7 - 8 tuổi, cao nhất vào 12 tuổi sau đó giảm dần
Theo thống kê của BV Răng Hàm Mặt trung ương năm 2011 thì Việt Nam là nước có tỉ lệ người mắc bệnh về răng miệng cao trên thế giới với 90% dân số.
Nguyên nhân gây đau răng
Có rất nhiều nguyên nhân như:
Do vi khuẩn có sẵn trong miệng: trong miệng mỗi người có nhiều loại vi khuẩn cả gram âm và gram dương; ưa khí, kỵ khí; xoắn khuẩn, phẩy khuẩn, thoi khuẩn. Loại gây bệnh về răng chủ yếu là Actinomyces vicosus, Streptococus Mutans gây sâu răng, nha chu viêm. Streptococcus viridians gây áp-xe răng…
Do màng bám trên mặt răng: được tạo thành trong thời gian ngắn ngay sau khi ăn các thức ăn giàu chất đường, bột (bánh, mứt, kẹo, kem, sirô, nước ngọt, sữa có đường; trái cây khô…) phối hợp với các vi khuẩn sinh acid phá men răng, gây sún răng sữa cho trẻ thiếu canxi và fluor. Mảng bám trên mặt răng có trên tất cả các mặt răng, nhiều nhất ở răng hàm. 
Cao răng là màng bám mặt răng được khoáng hóa bằng chất khoáng trong nước bọt và mùn thức ăn (gọi là bựa răng). Màng bám trên mặt răng là thủ phạm gây các bệnh về răng như: viêm lợi (viêm nướu răng) viêm quanh răng (nha chu viêm). Sâu răng, áp-xe răng…
Do đồ uống có ga, trái cây có vị chua chứa nhiều acid hữu cơ làm mòn men răng.
Do đồ uống có ethanol (bia, rượu, đặc biệt là rượu vang trắng và đỏ) ức chế sản xuất nước bọt là chất sát khuẩn trong miệng và cung cấp các men tiêu hóa thức ăn
Do hình thể răng: răng hàm có nhiều rãnh trên mặt nhai là chỗ đựng mùn thức ăn và màng bám trên mặt răng khó súc rửa, phá men răng gây sâu răng nguồn gốc của các triệu chứng khó chịu như: buốt răng, ê răng, đau nhức răng…
Do thiếu dinh dưỡng:
- Thiếu vitamin C sinh viêm lợi, lợi sưng đỏ, chảy máu chân răng, chảy máu dưới da (biểu hiện của bệnh Scorbut).
- Thiếu canxi, vitamin D3, vitamin A , fluor là những nguyên liệu rất cần thiết cho cấu tạo răng, khoáng hóa răng và giúp răng mọc đúng vị trí.
Do suy yếu sức đề kháng:
- Của trẻ em sau khi mắc các bệnh do siêu vi gây nên (phần lớn do sởi) và không giữ vệ sinh răng miệng tốt, gây viêm loét hoại tử miệng thường gọi là “cam tẩu mã”, gây nhiễm trùng máu và biến chứng phổi cho trẻ 2 - 7 tuổi, có thể chết rất nhanh trong vài ngày nếu không được cứu chữa tích cực kịp thời.
- Của người già: thường viêm lợi, viêm quanh răng.
Do chấn thương răng miệng: ngã, tai nạn giao thông, khi ăn nhai phải sạn, ẩu đả... gây gãy răng, mẻ răng, rạn răng, vi khuẩn theo đó xâm nhập vào tủy răng gây nhiễm trùng.
Do sự cố nha khoa, như: khi nhổ răng hàm bị sâu lâu ngày đã nát thân chỉ còn chân răng, nên phải đục để nhổ chân răng, gây rạn xương hàm...
Do mọc răng khôn còn gọi là răng hàm thứ 3: kéo dài từ 16 - 30 tuổi, đặc biệt tới 45 tuổi. Thường gây đau và viêm nướu lúc mọc, nhất là răng khôn mọc lệch (kéo dài từ 16 - 30 tuổi, trường hợp đặc biệt tới 45 tuổi).
Do rối loạn nội tiết tố như: viêm lợi tuổi dậy thì, viêm lợi khi hành kinh, viêm lợi khi thai nghén, viêm lợi tuổi mãn kinh...
Thuốc chữa đau răng
Tùy thuộc nguyên nhân gây đau răng mà thầy thuốc lựa chọn thuốc và phương pháp chữa phù hợp.
Thông thường nha sĩ cho bệnh nhân 2 loại thuốc để điều trị ngoại trú: thuốc giảm đau: paracetamol, aspirin và thuốc kháng sinh như: amoxicyclin, tetracylin, doxycyclin, spiramycin… phối hợp với metronidazol (rhodogyl phối hợp: metronidazol và spiramicin).
- Phối hợp các kháng sinh họ beta lactam với metronidazol đem lại hiệu quả cao để diệt cả vi khuẩn ái khí và vi khuẩn kỵ khí (người bệnh không được uống bia, rượu trong thời kỳ dùng thuốc có metronidazol tới 72 giờ).
Nhiều người lại quên các vitamin: C, A, D3, B2 là thứ rất cần cho người bệnh đau răng.
Các loại thuốc Nam dễ kiếm để chữa bệnh răng miệng có nhiều thứ, hiệu quả nhất: gừng tươi, nghệ tươi, kha tử… Đặc biệt, gel tươi lô hội là thuốc rất tốt cho phòng bệnh và điều trị các bệnh răng miệng (có tác dụng: giảm đau, kháng sinh, diệt khuẩn, hồi phục tổ chức thương tổn, bồi bổ cơ thể…).
Lấy gel tươi lô hội khoảng 3 - 5g đặt trên mặt răng đau rồi nuốt nước, 15 phút sau là giảm đau. 3 giờ sau nếu chưa khỏi thì ngậm tiếp 1 miếng gel tươi lô hội nữa là khỏi).
Phòng bệnh
Vệ sinh răng miệng thường xuyên sau mỗi khi ăn, cần thực hiện từ khi bắt đầu mọc răng sữa (6 tháng tuổi).
Trẻ còn bú và bé chưa biết chải răng thì mẹ phải nhớ dùng gạc mềm sạch lau lợi, răng cho bé sau mỗi khi ăn, uống nước ngọt. Không cho trẻ bú đêm từ 8 tháng tuổi để tránh hỏng răng sữa.
Cần tập cho trẻ từ 3 tuổi có thói quen chải răng, súc miệng làm sạch răng miệng sau khi ăn. Nên dùng bàn chải lông mềm, kem đánh răng có fluor (F). Sau cùng súc miệng bằng nước chè xanh (trong nước chè xanh có nhiều fluor).
Người già không còn răng thì phải vệ sinh lợi và răng giả (nếu có) sau mỗi khi ăn (hiện nay vẫn còn nhiều người quen thói cũ là chỉ đánh răng sau khi ngủ dậy buổi sáng, mà không biết việc vệ sinh răng miệng sau mỗi khi ăn).
Ăn uống đủ chất dinh dưỡng cho xương, răng: từ khi bắt đầu có mầm răng trong bụng mẹ đến khi già không còn răng (để con có bộ răng tốt đẹp, quan trọng nhất là từ lúc mẹ mang thai đến khi bé 13 tuổi). 
Khi mang thai, người mẹ cần ăn uống đủ chất (đạm, canxi, phốt pho, vitamin A, D3...), từ tháng thứ 3 trở đi của thai kỳ không được uống thuốc có tetracylin, doxycyclin (sẽ làm răng bé xỉn màu), từ tháng thứ tư trở đi phải đảm bảo lượng canxi 1.200mg, vitamin A 2.500 - 3.000UI, vitamin D3: 300 - 400UI/ ngày trong khẩu phần của mẹ.
Chống sâu răng: bộ răng sữa của trẻ 20 chiếc (8 răng cửa + 4 răng nanh+ 8 răng cối sữa) mọc từ 6 - 30 tháng tuổi. 6 tuổi - 12 tuổi được thay thế bằng 28 răng vĩnh viễn (8 răng cửa + 4 răng nanh + 8 răng tiền cối + 8 răng cối). 
Cần trám bịt hố rãnh trên mặt nhai răng cối từ khi mới mọc (kể cả răng cối sữa lúc 1 - 2 tuổi) để chống sâu răng. Định kỳ 6 tháng 1 lần kiểm tra răng, lấy cao răng và trám bịt lại hố rãnh trên mặt nhai răng cối (nhất là răng cuối hàm là răng hàm mọc đầu tiên và dễ sâu nhất).
Tập luyện hàng ngày: buổi tối trước khi ngủ và buổi sáng khi vừa thức dậy cần tập thể dục răng miệng bằng cách: gõ răng 100 cái (hai hàm răng gõ vào nhau như kiểu rét run cầm cập), sau đó đảo lưỡi 20 lần bên phải và 20 lần bên trái, cuối cùng súc miệng để tạo nước bọt rồi nuốt hết nước bọt (gọi là nuốt ngọc dịch) 20 lần. 
Tác dụng: làm cho răng bền chắc; kích thích tuyến nước bọt hoạt động tốt, cung cấp đủ nước bọt là chất sát khuẩn ở miệng, hạn chế đến mức thấp nhất các vi khuẩn gây bệnh răng miệng và xâm nhập cơ thể qua đường tiêu hóa. 
Nước bọt còn làm sạch các thức ăn bám trong miệng; các protein, bicarbonat của nước bọt sẽ hòa tan, trung hòa, acid hóa mảng bám vi khuẩn giảm tác hại đến răng; các chất canxi, phosphat, fluor trong nước bọt sẽ tăng sự tái tạo và khoáng hóa men răng. 
Nước bọt còn cung cấp nhiều loại men cho quá trình tiêu hóa thức ăn (nên dạy cho trẻ từ 10 tuổi tập và thường xuyên nhắc nhở động viên các cháu để thành thói quen tốt, đến già hàm răng vẫn tốt đẹp không phải đeo răng giả, không bị khô miệng).



4 lưu ý khi bổ sung axit folic

Axit folic phòng tránh thiếu hụt hồng cầu, hỗ trợ điều trị viêm loét tá tràng, ngăn ngừa đột quỵ, đặc biệt là ngừa sẩy thai và khuyết tật ống thần kinh ở thai nhi.

acid folic
Axit Folic là một loại vitamin nhóm B, rất cần thiết cho sự sống. Tác dụng lớn nhất của axit folic là bổ máu. Việc bổ sung axit folic gần như là bắt buộc đối với người thiếu máu, mệt mỏi, axit folic đặc biệt quan trọng với phụ nữ mang thai. Điều đáng nói là axit folic rất dễ bị thay đổi tính hiệu dụng khi kết hợp với những loại thuốc khác, vì vậy cẩn thận là điều không thừa khi bổ sung vi chất này.
1. Không kết hợp với thuốc chống viêm
Thuốc chống viêm thường được dùng trong việc điều trị chống viêm đau khớp với tác dụng nhanh và hiệu quả. Tuy nhiên, điều đáng ngại là các loại thuốc chống viêm lại làm thay đổi chuyển hoá của axit folic, cụ thể là làm thay đổi hoạt tính của enzym didhydrofolat reductase. Do đó mà folic không thể trở thành một hạt nhân hoạt hoá cần thiết, làm mất đi tác dụng bổ máu và làm giảm tác dụng tổng hợp DNA, kích thích tạo tuỷ xương của loại vitamin này.
Bởi vậy, bạn không nên sử dụng các loại thuốc chống viêm như aspirin, sulphasalazin, sulindac, indomethacin, naproxen, axit salicylic, ibuprofen, piroxicam… khi đang bổ sung acid folic. Nếu việc điều trị với thuốc chống viêm và bổ sung acid folic là bắt buộc, bạn nên uống axit folic trước thuốc chống viêm ít nhất 4 tiếng đồng hồ.
2. Cẩn thận với thuốc dạ dày
Axit folic được hấp thu chủ yếu ở trong dạ dày, nhờ các loại acid có trong dạ dày. Nồng độ axit cao trong dạ dày tạo điều kiện cho folic dễ hoà tan và dễ được hấp thu hơn.
Tuy nhiên, trong điều trị các bệnh lý dạ dày, chúng ta phải thường xuyên dùng thuốc chống tiết acid để làm giảm nồng độ acid trong dạ dày. Tác dụng của thuốc sẽ giúp bạn chống lại tình trạng viêm loét nhưng lại vô tình làm giảm hấp thu acid folic.
Nếu như việc sử dụng cùng lúc hai loại thuốc này là bắt buộc, hãy hỏi ý kiến bác sĩ về việc tăng liều lượng axit folic nạp vào cơ thể, để bù trừ lại phần thiếu hụt do giảm hấp thu mà thuốc trị bệnh dạ dày gây ra.
3. Tránh xa thuốc hạ mỡ máu
Nếu bạn là nạn nhân của chứng tăng mỡ máu thì rất có thể bạn sẽ được uống đồng thời hai thứ thuốc là folic và thuốc hạ mỡ máu. Tuy nhiên, hãy cẩn thận với cholestyramin, một loại thuốc hạ mỡ khá phổ biến, có tác dụng điều chỉnh lượng cholesterol trong máu. Bởi loại thuốc này sẽ làm thay đổi nghiêm trọng khả năng hấp thu của ruột, gây giảm hấp thu nghiêm trọng axit folic.
Các thử nghiệm y khoa cho thấy: Những người sử dùng cholestyramin trên 1 tháng có dấu hiệu thiếu folic. Nếu dùng thuốc kéo dài thì sẽ mắc bệnh thiếu folic thực thụ, ngay cả khi bạn vẫn bổ sung axit folic qua thực phẩm bạn ăn mỗi ngày.
Để đối phó với tình trạng này, chúng tôi khuyên bạn, nếu phải dùng chung, hãy uống viên bổ sung folic trước ít nhất 2 - 3h đồng hồ rồi mới uống thuốc điều chỉnh mỡ máu. Thêm nữa, bạn không nên dùng thuốc hạ mỡ máu này kéo dài. Giữa các đợt dùng thuốc nên cách nhau khoảng 2 tuần để cơ thể có thời gian bổ sung phần acid folic thiếu hụt từ các loại thực phẩm hoặc các viên uống bổ sung.
4. Nói không với rượu
Rượu (không ngoại trừ rượu thuốc) được chứng minh là thủ phạm gây ra sự giảm hấp thu folic trong ruột. Khi đi vào cơ thể, rượu phá huỷ gan nên làm giảm lượng folic dự trữ ở trong gan đồng thời tác động trực tiếp lên axit folic và làm giảm hoạt tính của nó.
Các nhà nghiên cứu đã kiểm nghiệm và phát hiện, hầu hết những người nghiện rượu 2 năm đều bị thiếu axit folic.. Thí nghiệm trên động vật (khỉ) cho thấy, khi cho một con khỉ uống rượu thường xuyên, trong một thời gian ngắn, con vật này sẽ bị thiếu máu do thiếu axit folic. Lý giải điều này người ta giả thuyết cho rằng rượu đã làm thay đổi hoạt tính các chất bề mặt có tác dụng hấp thu folic.



Vitamin E lợi hay hại cho phổi?

Vitamin E, được coi là chất chống ôxy hóa mạnh mẽ, được cho là đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe tim mạch và thần kinh.

vitamin E
Tuy nhiên, theo nghiên cứu mới của Đại học Northwestern (Mỹ), hàm lượng lớn vitamin E trong các loại dầu thực vật như: dầu hạt cải, dầu đậu tương và dầu ngô không có tác dụng đối với việc bảo vệ phổi, thậm chí còn rất có hại.
Tại sao lại có sự mâu thuẫn này?
Nguyên nhân bởi trong 4 dạng tocopherol của vitamin E là alpha, gamma, beta và delta, thì vitamin E có trong dầu hạt cải, dầu ngô, và đậu tương tồn tại ở dạng gamma-tocopherol. Khi hàm lượng gamma-tocopherol trong máu càng cao thì càng làm giảm chức năng và hoạt động của phổi cũng như hệ thống hô hấp nói chung.
GS Cook-Mills của Khoa Nghiên cứu Dị ứng và Miễn dịch học trực thuộc Đại học Northwestern cho biết, tỉ lệ cao của gamma tocopherol trong huyết tương sẽ làm giảm 10-17% chức năng của phổi. Trong vòng vài năm trở lại đây tại Mỹ đã có tới hơn 4,5 triệu ca bị hen suyễn, suy giảm chức năng phổi do khẩu phẩn ăn chứa nhiều vitamin E dạng gamma tocopherol.
Thế nhưng, nếu vitamin E tồn tại dưới dạng alpha tocopherol lại rất tốt, giúp giảm thiểu nguy cơ bị hen suyễn và các bệnh về đường hô hấp khác. Vitamin E tồn tại dưới dạng alpha tocopherol thường có trong dầu ô liu, mầm lúa mạch, hạnh nhân, rau xanh và dầu hướng dương…
Do đó, cần hiểu rõ về vitamin E và dạng tồn tại của chúng trong các thực phẩm để bổ sung an toàn cho sức khỏe.



Dùng thuốc kháng sinh có thể gây tiêu chảy

Tiêu chảy hay dân gian thường gọi đùa là "tào tháo đuổi" khiến cho người mắc bệnh vô cùng khó chịu. Nguyên nhân gây ra chứng bệnh này đôi khi là do việc uống thuốc kháng sinh.
















Ai cũng mong muốn mình khỏi ốm nhanh để có sức khỏe làm nhiều việc khác, nên nhiều người thường lạm dụng thuốc kháng sinh mà không tham khảo ý kiến của y bác sĩ. Chính điều này đôi khi là nguyên nhân gây ra bệnh tiêu chảy hết sức khó chịu.
Với những trường hợp mắc các bệnh như: viêm mũi, các vấn đề về răng miệng… sử dụng kháng sinh lúc này có thể đánh mất đi sự cân bằng giữa vi khuẩn tốt và vi khuẩn xấu trong cơ thể bằng việc khuẩn chí trong ruột bị thay đổi, khiến cho quá trình xử lí thức ăn của cơ thể bị ảnh hưởng.
Sau khi sử dụng thuốc kháng sinh cho các trường hợp trên mà bạn bị tiêu chảy thì tốt nhất nên đến ngay các cơ sở y tế để được tư vấn về cách sử dụng thuốc cho đúng. Đồng thời, người bệnh cũng nên nhớ hạn chế ăn sữa chua có chứa probiotic trong lúc này để giúp cân bằng lại hoạt động của các bộ phận trong cơ thể.
Một trong những loại nhiễm trùng nguy hiểm nhất xảy ra sau một đợt dùng kháng sinh là nhiễm Clostridium difficile (C.diff). Loại vi khuẩn này tồn tại tự nhiên trong ruột nhưng các thuốc có thể gây quá phát dẫn tới tiêu chảy nặng, thường phân có màu xanh của tảo biển kèm theo sốt. Bạn hãy khám bác sĩ ngay lập tức nếu thấy các triệu chứng này.



Uống thuốc gì thì kiêng tỏi?

Tỏi vừa là gia vị vừa là loại thuốc truyền thống tốt. Nhưng chúng lại tương tác tai hại với một số thuốc tân dược mà bạn đang dùng. Vậy uống thuốc gì thì kiêng tỏi.


641-01506793
Thuốc chống kết dính tiểu cầu
Thuốc chống kết dính tiểu cầu là những thuốc có tác dụng chống lại sự kết tụ các tế bào tiểu cầu thành một đám. Thuốc thường được dùng dự phòng tái phát cho người bị bệnh mạch vành như nhồi máu cơ tim, thiếu máu cơ tim, đột qụy não thể nhồi máu.
Tỏi cũng là một loại thảo dược có tác dụng chống sự kết dính tiểu cầu. Nếu bạn dùng tỏi cùng với thời gian sử dụng thuốc sẽ dẫn đến hậu quả là chống kết dính tiểu cầu quá mức.
Lời khuyên: Nếu đã lỡ dùng tỏi liều cao hoặc dùng thuốc cùng tỏi, bạn nên hạn chế vận động mạnh để tránh chảy máu nội tạng.
Thuốc chống đông máu
Những người bệnh bị rối loạn mỡ máu hoặc bị tắc mạch não, mạch vành buộc buộc phải dùng các thuốc chống đông máu loại mạnh nhằm kiểm soát cục máu đông. Nếu bạn dùng nhiều tỏi kết hợp với thuốc thì sẽ chuyển từ dạng dễ đông máu sang dễ chảy máu.
Lời khuyên: Nên kiêng tuyệt đối việc dùng tỏi. Nếu phải điều trị bệnh khác, bạn cần chú ý đề nghị dược sỹ tránh bán các loại thuốc có chiết xuất tỏi (ví dụ một số thuốc trị đầy hơi, ho dị ứng bào chế từ tỏi).


Bổ sung collagen cho cơ thể cần loại nào?

Ảnh minh họa
Collagen trong cơ thể có nhiều nhóm, ví dụ như collagen nhóm 1 là thành phần da, gân, thành mạch, dây chằng... collagen nhóm 2 là thành phần chính của sụn, collagen nhóm 3 là thành phần chính của các sợi lưới liên kết trên da, dây chằng... Khi bổ sung collagen cần phải xem xét phù hợp với nhu cầu thực tế của cơ thể.
Ví dụ, đối với bệnh viêm khớp thì việc bổ sung collagen nhóm 2 cùng với glucosamine là lựa chọn tốt nhất để tăng cường vận động và giảm đau. Nếu mục đích bổ sung collagen là để cải tạo da, móng và tóc thì phải chọn collagen nhóm 1 và 3. Cách tốt nhất để "bổ sung" collagen là thực hiện chế độ ăn uống đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng, tránh để cơ thể tiếp xúc trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons