Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015

"Kẹo" thuốc: Dùng đúng mới hiệu quả

Là thuốc nhưng không phải uống, lại có thêm vị ngọt, thuốc dạng kẹo nhai được nhiều người ưu chuộng hơn là vì thế. Nhưng "kẹo thuốc" thì không có nghĩa là bạn có thể thoải mái "ăn"

thuoc-keo-nhaiNhai kỹ trước khi nuốt
Với những loại thuốc dạng kẹo nhai các thành phần của thuốc cần phải được thẩm thấu từ từ qua tuyến nước bọt. Vì vậy bạn cần nhai thật kỹ cho thành phần của thuốc tan ra hết thì mới có tác dụng tốt. Nên nhai trong khoảng 30 phút nhằm giúp dược chất được phóng thích ra hoàn toàn.
Thuốc dạng nhai thường là các loại thuốc giảm đau hoặc thuốc giúp cai nghiện thuốc lá nên việc nhai lâu sẽ giúp bạn tập trung vào cơ miệng, giảm được cảm giác đau nhức hoặc đỡ nhạt miệng, giảm cảm giác thèm thuốc lá.
Dùng đúng liều lượng
Thuốc nhai tuy ở dạng kẹo, có vị ngọt, nhưng về thành phần nó vẫn phải chứa một lượng hoạt chất có tác dụng chữa bệnh. Ngoài ra, các loại thuốc dạng kẹo nhai thường có thêm các chất hoá dẻo, chất làm ngọt, chất màu, chất tạo hương, chất ổn định, chất độn… Vì vậy, khi bạn dùng thuốc nên có kê toa của bác sĩ không tùy tiện "ăn" vô tội vạ.
Ví du: Loại kẹo nhai giúp cai nghiện thuốc lá có hàm lượng 2mg/thỏi (dùng cho người nghiện nhẹ) và 4mg/thỏi (dùng cho người nghiện nặng). Cả hai loại này nên dùng khoảng 15 thỏi/ngày. 
Mỗi lần nhai trong vòng 30 phút chất nicotin sẽ được giải phóng ra hết, giúp cho người nghiện thuốc lá cai được thuốc sau một thời gian. Khoảng cách giữa mỗi lần nhai nên cách nhau từ 1-2 giờ, chỉ nên sử dụng tối đa là 3 tháng, sau 3 tháng bạn nên giảm liều lượng rồi bỏ hẳn.
Với các loại thuốc dạng kẹo nhai khác, bạn cũng cần sử dụng theo đúng chỉ dẫn về liều lượng và thời gian nhai, khoảng cách giữa các lần dùng. Tốt nhất bạn nên dùng theo sự chỉ dẫn của bac sĩ.
Nuốt bã sau khi nhai
Khi dùng các loại thuốc dạng kẹo nhai này tuy giống với kẹo cao su, nhưng thực chất đây hoàn toàn là dược chất, có tác dụng chữa bệnh giống như các loại thuốc thông thường khác. Vì vậy, khi nhai kỹ bạn nên nuốt tất cả bã chứ không bỏ bã như kẹo cao su vì các thành phần thuốc còn nằm trong cả bã kẹo. Nếu bạn nhả bã sẽ làm giảm sự hiệu quả của thuốc.
Lưu ý: Kẹo nhai dạng tương tự như kẹo cao su cần được bảo quản đúng để không bị biến chất (chảy nước hay cứng lại), không bị nhiễm khuẩn… Nên để tránh xa tầm tay trẻ em, vì trẻ có thể tưởng nhầm là kẹo, gây ngộ độc độc.
Theo Đông Thảo - Sức khỏe gia đình


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Dị ứng thuốc vì... "lơ mơ"

Dị ứng thuốc đã và vẫn là vấn đề cần quan tâm không chỉ của ngành y tế, đặc biệt trong điều trị và phòng tránh. Không ít người vẫn còn băn khoăn vì sao uống thuốc chữa bệnh lại thành mắc bệnh?
Căn bệnh đang gia tăng trong cộng đồng
Khó có con số chính xác về tỉ lệ những người bị dị ứng thuốc trên thế giới. Ở nước ta, hàng năm, tại Trung tâm Dị ứng - Miễn Dịch lâm sàng, BV Bạch Mai tiếp nhận và điều trị cho hàng nghìn ca dị ứng thuốc và con số này càng ngày càng gia tăng.
PGS.TS Nguyễn Văn Đoàn - Giám đốc Trung tâm DƯ-MDLS, BV Bạch Mai cho biết, nguyên nhân làm gia tăng dị ứng thuốc là do sự lạm dụng thuốc, thói quen tự điều trị - dùng thuốc theo mách bảo của những người xung quanh trong nhân dân. 
Với cán bộ y tế (bác sĩ, dược sĩ), nhiều người còn thiếu kiến thức và sự thiếu thận trọng trong kê đơn và phát thuốc; Thiếu trách nhiệm trong sản xuất và bảo quản thuốc cùng việc quản lý các nguồn thuốc chưa chặt chẽ. 
Trong khi đó, phản ứng dị ứng thuốc lại có những biểu hiện lâm sàng và phi lâm sàng rất đa dạng, phức tạp và khó lường.
Dị ứng thuốc vì... Hội chứng Lyell - một biểu hiện nặng của dị ứng thuốc
Dị ứng thuốc nặng, điều trị càng khó khăn
Phần lớn bệnh nhân đến khám, cấp cứu và đến Trung tâm DƯ-MDLS thì bệnh đã nặng vì bệnh nhân thiếu hiểu biết về dị ứng thuốc. Họ nghĩ rằng những triệu chứng này chỉ là bệnh ngoài da và là bệnh nhẹ. 
Chính vì thế, đến khi bệnh đã nặng mới đi khám. Và rất nhiều bệnh nhân nặng khi chuyển đến Trung tâm DƯ-MDLS đều đã đến khám ở những địa chỉ không có uy tín và không có chuyên môn dị ứng. Đây là nguyên nhân khiến cho bệnh nặng hơn. Trong khi đó, bệnh càng nặng thì việc điều trị càng khó khăn.
PGS.TS Nguyễn Văn Đoàn cho biết: "Việc điều trị cho những bệnh nhân bị dị ứng nặng gặp rất nhiều khó khăn vì thường có nhiễm trùng kèm theo, có nhiều tổn thương sâu, nhiều cơ quan bị tổn thương, do đó, khó xác định được nguyên nhân gây dị ứng. 
Vì vậy, Trung tâm DƯ-MDLS chúng tôi phải tiến hành nhiều xét nghiệm, điều trị nhiều bệnh phối hợp, dùng nhiều thuốc hoặc thuốc đắt tiền hơn, mất nhiều thời gian và nguy cơ tử vong sẽ cao hơn.
Ai cũng có thể bị dị ứng thuốc
Dị ứng thuốc là sự phản ứng của hệ thống miễn dịch của cơ thể đối với một loại thuốc nào đó. PGS.TS Nguyễn Văn Đoàn khẳng định: Ai cũng có thể bị dị ứng thuốc. Loại thuốc nào và mọi hình thức đưa thuốc vào cơ thể như tiêm, uống, xoa… đều có thể gây dị ứng. 
Tuy nhiên, những người có tiền sử về dị ứng như dị ứng thời tiết, dị ứng thức ăn, hen phế quản, viêm mũi dị ứng, những người có cơ địa dị ứng sẽ có khả năng dị ứng cao hơn khi sử dụng thuốc. 
Việc dùng thuốc không đúng chỉ định của bác sĩ, không đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng, dùng quá liều lượng, dùng kết hợp nhiều loại thuốc cùng lúc, dùng trong thời gian kéo dài hay việc kết hợp nhiều loại thuốc một lần mà không biết chúng phản ứng chéo, tương tác lẫn nhau cũng dễ gây dị ứng thuốc. 
Khi bị dị ứng thuốc nhẹ, bệnh nhân có thể bị mẩn ngứa, phát ban, nổi mày đay, đỏ da, phù mặt (phù Quincke)... 
Tuy nhiên, với nhiều trường hợp, nếu bị dị ứng thuốc trầm trọng làm loét chợt niêm mạc mắt mũi miệng, bộ phận sinh dục; da toàn thân bị bong tróc như phải bỏng như ở hội chứng Lyell, hội chứng Steven Johnson thì có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Đáng ngại nhất là sốc phản vệ có thể làm bệnh nhân tử vong ngay lập tức. Sốc phản vệ xảy ra rất nhanh ngay sau khi tiêm hoặc uống thuốc một vài phút, người bệnh đột ngột bị khó thở, sẩn ngứa toàn thân, hạ huyết áp, trụy tim mạch. 
Đây là trường hợp dễ dẫn đến tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời. Thường gặp khi tiêm thuốc, nhất là các thuốc kháng sinh như penicillin, streptomycin, thuốc chống viêm, giảm đau, dịch truyền... hoặc ngay cả khi thuốc được xem là "hiền" như một số loại vitamin cũng có thể gây sốc phản vệ do thuốc cho những người mẫn cảm với thuốc này.
Làm gì để hạn chế?
PGS.TS Nguyễn Văn Đoàn nhấn mạnh: Trước hết, không có bệnh không dùng thuốc, không lạm dụng thuốc, hóa chất, mỹ phẩm... Người bệnh chỉ nên dùng thuốc điều trị bệnh theo đúng đơn chỉ định của bác sĩ, không tự ý mua thuốc để tự điều trị cũng như giới thiệu thuốc điều trị cho người khác.
Người bệnh cần biết phát hiện những bất thường trong quá trình dùng thuốc. Nếu đang dùng thuốc mà thấy có các dấu hiệu bất thường như sẩn ngứa, nổi mày đay, đau đầu, chóng mặt, khó thở hoặc cảm thấy khó chịu thì lập tức ngưng sử dụng thuốc đó, đến khám ngay ở cơ sở y tế gần nhất hoặc gọi điện cho bác sĩ, dược sĩ để có thể được xử trí kịp thời. 
Sau đó, bệnh nhân nên đến tái khám ở bác sĩ đã chỉ định thuốc để bác sĩ có thể thay đổi thuốc điều trị nếu cần. Các biện pháp dân gian điều trị dị ứng thuốc như uống nước đậu xanh để giã thuốc, uống nước chanh, lòng trắng trứng... đều chưa có cơ sở khoa học để chứng minh.
Khi đã bị dị ứng loại thuốc nào thì tuyệt đối không được dùng loại thuốc đó nữa. Việc dùng thuốc chống dị ứng chỉ mang tính chất nhất thời giải quyết các triệu chứng, hậu quả của dị ứng thuốc chứ không giải quyết được căn nguyên dị ứng. 
Nên nhớ rằng, tình trạng dị ứng đối với một loại thuốc xảy ra ở những lần sau đều trầm trọng hơn lần trước. Khi đi khám bệnh phải thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết những loại thuốc mà mình đã bị dị ứng trước đây và những loại thuốc hiện đang dùng để được hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý, an toàn.
Theo Nguyễn Hạnh - Sức khỏe và Đời sống



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Những loại thuốc không nên dùng khi lái xe

nhung-loai-thuoc-khong-nen-dung-khi-lai-xe
Ảnh minh họa
Lý do là vì các loại thuốc này ảnh hưởng đến sự tập trung, cũng như khả năng phản ứng trong các trường hợp khẩn cấp.
1. Nhóm thuốc giảm đau
Đây là loại thuốc có chứa các thành phần thuốc phiện như morphine và codeine, gây buồn ngủ, chóng mặt, hưng phấn, và mất phương hướng.
Tuy nhiên, có rất nhiều loại thuốc OTC, như ibuprofen, tuy không gây buồn ngủ và chóng mặt nhưng lại làm giảm cơn đau trong những ngày đầu dùng thuốc và nếu dùng dài kỳ có thể gián tiếp gây thư giãn, làm giảm sự phối hợp và phản ứng của cơ thể.
Vì lý do an toàn, sau một vài ngày khi cơn đau đã thuyên chuyển hãy lái xe, hoặc tốt nhất khi cầm lái nên tránh xa nhóm thuốc này.
2. Thuốc kháng histamine
Thế hệ thuốc kháng histamin cổ điển thường gây buồn ngủ nhưng thế hệ mới (sau năm 1980) nếu dùng lựa chọn sẽ tránh được phản ứng phụ nói trên như thuốc Claritin, Allegra và Zyrtec. Tuy nhiên khi sử dụng nhiều người không đọc kỹ nhãn mác nên dễ bị nhầm và gây buồn ngủ.
Những người dùng thuốc kháng histamine để chữa ho, cảm lạnh hoặc dị ứng mà lái xe phải thận trọng. Nên đọc kỹ nhãn mác, nếu có ghi chữ "amin" ở cuối là sản phẩm dễ gây buồn ngủ, gây mờ mắt vì khô ống dẫn lệ, rất nguy hiểm trong các trường hợp điều khiển các phương tiện giao thông.
3. Thuốc chống trầm cảm
Một số thuốc chống trầm cảm như Trazodone, Nefazodone, và tricyclics có thể gây buồn ngủ, làm chậm các phản ứng của con người. Nếu lái xe, những điều này rất nguy hiểm cho người và phương tiện, ví dụ phanh hoặc xử lý sự cố tránh va quệt chậm tới vài ba giây, gây tổn thất lớn…
4. Thuốc hạ huyết áp
Phần lớn nhóm tuốc hạ huyết áp có thể gây ra sự bơ phờ, mệt mỏi, đặc biệt là nhóm thuốc chẹn beta. Nếu sử dụng thuốc cho người có mức huyết áp 150/90, và sau đó giảm xuống 120/80, có thể làm cho cơ thể bị suy năng lượng.
Sự chậm chạp thường xảy ra trong thời gian một hoặc hai tuần khi dùng thuốc, nhất là nhóm dùng lần đầu.
5. Nhóm thuốc chống lo âu và giãn cơ
Thuốc kê đơn như Valium và Xanax có tác dụng an thần và làm suy khả năng phản ứng của con người. Hãy thận trọng mỗi khi dùng thuốc ngủ hoặc sản phẩm giãn cơ tự nhiên.
Nhiều người dễ bị nhầm bởi nó là sản phẩm tự nhiên, không có tác dụng phụ, nhưng lại ảnh hưởng đến tâm tính và phản ứng của con người, nhất là hiệu ứng tới melatonin, hormone nội sinh của cơ thể, được sản xuất từ tuyến tùng đảm nhận chức năng điều hòa nhịp sinh học của cơ thể, nếu bị đảo lộn sẽ làm cho con người mệt mỏi, và sự tỉnh táo cũng như phản ứng trước biến cố bất thường.
6. Các loại thuốc kích thích
Rất đa dạng như nhóm thuốc có chứa caffeine, ocaine…, nếu trước khi lái xe uống sẽ gây bất lợi, nó làm tăng tính bốc đồng và giảm khả năng chú ý đến những chi tiết nhỏ. Một khi cảm thấy tràn đầy năng lượng hơn so với bình thường, thì chính lúc đó con người ít tập trung, dễ bị sao nhãng khi lái xe.
Không phải liều cao gây ảnh hưởng mà ngay cả liều nhỏ cũng đủ để làm suy yếu tâm tính con người. Nếu dùng chất kích thích kết hợp với rượu có thể gây nguy hiểm.
Theo Vũ Hoàng - Nông nghiệp Việt Nam





NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Các thuốc gây nhiễm mỡ gan

Gan nhiễm mỡ là căn bệnh gặp khá phổ biến hiện nay. Bệnh do nhiều nguyên nhân gây nên, trong đó những người béo phì và dùng nhiều rượu bia có nguy cơ cao bị gan nhiễm mỡ. Còn có nguyên nhân mà nhiều người không ngờ tới đó là gan nhiễm mỡ do sử dụng thuốc. Vậy thuốc nào có nguy cơ gây ra bệnh lý này?
Nhóm glucocorticoid (prednisolon, dexamethason..)
Khi dùng liều cao các thuốc trong nhóm glucocorticoids có thể gây ra gan nhiễm mỡ. Tác động này phần lớn xuất hiện ở trẻ em. Nguyên nhân chính gây ra gan nhiễm mỡ là do tăng giải phóng acid béo từ các mô mỡ. Tình trạng gan nhiễm mỡ có thể giảm dần và hết hẳn khi ngưng sử dụng glucocorticoid.
Các thuốc gây nhiễm mỡ ganHình ảnh gan nhiễm mỡ
Amiodaron
Là một thuốc chữa loạn nhịp tim. Việc sử dụng hoạt chất này thường liên quan đến sự tăng nồng độ aminotransferase trong huyết thanh. Dùng thuốc kéo dài có thể gây ra gan nhiễm mỡ dạng bọng lớn và những biến đổi bệnh lý tương tự trong viêm gan do rượu. Khi có dấu hiệu tổn thương gan, cần tham khảo ý kiến của bác sĩ để dừng hoặc đổi thuốc.
Tetracyclin
Tetracyclin dùng qua dạng uống có thể gây ra thâm nhiễm mỡ dạng bọng nhỏ, thường không để lại hậu quả về lâm sàng. Sự xuất hiện và mức độ của thoái hóa mỡ có mối liên hệ chặt chẽ với liều dùng.
Valproic acid
Là một thuốc chống co giật, acid valproic có thể gây bất thường ở gan sau dùng thuốc 2 - 4 tháng.
Ngoài ra, còn một số thuốc khác có thể gây nhiễm mỡ ở gan như: methotrexat (thuốc ức chế miễn dịch dùng trong điều trị ung thư), estrogen (thường dùng trong ngừa thai), perhexilin (thuốc trị cơn đau thắt ngực) và tất cả các thuốc gây độc cho tế bào gan như: thuốc kháng virut, thuốc chống lao, thuốc giảm đau hạ sốt, thuốc kháng giáp tổng hợp...
Gan nhiễm mỡ là căn bệnh gặp khá phổ biến hiện nay. Bệnh do nhiều nguyên nhân gây nênMọi loại thuốc vào cơ thể đều được chuyển hóa ở gan. Vì vậy mọi người không nên tự ý mua thuốc chữa bệnh mà không có đơn của bác sĩ để tránh tác dụng có hại của thuốc đến chức năng gan, gây nên các bệnh lý nguy hiểm đến sức khỏe.
Khi bệnh nhân buộc phải dùng một trong các loại thuốc nêu ở trên, cần phải tuân thủ theo điều trị của bác sĩ và phải được theo dõi chức năng gan định kỳ.
Ngoài gan nhiễm mỡ, việc uống thuốc không theo chỉ định của bác sĩ có thể dẫn đến xơ gan, thậm chí là ung thư gan nếu người bệnh uống phải loại thuốc có hại cho gan trong một thời gian dài. Do đó, người bệnh nên trao đổi với bác sĩ trước khi sử dụng một loại thuốc nào đó.
Theo DS Hà Lê - Sức khỏe và Đời sống




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Hạn chế bất lợi khi dùng thuốc ở người cao tuổi

Trung bình một người cao tuổi mắc gần 3 bệnh nên trong điều trị có khi phải sử dụng nhiều thuốc một lúc và chủ yếu là các bệnh mạn tính, phải sử dụng thuốc lâu dài.

Vì vậy, dùng thuốc ở lứa tuổi này cần hết sức thận trọng để tránh sự tương tác thuốc và những tác dụng không mong muốn do thuốc gây ra.
Các bệnh hay gặp nhất ở người cao tuổi là tim mạch (tăng huyết áp, vữa xơ động mạch, suy tĩnh mạch mạn tính), bệnh xương khớp (loãng xương, viêm khớp dạng thấp, thoái hóa), nội tiết chuyển hóa (đái tháo đường typ 2), tâm thần kinh (sa sút trí tuệ, trầm cảm, Parkinson), bệnh phổi phế quản tắc nghẽn mạn tính, ung thư và các rối loạn về thị giác, thính giác... 
Do vậy, khi đi khám bệnh người bệnh cần thông báo cho bác sĩ biết về những bệnh mà mình mắc phải và những thuốc đang sử dụng, tiền sử dị ứng hay các tác dụng phụ của thuốc mà mình gặp phải... để bác sĩ cân nhắc, lựa chọn thuốc dùng cho phù hợp. Bác sĩ cần hỏi kỹ bệnh nhân về các thông tin trên. Tránh cho thuốc khi chưa có chẩn đoán bệnh hoặc khi còn phân vân giữa lợi và hại khi dùng thuốc.
Hạn chế bất lợi khi dùng thuốc ở người cao tuổiNgười cao tuổi phải tuyệt đối tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ.
Sau mỗi đợt điều trị cần kiểm tra lại bệnh nhân để xem hiệu quả điều trị của thuốc đến đâu, các tác dụng phụ của thuốc... để điều chỉnh thuốc và liều dùng cho phù hợp.
Đối với người cao tuổi, khi dùng thuốc nên bắt đầu bằng liều thấp, sau đó nếu cần thì tăng dần liều cho đến liều điều trị thích hợp. Đơn thuốc phải thích hợp với từng trường hợp cụ thể, có tính đến sức chịu đựng của bệnh nhân và các bệnh khác kèm theo. Nếu có một thuốc có thể điều trị hai bệnh một lúc thì nên chọn thuốc đó, cần giải thích rõ về mục tiêu điều trị, các tác dụng phụ có thể gặp trong quá trình dùng thuốc.
Do bệnh ở người cao tuổi thường là bệnh mạn tính nên chỉ định dùng thuốc có khi kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm. Việc dùng thuốc từng đợt dài hay ngắn tùy thuộc vào bệnh, tùy loại thuốc hoặc tùy kết quả chữa bệnh. 
Người bệnh cần tuân thủ chặt chẽ theo chỉ định của thầy thuốc về liều lượng, số lần uống trong ngày và thời gian dùng thuốc để đạt được hiệu quả điều trị và hạn chế thấp nhất các tai biến do thuốc gây ra. Người bệnh cũng cần biết phát hiện các bất thường có thể xảy ra trong quá trình dùng thuốc, thông báo kịp thời cho bác sĩ điều trị biết để được xử lý kịp thời, thích hợp...
Ngoài ra, cũng cần lưu ý thêm, ở người già do có hiện tượng đau xương khớp khiến cho người cao tuổi ngại vận động nên nhiều khi ngại dậy để uống thuốc mà uống thuốc trong tư thế nằm làm cho thuốc không xuống tới dạ dày kết hợp với lượng nước uống ít nên thuốc đọng lại ở thực quản gây loét (với một số thuốc), gây sỏi thận (như các sulfamid kháng khuẩn)... Vì vậy không nên uống thuốc ở tư thế này và cần uống thuốc ở tư thế ngồi cùng với nhiều nước.
Theo BS. Nguyễn Thị Bích Ngọc - Sức khỏe và Đời sống




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Uống thuốc đúng cách thế nào?

Nước dùng để uống thuốc nhiều khi chưa được người bệnh chú ý, dẫn đến tình trạng uống thuốc với nước trà, uống thuốc với sữa, hoặc uống thuốc trong khi uống rượu… đã gây nên tình trạng tương tác giữa thuốc với các đồ uống trên, nhiều khi gây nguy hiểm cho người bệnh…
Nước (ở đây là nước đun sôi để nguội, nước lọc tinh khiết) là đồ uống (dung môi) thích hợp nhất cho mọi loại thuốc vì không xảy ra tương kỵ hay tương tác nào khi hòa tan thuốc. 
Nước còn là phương tiện để dẫn thuốc (dạng viên) vào dạ dày - ruột, làm tăng độ tan rã của thuốc và hòa tan hoạt chất, giúp cho thuốc được hấp thu dễ dàng.
Vì vậy, khi uống thuốc cần uống đủ nước (ít nhất từ 100 - 200ml cho mỗi lần uống thuốc) và uống trong tư thế người thẳng để thuốc có thể trôi dễ dàng xuống dạ dày, tránh đọng viên thuốc tại thực quản có thể gây kích ứng, loét thực quản, đặc biệt đối với người cao tuổi.
Uống thuốc đúng cách thế nào?
Không dùng sữa để uống thuốc vì sẽ làm giảm hoặc mất tác dụng chữa bệnh của thuốc. Ảnh: TL
Trong quá trình dùng thuốc điều trị, cũng nên uống nhiều nước hàng ngày, có thể uống từ 1,5 - 2 lít nước/ngày để làm tăng tác dụng của thuốc (đối với các loại thuốc tẩy), tăng thải trừ và làm tan các dẫn xuất chuyển hóa gây hại của thuốc đối với cơ thể. Ví dụ như khi uống các sulfamid kháng khuẩn chẳng hạn… 
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, khi uống các thuốc tẩy sán, tẩy giun như niclosamid, mebendazol thì lại cần uống ít nước hơn bình thường để duy trì nồng độ thuốc cao trong ruột, sẽ có hiệu quả cao hơn.
Không dùng nước quả, nước khoáng hoặc các loại nước ngọt đóng hộp có gas để uống thuốc vì các loại nước này có thể làm hỏng thuốc hoặc gây hấp thu quá nhanh, sẽ gây độc…
Không dùng sữa để uống thuốc vì trong thành phần của sữa có chứa canxi. Nhiều thuốc tạo phức với canxi của sữa sẽ không được hấp thu (ví dụ như kháng sinh tetracyclin, lincomycin, muối Fe...), do đó sẽ giảm hoặc không có tác dụng chữa bệnh.
Bên cạnh đó, cũng không dùng cà phê hay nước chè để uống thuốc. Hoạt chất cafein, tanin có trong cà phê, nước chè cũng sẽ làm tăng hoặc giảm tác dụng hoặc gây kết tủa một số thuốc điều trị… không những làm ảnh hưởng tới kết quả điều trị bệnh mà còn gây tai biến.
Trong quá trình dùng thuốc, nhiều người vẫn uống rượu, điều này vô cùng nguy hiểm. Rượu có rất nhiều ảnh hưởng đến thần kinh trung ương, hệ tim mạch, sự hấp thu của đường tiêu hóa. Người nghiện rượu còn bị giảm protein huyết tương, suy giảm chức năng gan, nhưng lại gây cảm ứng enzym chuyển hóa thuốc của gan, vì thế, rượu có tương tác với rất nhiều thuốc và các tương tác này đều là bất lợi.
Do đó, khi đã dùng thuốc thì không uống rượu. Với người nghiện rượu cần phải dùng thuốc, thầy thuốc cần kiểm tra chức năng gan, tình trạng tâm thần... để chọn thuốc và dùng liều lượng thích hợp, trong thời gian dùng thuốc cũng phải ngừng uống rượu.
Theo DS Hoàng Thu - Sức khỏe và Đời sống




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Những loại vitamin phái nữ cần mỗi ngày

Nếu tuân thủ chế độ ăn uống cân bằng, bạn sẽ có đủ lượng vitamin từ các bữa ăn mỗi ngày. Tuy nhiên, trong trường hợp bị thiếu hụt vitamin, việc uống thêm thuốc bổ dạng vitamin tổng hợp là điều rất cần thiết. Sau đây là danh sách những loại vitamin cần thiết cho cơ thể của người phụ nữ mỗi ngày.
1. Can-xi
Can-xi đứng đầu danh sách những dưỡng chất mà phái nữ cần vì sự thiếu hụt can-xi có thể gây ra bệnh loãng xương - vốn là một trong những căn bệnh thường gặp ở phụ nữ. 
Để duy trì sức khỏe của xương, can-xi là chất không thể thiếu và có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn sức khỏe của phái đẹp. Những nguồn cung cấp can-xi quan trọng nhất từ thực phẩm gồm có các sản phẩm từ sữa và trứng.
2. Vitamin D
Loại vitamin này cần thiết để cơ thể hấp thu được can-xi từ thức ăn. Dù bạn có tiêu thụ nhiều những thực phẩm giàu can-xi nhưng nếu thiếu vitamin D thì cơ thể vẫn khó có khả năng hấp thu được can-xi đầy đủ. Nguồn cung cấp vitamin D tốt nhất chính là ánh nắng mặt trời.
3. Vitamin A
Vitamin A cần thiết trong những trường hợp như chu kỳ "nguyệt san" mất quá nhiều máu, các triệu chứng của thời kỳ tiền kinh nguyệt, các khối u ở vú và viêm nhiễm âm đạo. Đây còn là loại vitamin có lợi trong những trường hợp đang điều trị bệnh ung thư vú. Bạn có thể tìm thấy vitamin A trong gan động vật, các loại cá có nhiều dầu, cà rốt, khoai lang…
4. Vitamin B1
Còn được biết đến với tên gọi là thiamine, loại vitamin thiết yếu này giúp chuyển hóa đường thành năng lượng. Cơ thể luôn cần có nhiều năng lượng để đủ sức hoạt động suốt ngày. Những nguồn cung cấp vitamin B1 đáng kể nhất từ thực phẩm gồm có thịt nạc, các loại quả hạch và lương thực thô.
5. Vitamin B2
Riboflavin hay còn gọi là vitamin B2 luôn nằm trong danh sách những loại vitamin cần có cho phụ nữ mỗi ngày. Một số lợi ích của loại vitamin này bao gồm tăng cường khả năng hoạt động của hệ thống miễn dịch, duy trì sức khỏe của làn da, móng và tóc, làm chậm quá trình lão hóa. 
Vitamin B2 còn có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe của hệ thống sinh sản. Những nguồn cung cấp vitamin B2 thiết yếu bao gồm các loại rau có nhiều lá và sữa.
6. Vitamin B6
Vitamin B6 còn được gọi là pyridoxine có ích cho phái nữ trong việc điều trị các triệu chứng tiền kinh nguyệt thường cặp, các rắc rối về chu kỳ "đèn đỏ" cũng như chứng buồn nôn trong giai đoạn đầu của thai kỳ. 
Chúng còn có tác dụng cải thiện tình trạng chậm có sữa sau khi sinh và chứng trầm cảm có liên quan đến việc mang thai. Những nguồn cung cấp vitamin B6 thường gặp nhất là bơ, chuối và các loại quả hạch.
7. A-xít folic
Do có liên quan mật thiết với việc hỗ trợ sức khỏe cho những phụ nữ đang mang thai nên a-xít folic trở thành loại vitamin thiết yếu mà chị em cần bổ sung cho cơ thể mỗi ngày. 
Những phụ nữ đang có kế hoạch mang thai hoặc đang có thai đều được các bác sĩ sản khoa kê đơn bổ sung loại vitamin này dưới dạng thuốc bổ nhằm ngăn ngừa tình trạng xảy ra hoặc phòng tránh nguy cơ bị dị tật cho thai nhi. Các loại rau màu xanh đậm có nhiều lá là một nguồn cung cấp a-xít folic quan trọng và dễ tìm nhất.
8. Vitamin C
Để cơ thể và tinh thần luôn khỏe mạnh, bạn cần bổ sung đủ vitamin C mỗi ngày. Loại vitamin này cần thiết cho cả hai phái nam và nữ. 
Chúng không chỉ giúp đánh bại chứng cảm lạnh thường gặp mà còn mang lại nhiều lợi ích khác cho cơ thể như duy trì sức khỏe cho da, tóc, móng, cải thiện khả năng chịu đựng về thể chất và làm chậm quá trình lão hóa. Những loại trái cây có họ cam, quýt được xem là một trong những nguồn cung cấp vitamin C dồi dào nhất.
9. Vitamin E
Đây là loại vitamin rất quen thuộc với phái nữ vì chúng giúp bạn chăm sóc làn da. Những sản phẩm làm đẹp có chứa nhiều vitamin E luôn là những thứ mà chị em tìm kiếm. 
Bên cạnh đó, vitamin E còn giúp ích trong việc ngăn ngừa các biến chứng có thể xảy ra trong giai đoạn cuối của thai kỳ và các rắc rối có liên quan đến chu kỳ "nguyệt san". Những thực phẩm giàu vitamin E gồm có thịt, thịt gia cầm, trứng và ngũ cốc.
10. Choline
Là loại vitamin nằm cuối cùng trong danh sách các loại vitamin thiết yếu của phái nữ, choline thuộc nhóm các hợp chất vitamin B, vốn rất quan trọng đối với sức khỏe của các bà bầu, giúp ngăn ngừa những khuyết tật có thể xảy ra ở ống thần kinh của thai nhi. Loại vitamin này được sản xuất trong gan nhưng trứng vẫn được đánh giá là nguồn cung cấp choline dồi dào nhất.
Theo Hồng Xuân - Phụ nữ TPHCM




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons