Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015

Thuốc điều trị phỏng

Hàng ngày, phỏng vẫn diễn ra thường xuyên, không những gây nên nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần cho người bệnh mà còn gây tốn kém chi phí và thời gian điều trị.

Tìm hiểu về phỏng
Phỏng gây ra do sơ ý, bất cẩn hay tai nạn… với nhiều mức độ khác nhau từ nhẹ tới nặng, có thể để lại di chứng hay thậm chí dẫn đến tử vong.
Có nhiều tác nhân gây ra phỏng như: do nhiệt, điện, hóa chất, bức xạ hay sự cọ xát.
Phỏng làm tổn thương da và các mô sâu dưới da. Tùy theo độ sâu và mức độ lan rộng của da. Phỏng được chia làm 3 loại:
Phỏng độ 1: tổn thương ở lớp biểu bì của da, với các biểu hiện da đỏ, đau và rất nhạy cảm khi chạm vào.
Phỏng độ 2: tổn thương ở lớp bì của da, với các biểu hiện da đỏ, đau, nhạy cảm khi chạm vào và thường xuất hiện các mụn nước ở trên da.
Phỏng độ 3: tổn thương suốt chiều sâu của da và các mô dưới da, với các biểu hiện da có màu trắng, đen, kém nhạy cảm khi chạm vào và không đau (do các dây thần kinh cảm giác ở dưới da bị tổn thương), ít xuất hiện mụn nước.
Ngoài ra tùy theo mức độ tổn thương, phỏng chia làm 2 loại:
Phỏng nhẹ: phỏng độ 1 và phỏng nhỏ độ 2 (với diện tích bị phỏng nhỏ hơn lòng bản tay) được xếp vào phỏng nhẹ và điều trị tại nhà.
Lưu ý với phỏng nhẹ, trước khi điều trị cần rửa sạch vùng da bị phỏng dưới vòi nước mát từ 15 - 20 phút và tránh làm vỡ mụn nước.
Phỏng nặng: phỏng độ 3, phỏng lớn độ 2, phỏng do hóa chất và phỏng ở tay, chân, mặt, háng được xếp vào phỏng nặng, cần nhanh chóng đưa đi cấp cứu tại bệnh viện.
Thuốc điều trị phỏng
Các thuốc sử dụng trong điều trị phỏng phải dựa trên mức độ tổn thương mà phỏng gây ra:
Thuốc giảm đau: trong trường hợp phỏng nhẹ, có thể giảm đau với paracetamol hay các thuốc kháng viêm non-steroid (NSAID) như: ibuprofen, diclophenac…
Trong trường hợp phỏng nặng, có thể giảm đau với các thuốc giảm đau opioid như: codein, tramadol…
Thuốc sát trùng ngoài da: các dung dịch thuốc sát trùng như: oxy già, povidone-iodine, cetrimide, chlor hexidine… được thoa trực tiếp lên vùng da bị phỏng giúp ngăn ngừa nhiễm trùng.
Thuốc kháng sinh: được sử dụng để ngăn ngừa biến chứng nhiễm trùng và giúp mau lành vết thương do phỏng gây ra.
Tùy theo vị trí tác dụng, thuốc kháng sinh được chia làm 2 loại:
Tác dụng toàn thân: thuốc kháng sinh sử dụng qua đường uống hay qua tiêm truyền tĩnh mạch. Các nhóm thuốc kháng sinh thường được sử dụng:
Nhóm beta - lactamin (penicillin, ampicillin, amoxicillin, cephalosporin...).
Nhóm aminoglycosid (streptomycin, kanamycin...).
Nhóm quinolon (offloxacin, ciprofloxacin...).
Tác dụng tại chỗ: thuốc kháng sinh sử dụng qua dạng thuốc dùng ngoài (thuốc mỡ, kem…) có chứa neomycin, polymycin, sulfadiazine bạc…).
Thầy thuốc sẽ chọn lựa loại thuốc kháng sinh và phương pháp điều trị (dùng riêng lẻ hay phối hợp kháng sinh) tùy theo mức độ phỏng và sự đáp ứng điều trị của thuốc.
Cần lưu ý:
Thuốc kháng sinh có thể gây ra các tác dụng phụ với mức độ nhẹ như: dị ứng da, buồn nôn, tiêu chảy… hoặc thậm chí nghiêm trọng như: sốc phản vệ, nếu không cấp cứu kịp thời có thể dẫn đến tử vong!
Việc sử dụng thuốc kháng sinh trong một thời gian dài có thể gây ra rối loạn cân bằng tạp khuẩn đường ruột và nhiễm nấm candida ở da, miệng, ruột…
Dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch như lactat ringer giúp bù muối cho cơ thể, để ngăn ngừa biến chứng sốc (mất nước, rối loạn điện giải…) do phỏng gây ra.
Vắcxin: trong phẫu thuật ghép da ở phỏng độ 3, để ngăn ngừa uốn ván, bệnh nhân cần được tiêm ngừa vắcxin phòng uốn ván.
Ngoài ra, một số loại thuốc mỡ, kem… có nguồn gốc từ dược liệu (mù u, nghệ, lô hội, rau má…) cũng được sử dụng trong điều trị phỏng.
Theo DS Mai Xuân Dũng - Sức khỏe và đời sống

Trinidazo - Nhiều tác dụng, lắm nguy cơ

Tinidazol là dẫn chất imidazol tương tự metronidazol, có tác dụng với cả động vật nguyên sinh và vi khuẩn kỵ khí. Cơ chế tác dụng của tinidazol với vi khuẩn kỵ khí và nguyên sinh động vật là thuốc thâm nhập tế bào của vi sinh vật và sau đó phá hủy chuỗi ADN hoặc ức chế tổng hợp ADN. 
Tinidazol có tác dụng phòng và điều trị các nhiễm khuẩn đường mật hoặc đường tiêu hóa, điều trị áp xe và điều trị các nhiễm khuẩn kỵ khí như viêm cân mạc hoại tử và hoại thư sinh hơi. Trên thực tế thường gặp các nhiễm khuẩn hỗn hợp, do vậy cần phải phối hợp tinidazol với các kháng sinh khác một cách hợp lý để có thể loại trừ được cả các vi khuẩn hiếu khí. 
Ðể phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật, có thể phối hợp tinidazol với gentamicin hoặc tinidazol với cephalosporin, dùng trước và trong khi phẫu thuật. Không nên dùng thuốc tiếp sau phẫu thuật, dùng thuốc dự phòng kéo dài không tăng tác dụng phòng ngừa mà còn làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn tiềm ẩn và kháng thuốc. 
Tinidazol cũng thường phối hợp với các kháng sinh khác trong các trường hợp dự phòng nhiễm khuẩn sau phẫu thuật do các vi khuẩn kỵ khí, đặc biệt các nhiễm khuẩn liên quan tới phẫu thuật đại tràng, dạ dày và phụ khoa. 
Điều trị các nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí như viêm màng bụng, áp xe; viêm nội mạc tử cung, viêm cơ nội mạc tử cung, áp xe vòi buồng trứng, viêm âm đạo không đặc hiệu; nhiễm khuẩn huyết; nhiễm khuẩn vết thương sau phẫu thuật; nhiễm khuẩn da và các mô mềm; nhiễm khuẩn đường hô hấp như viêm phổi, viêm màng phổi mủ, áp xe phổi; nhiễm amip ở gan...
Khi dùng thuốc, cần lưu ý một số vấn đề như: trong thời gian uống thuốc không nên dùng các chế phẩm có rượu vì có thể có phản ứng đỏ bừng, co cứng bụng, nôn, tim đập nhanh. 
Nếu dùng cùng lúc với cimetidin có thể làm giảm thải trừ tinidazol ra khỏi cơ thể. Có thể do cimetidin ức chế chuyển hóa tinidazol ở gan, nên làm tăng cả tác dụng điều trị lẫn độc tính. Nếu dùng cùng rifampicin có thể làm tăng thải tinidazol và làm giảm tác dụng điều trị.
Thuốc cũng có tác dụng không mong muốn nhưng ít gặp như viêm tĩnh mạch huyết khối, đau nơi tiêm (nếu là thuốc tiêm), buồn nôn, ăn không ngon, đau bụng; thay đổi vị giác nhất thời; chóng mặt nhức đầu, đau xương khớp… 
Mặc dù hầu hết các phản ứng này thường tự hết và không có nguy cơ đe dọa tính mạng, nhưng nếu gặp một trong các trường hợp dị ứng trên, bệnh nhân cần ngừng điều trị và hỏi ý kiến của bác sĩ.
Theo ThS Nguyễn Vân Anh - Sức khỏe và đời sống

Thuốc gì trị chứng mẫn cảm?

Các triệu chứng mẫn cảm có thể xuất hiện ngay trong vài giây nhưng cũng có thể muộn hơn sau vài ngày hoặc vài tuần sau khi cơ thể tiếp xúc với dị nguyên.

Các bệnh do cơ thể quá mẫn cảm
Hoạt động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể con người diễn ra rất phức tạp nên cũng có nhiều nguy cơ xảy ra các sai sót và hiện tượng mẫn cảm (dị ứng) là một trong những sai sót đó. 
Hiện tượng dị ứng là một dạng phản ứng có hại của hệ thống miễn dịch đối với các tác nhân từ môi trường sống mà bình thường vốn ít nguy hại.
Thuốc gì trị chứng mẫn cảm?Một số thực phẩm dễ gây dị ứng
Các loại phản ứng viêm dị ứng và dẫn tới các bệnh lý liên quan đến dị ứng thường gặp là hen phế quản, viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng, mày đay, sốc phản vệ... Biểu hiện và mức độ của các triệu chứng dị ứng ở mỗi cá thể tùy thuộc vào loại bệnh bị mắc, mức độ mẫn cảm của cơ thể cũng như số lượng và cách tiếp xúc của dị nguyên gây bệnh.
Điều trị bệnh như thế nào?
Để điều trị các bệnh dị ứng nói chung thì cơ bản là phải tránh tiếp xúc với các dị nguyên gây bệnh, sử dụng các thuốc chống dị ứng nhằm giảm triệu chứng và thuốc làm giảm mẫn cảm đặc hiệu.
Thuốc chống dị ứng
Do phản ứng viêm dị ứng với sự giải phóng của các hoạt chất trung gian là cơ chế gây bệnh chủ yếu của hầu hết các bệnh dị ứng, nên các thuốc chống dị ứng hiện nay đều được phát triển theo hướng tác dụng ức chế phản ứng viêm dị ứng hoặc kháng lại các hoạt chất trung gian, giúp giảm các triệu chứng dị ứng cấp tính. 
Trong những năm gần đây đã có nhiều nhóm thuốc chống dị ứng mới ra đời theo xu hướng này. Trong đó có các thuốc kháng histamin thế hệ mới, kháng leukotriene, kháng thromboxane, kháng các cytokine của tế bào T, ổn định màng tế bào mast và nhiều tác nhân kháng lại các tế bào và phân tử khác.
Thuốc kháng histamin: vai trò quan trọng của histamin và thụ thể histamin H1 trong các bệnh dị ứng đã được hiểu biết ngày càng đầy đủ. Các loại thuốc thế hệ mới cũng đã ra đời ngày càng nhiều với mục đích tăng cường hiệu quả và giảm thiểu khả năng tương tác thuốc cũng như các tác dụng có hại của thuốc. 
Các thuốc kháng H1 và thế hệ 2 như loratadine, cetirizine, fexofenadine, levocetirizin, deslorratadine... hiện được ưa sử dụng hơn so với các thuốc thế hệ cũ do thuốc thế hệ mới ít gây buồn ngủ và tác dụng nhanh, ít nguy cơ gây tương tác thuốc và ít tác dụng phụ hơn so với chế phẩm gốc.
Các thuốc kháng leukotriene: Leukotriene là một nhóm các hoạt chất trung gian có vai trò không nhỏ trong các phản ứng viêm dị ứng và có thể trực tiếp gây ra nhiều triệu chứng dị ứng như co thắt cơ trơn phế quản, tăng tiết dịch nhày, giãn mạch... 
Hiện nay khá nhiều thuốc kháng leukotriene ra đời như montelukast, zafirlukast, zileuton hiệu quả và tính an toàn của các thuốc này đã được chứng minh trong điều trị các bệnh dị ứng như mày đay mạn tính, viêm mũi dị ứng, hen phế quản.
Thuốc giảm mẫn cảm đặc hiệu
Thuốc kháng IgE: kháng thể IgE có vai trò hết sức quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của hen phế quản và nhiều bệnh lý dị ứng khác. Sự kết hợp của kháng thể này với kháng nguyên gây bệnh sẽ khởi động chuỗi phản ứng viêm dị ứng. 
Các thuốc kháng IgE tổng hợp như omalizumab có khả năng liên kết và bất hoạt các kháng thể IgE tự do, gây giảm nồng độ kháng thể IgE tự do trong máu tới 90%. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, omalizumab có hiệu quả tốt trong điều trị các trường hợp hen phế quản nặng, không đáp ứng với các thuốc điều trị khác.
Các thuốc kháng thromboxane A2: do có một số bằng chứng về vai trò của thromboxane A2 trong đợt cấp và quá trình phát triển của các bệnh dị ứng nên các nhà khoa học đã có ý tưởng sử dụng các chất kháng lại hoạt chất này trong điều trị các bệnh dị ứng. Hiện nay, các thuốc kháng thromboxane A2 như ozagrel, ramatroban và seratridust đã được chứng minh hiệu quả rõ rệt trong điều trị các triệu chứng viêm mũi dị ứng.
Thuốc kháng cytokine của tế bào lympho Th2: các tế bào lympho Th2 đặc hiệu kháng nguyên được cho là có vai trò khởi phát các phản ứng dị ứng. Điều này đã đưa đến khả năng kiểm soát các bệnh dị ứng bằng cách sử dụng các thuốc ức chế các cytokine của tế bào Th2, suplatast là một trong những dẫn xuất đầu tiên của nhóm này. 
Thuốc đã được chứng minh là có khả năng ức chế sản xuất các kháng thể dị ứng IgE, ngăn ngừa sự xuất hiện các đợt dị ứng cấp tính ở chuột. Hiện nay, nghiên cứu sử dụng các thuốc này trên lâm sàng vẫn đang tiếp tục được tiến hành và có thể là một hướng đi nhiều hứa hẹn.
Theo ThS Nguyễn Vân Anh - Sức khỏe và đời sống

Tamoxifen: Tôi có thể gây độc cho mắt

Tamoxifen tôi là loại thuốc chống ung thư. Người ta thường dùng tôi trong điều trị ung thư vú phụ thuộc estrogen ở phụ nữ đã có di căn.

Tamoxifen tôi là loại thuốc chống ung thư. Người ta thường dùng tôi trong điều trị ung thư vú phụ thuộc estrogen ở phụ nữ đã có di căn. Ngoài ra, tôi cũng được dùng để điều trị hỗ trợ ung thư vú phụ thuộc estrogen ở phụ nữ và được bổ sung thêm hóa trị liệu ở một số trường hợp chọn lọc. 
Thuốc đã được dùng để điều trị hỗ trợ cho phụ nữ có nguy cơ cao tái phát sau khi đã được điều trị ung thư vú tiên phát. Tamoxifen còn được dùng để kích thích phóng noãn ở phụ nữ vô sinh do không phóng noãn.
Tuyệt đối không dùng tôi cho bệnh nhân quá mẫn với tamoxifen, bệnh nhân loạn chuyển hóa porphyrin. Thận trọng khi dùng tôi cho bệnh nhân giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu; tăng lipoprotein huyết đã có từ trước; 
Bệnh gan; Bệnh nhi, vì tính an toàn và hiệu quả của tamoxifen chưa được xác định ở loại người bệnh này. Khi dùng cho phụ nữ tiền mãn kinh cần theo dõi thận trọng vì thuốc gây phóng noãn. Không được sử dụng tamoxifen tôi cho phụ nữ mang thai và cho con bú.
Tác dụng phụ thường gặp: kinh nguyệt không đều, chảy máu âm đạo, phù hoặc tiết dịch âm đạo, ngứa âm hộ, mẩn đỏ và khô da. Đôi khi bạn gặp đau tăng và tái phát đau ở khối u hay xương có thể là dấu hiệu của đáp ứng thuốc.
Các tác dụng phụ khi sử dụng tamoxifen như đau lưng, mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt. Các tác dụng phụ khi sử dụng tamoxifen như đau lưng, mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt
Khi điều trị bằng tamoxifen cho người bệnh, cần định kỳ: đếm công thức máu, thử chức năng gan, theo dõi triglycerid và cholesterol huyết thanh ở người bệnh có tăng lipoprotein huyết từ trước.
Phụ nữ khi dùng tamoxifen, cần báo cáo cho thầy thuốc biết bất kỳ biểu hiện nào như: kinh nguyệt không đều, chảy máu âm đạo không bình thường hoặc đau/tức khung chậu.
Cần thẩm tra ngay nguyên nhân của những tác dụng này. Nếu người bệnh phàn nàn về thị lực không bình thường trong khi điều trị bằng tamoxifen thì cần kiểm tra kỹ về độc tính có thể có đối với mắt.
Các bạn nên nhớ không dùng đồng thời tôi với chất chống đông loại coumarin vì gây tăng tác dụng chống đông đáng kể.
Chớ nên dùng tôi quá liều nhé, vì tôi có thể gây độc tính thần kinh cấp với các biểu hiện như run, tăng phản xạ, loạng choạng, mệt, chóng mặt. Tốt nhất là tuân thủ hướng dẫn dùng thuốc, khi có triệu chứng khác lạ, ngừng dùng thuốc và báo ngay cho thầy thuốc, tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra.
Theo Nguyên Lê - Sức khỏe và đời sống

Bổ sung vitamin có thể làm tăng nguy cơ ung thư

Chúng ta thường nghe các quảng cáo trên truyền hình nói rằng, nên bổ sung để bù đắp sự thiếu hụt vitamin và khoáng chất, nhưng nghiên cứu hiện nay cho rằng, việc làm này hại nhiều hơn lợi.

Một nghiên cứu quy mô lớn tiến hành ở Mỹ đã chỉ ra rằng bổ sung quá nhiều vitamin có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư và bệnh tim.Nghiên cứu được trình bày tại Hiệp hội Nghiên cứu ung thư (AACR) Hội nghị thường niên năm 2015.
Bổ sung vitamin có thể làm tăng nguy cơ ung thư.Bổ sung vitamin có thể làm tăng nguy cơ ung thư
"Chúng tôi không chắc chắn lý do tại sao điều này xảy ra ở cấp độ phân tử,nhưng bằng chứng cho thấy những người dùng quá liều các loại vitamin có nguy cơ bị ung thư cao hơn", Tiến sĩ Tim Byers, thuộc trung tâm Ung thư của trường Đại học Colorado cho biết:
Cách đây hai mươi năm, có nghiên cứu cho biết những người ăn nhiều rau xanh và hoa quả thường có ít khả năng bị ung thư hơn.
Các nhà nghiên cứu sau đó chuyển trọng tâm nghiên cứu xem liệu rằng uống quá nhiều vitamin và khoáng chất có làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh hay không.
Các nhà nghiên cứu bước đầu thử nghiệm trên động vật và tìm thấy kết quả đáng khích lệ. Nhưng khi họ nghiên cứu hàng ngàn bệnh nhânđang dùng thực phẩm chức nănghơn 10 năm, kết quả khá đáng báo động.
"Chúng tôi thấy rằng, những viên thuốc bổ sung đó thực sự không giúp ích gì cho sức khỏe của họ. Thực tế, một số người còn bị ung thư nhiều hơn trong khi đang uống vitamin", Byers nói.
Một thử nghiệm trong việc khám phá những ảnh hưởng của việc bổ sung beta-keratin (chất sừng) cho thấy uống quá liều sẽ làm tăng 20% nguy cơ bị cả ung thư phổi và bệnh tim.
Ở một thử nghiệm khác cho thấy axit folic, vốn được coi là có tác dụng làm giảm những khối u bướu nhỏ trong ruột già, thực tế lại cho kết quả ngược lại.
"Nếu uống đúng liều, vitamin tổng hợp rất tốt cho bạn. Nhưng nên nhớ không có một sự thay thế nào tốt hơn là những thực phẩm dinh dưỡng", ông kết luận.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng, bằng cách ăn uống đủ dưỡng chất hàng ngày là cách để có được vitamin và khoáng chất tốt nhất, mà không cần phải uống bổ sung.
Theo Phương Vũ - Gia đình Việt Nam

Dùng histamin H1 trị dị ứng, lưu ý gì?

Thuốc kháng histamin H1 là loại thuốc được sử dụng phổ biến trong điều trị dị ứng hiện nay. Vì sao histamin H1 lại có tác dụng đối với dị ứng.

Thuốc kháng histamin H1 là loại thuốc được sử dụng phổ biến trong điều trị dị ứng hiện nay. Vì sao histamin H1 lại có tác dụng đối với dị ứng và sử dụng thuốc như thế nào cho đúng vẫn là một câu hỏi với nhiều người.
Tác dụng của histamin H1 trong điều trị dị ứng
Histamin là một trong những chất trung gian giữ vai trò quan trọng trong sốc phản vệ và phản ứng dị ứng. Có 2 loại thuốc kháng histamin tương ứng với 2 loại thụ thể, đó là thuốc kháng histamin H1 và thuốc kháng histamin H2. 
Thuốc kháng histamin H1 được dùng điều trị các bệnh dị ứng: viêm mũi dị ứng; nổi mày đay, ban da, viêm da dị ứng; viêm kết mạc dị ứng; các trường hợp bị côn trùng cắn... Ngoài ra, thuốc còn được dùng điều trị say tàu xe, máy bay; điều trị buồn nôn và nôn trong thai nghén; dùng như thuốc an thần gây ngủ.
Dùng histamin H1 trị dị ứng, lưu ý gì?Trước khi dùng thuốc, BN nên tránh các dị nguyên gây ra dị ứng
Các kháng histamin H1 và lưu ý khi dùng
Clorpheniramin là một kháng histamin có rất ít tác dụng an thần. Thuốc được dùng điều trị những triệu chứng dị ứng khác như: mày đay, viêm mũi vận mạch do histamin, viêm kết mạc dị ứng, viêm da tiếp xúc, phù mạch, phù Quincke, dị ứng thức ăn, phản ứng huyết thanh; côn trùng đốt; ngứa ở người bệnh bị sởi hoặc thủy đậu.
Hiện nay, clorpheniramin thường được phối hợp trong một số chế phẩm bán trên thị trường để điều trị triệu chứng ho và cảm lạnh. Tuy nhiên, thuốc không có tác dụng trong điều trị triệu chứng nhiễm virut.
Ngoài ra, clorpheniramin có thể làm tăng nguy cơ bí tiểu do tác dụng phụ chống tiết acetylcholin của thuốc, đặc biệt ở người phì đại tuyến tiền liệt, tắc đường niệu, tắc môn vị tá tràng và làm trầm trọng thêm ở bệnh nhân nhược cơ.
Khi dùng thuốc clopheniramin mà uống rượu hoặc dùng đồng thời với thuốc an thần khác thì tác dụng an thần tăng lên. Do vậy, khi đang uống thuốc này thì không nên uống rượu và không dùng thêm loại thuốc an thần khác. Thuốc cũng có thể gây ngủ gà, chóng mặt, hoa mắt, nhìn mờ và suy giảm tâm thần vận động ở một số bệnh nhân, do vậy, cần tránh dùng cho người đang lái xe hoặc điều khiển máy móc. 
Thuốc cũng có một số biến chứng ở đường hô hấp như suy hô hấp và ngừng thở, do vậy, hết sức thận trọng khi sử dụng cho bệnh nhân mắc bệnh tắc nghẽn phổi hoặc trẻ nhỏ. Những bệnh nhân cần dùng thuốc clorpheniramin kéo dài cũng có thể bị sâu răng do tác dụng chống tiết acetylcholin gây khô miệng.
Promethazin cũng là thuốc kháng histamin H1, được dùng làm thuốc an thần, phòng và kiểm soát nôn, chống say tàu xe, chống dị ứng...
Thuốc cũng có một số phản ứng có hại như gây buồn ngủ, ngầy ngật, hạ huyết áp tư thế, khô miệng, táo bón… Ngoài ra, thuốc còn tương tác với một số thuốc như an thần, thuốc chống trầm cảm, thuốc hạ huyết áp… Do vậy, khi cần thiết sử dụng thuốc này, bệnh nhân cần thông báo với bác sĩ các thuốc hiện đang sử dụng để tránh tác hại của tương tác thuốc.
Acrivastine làm giảm triệu chứng viêm mũi dị ứng, nổi mày đay… Tuy nhiên, thuốc được đào thải qua thận, do đó, không nên dùng cho bệnh nhân suy thận nặng. Với bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương, cần hết sức thận trọng khi dùng.
Levocetirizine cũng là thuốc kháng histamin H1, được chỉ định trong các trường hợp viêm mũi dị ứng theo mùa và không theo mùa, chàm mạn tính. 
Thuốc chống chỉ định với bệnh nhân dị ứng với thành phần của thuốc, bệnh nhân suy thận nặng. Bệnh nhân có thai và cho con bú thì không nên dùng. Tương tự như các thuốc kháng histamin khác, thuốc cũng tương tác với các thuốc ức chế thần kinh trung ương và rượu.
Loratadine được chỉ định trong những triệu chứng liên quan đến viêm mũi dị ứng như hắt hơi, chảy nước mũi, ngứa mũi, ngứa mắt, mày đay mạn tính và các rối loạn dị ngoài da khác.
Cũng như các thuốc khác, thuốc này không được dùng cho bệnh nhân dị ứng với bất kỳ thành phần nào của thuốc. Với bệnh nhân suy gan nặng, phải thận trọng khi dùng và phải bắt đầu từ liều rất nhỏ. 
Thuốc cũng có tương tác với rượu và một số thuốc như ketoconazole, erythromycine, cimetidine… Do vậy, bệnh nhân cần nhớ các loại thuốc đang sử dụng để thông báo với bác sĩ nhằm tránh tương tác thuốc.
Như vậy, tất cả các thuốc kháng histamin H1 đều có nhiều tác dụng phụ nên phải dùng đúng liều lượng và thời gian, theo chỉ định của bác sĩ, không nên lạm dụng thuốc, đặc biệt chú ý ở các đối tượng phụ nữ mang thai và trẻ em. 
Trong thời kỳ mang thai, khoảng 1/3 phụ nữ có tình trạng viêm mũi dị ứng, hen phế quản, mày đay hay chàm nặng lên, do vậy, vẫn cần phải sử dụng thuốc chống dị ứng. Tuy nhiên, phụ nữ trong thời kỳ này chỉ nên sử dụng những thuốc có đầy đủ bằng chứng về độ an toàn.
Theo DS Ngô Trang - Sức khỏe và đời sống

Bệnh quai bị và thuốc trị

Bệnh quai bị thường xuất hiện vào mùa đông - xuân và có thể gây thành dịch. Bệnh gặp nhiều ở lứa tuổi học đường và có thể gây những biến chứng nguy hiểm.

Bệnh quai bị thường xuất hiện vào mùa đông - xuân và có thể gây thành dịch. Bệnh gặp nhiều ở lứa tuổi học đường và có thể gây những biến chứng nguy hiểm. Hiện nay đã có vắc-xin phòng bệnh, vì vậy các bậc cha mẹ nên chủ động đưa trẻ đi tiêm phòng.
Bệnh quai bị và thuốc trịChủ động phòng ngừa bệnh quai bị bằng tiêm vắc-xin
Dấu hiệu của bệnh quai bị
Bệnh quai bị là bệnh truyền nhiễm cấp tính, gây dịch do virut quai bị gây ra. Đây là bệnh lành tính, tự khỏi và tạo ra miễn dịch bền vững. Bệnh lây truyền theo đường hô hấp qua các bụi nước của hơi thở từ bệnh nhân quai bị có viêm tuyến nước bọt. 
Bệnh gây thành dịch, hay gặp ở trẻ từ 3 - 14 tuổi và thanh niên 18 - 20 tuổi, ít gặp ở người già và trẻ dưới 2 tuổi, tỉ lệ mắc bệnh nam nhiều hơn nữ. 
Sau một thời kỳ ủ bệnh khoảng 14 - 24 ngày mà không có biểu hiện gì đặc biệt là giai đoạn toàn phát của bệnh với các triệu chứng: sốt, nhức đầu, đau mỏi toàn thân, tuyến nước bọt mang tai đau, sưng to gây biến dạng khuôn mặt, da vùng tuyến mang tai bình thường, không nóng đỏ, bệnh nhân thường bị cả hai bên mang tai, người bệnh khó nói, khó nuốt. 
Sau 1 tuần, tuyến mang tai giảm đau, nhỏ dần, bệnh nhân hết sốt, các triệu chứng lui dần và hết hẳn.
Một số trường hợp bệnh nhân bị biểu hiện khác ngoài tuyến mang tai như: viêm tinh hoàn, viêm màng não, viêm não, viêm tụy cấp, viêm buồng trứng, viêm cơ tim, viêm tuyến giáp...
Viêm tinh hoàn thường gặp ở tuổi dậy thì, đôi khi biểu hiện đơn độc mà không kèm theo viêm tuyến mang tai. Bệnh xuất hiện sau sưng tuyến mang tai 1 - 2 tuần, bệnh nhân sốt cao trở lại, tinh hoàn sưng, đau, đỏ, thường ở một bên, kéo dài 4 - 5 ngày thì bệnh nhân hết sốt nhưng sau 2 tuần mới hết sưng tinh hoàn. 
Viêm tinh hoàn có thể gây biến chứng teo tinh hoàn với tỉ lệ 30 - 40%, gây ra giảm sút số lượng tinh trùng hoặc vô sinh nếu bị teo hai bên. Tổn thương thần kinh thường nghĩ đến do virut quai bị nếu nó xuất hiện sau khi sưng tuyến mang tai do quai bị với các dấu hiệu gợi ý như sốt cao, đau đầu, rối loạn ý thức, co giật. Ngoài ra, tùy từng cơ quan mà có biểu hiện khác nhau.
Thuốc chữa
Cho đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ điều trị triệu chứng. Bệnh nhân sau khi có biểu hiện bệnh cần cách ly tối thiểu 2 tuần, nằm nghỉ ngơi tại chỗ, hạn chế đi lại, hạn chế vận động, ăn nhẹ, ăn đồ ăn lỏng trong những ngày đầu. 
Với bệnh nhân viêm tuyến nước bọt: chườm ấm chỗ đau, dùng giảm đau hạ sốt bằng paracetamol, cần thận trọng khi dùng paracetamol trên bệnh nhân bị bệnh gan và dùng liều thuốc theo bác sĩ kê đơn, súc miệng bằng nước muối. 
Có thể dùng kết hợp một số bài thuốc trong dân gian từ hạt đậu xanh tán nhỏ trộn dấm hoặc từ hạt gấc mài ngâm rượu bôi lên chỗ sưng. Nếu bị viêm tinh hoàn: mặc quần lót chật để treo tinh hoàn, chườm nóng, dùng thuốc giảm đau (paracetamol hoặc ibuprofen), dùng corticoid (prednisolon, desamethason...).
Corticoid có tác dụng chống viêm và giảm đau tốt, lúc đầu dùng liều cao sau đó giảm dần liều trong 7-10 ngày, đây là một loại thuốc có nhiều tác dụng phụ trên nhiều hệ cơ quan như gây hội chứng cushing, gây viêm loét dạ dày tá tràng, có thể gây xuất huyết tiêu hóa ở bệnh nhân có bệnh lý dạ dày - tá tràng từ trước, gây loãng xương, ức chế miễn dịch... 
Tuy nhiên, các tác dụng phụ này có thể được kiểm soát nếu việc dùng thuốc thận trọng, tuyệt đối tuân theo y lệnh của bác sĩ. Trong trường hợp bị viêm não, viêm màng não cần dùng corticoid, chăm sóc theo dõi sát diễn biến bệnh nhân để tránh bội nhiễm và cần loại trừ các nguyên nhân viêm não, viêm màng não do căn nguyên khác. 
Bệnh nhân có biểu hiện viêm tụy thường lành tính, tuy nhiên những bệnh nhân này vẫn cần theo dõi sát tình trạng đau bụng, nôn, xét nghiệm máu để tránh bỏ sót biến chứng nặng như nang giả tụy hoặc cần phân biệt với các bệnh ngoại khoa. Với một số biểu hiện viêm khớp, viêm tuyến giáp... không cần điều trị đặc hiệu có thể dùng thuốc giảm đau, chống viêm đơn thuần (paracetamol).
Phòng bệnh
Phòng bệnh bằng các biện pháp: cách ly bệnh nhân, tạo miễn dịch, vệ sinh cá nhân và nhà cửa. Tiêm phòng vắc-xin quai bị tạo kháng thể cao, có miễn dịch bền vững ít nhất 17 năm, vắc-xin phòng bệnh quai bị thường kết hợp với phòng sởi và Rubella (trimovax, MMR). 
Cần tiêm chủng cho các đối tượng sau: trẻ em theo đúng lịch tiêm chủng; tiêm chủng ngay cho trẻ trên 12 tháng tuổi, trẻ vị thành niên và người lớn nếu đã có tiếp xúc với bệnh nhân quai bị nhưng chưa từng bị quai bị và chưa từng được tiêm chủng, những đối tượng này cần tiêm trước 72 giờ sau khi tiếp xúc với bệnh nhân quai bị; người nhiễm HIV. 
Không tiêm vắc-xin ở người dị ứng với nhóm kháng sinh aminoglycosid (gentamycin, amikacin…), dị ứng với trứng gà, bệnh nhân đang dùng các thuốc giảm miễn dịch, bệnh ác tính về máu và khối u, bệnh nhân đang sốt, người có biến chứng trong lần tiêm chủng trước, phụ nữ có thai. Ngoài ra, phòng bệnh thụ động bằng globulin miễn dịch cho một số đối tượng chưa được tiêm vắc-xin.
Hạn chế tiếp xúc với người bệnh, không dùng chung dụng cụ ăn uống, khi tiếp xúc phải mang khẩu trang, vệ sinh nhà cửa sạch sẽ, lau rửa đồ chơi của trẻ, rửa tay bằng xà phòng nhiều lần, che miệng khi ho, hắt hơi sau đó rửa tay ngay.
Theo BS Đào Thị Huế - Sức khỏe và đời sống
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons