Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016

5 loại thuốc có thể gây rối loạn cương dương

Có nhiều nguyên nhân gây rối loạn cương dương, dẫn đến rối loạn chức năng sinh lý nam giới. Một trong những yếu tố đó phải kể đếncác loại thuốc mà nam giới có thể sử dụng hàng ngày.




Thuốc Statins
5 loại thuốc có thể gây rối loạn cương dương - Ảnh 1Thuốc Statins làm giảm lượng hormone testosterone
Loại thuốc này có tác dụng làm giảm nồng độ cholesterol, tuy nhiên nó cũng làm giảm luôn lượng hormone testosterone. Theo các chuyên gia, loại thuốc này can thiệp vào quá trình sản xuất testosterone và gây ra tình trạng rối loạn cương dương, làm gia tăng các trở ngại trong "chuyện ấy" ở cả hai phái nam và nữ.
Thuốc lợi tiểu
5 loại thuốc có thể gây rối loạn cương dương - Ảnh 2Thuốc lợi tiểu có thể gây rối loạn cương dương
Những loại thuốc này giúp bạn kiểm soát huyết áp ở mức ổn định. Tuy nhiên, một trong những tác dụng phụ của nó là có thể gây rối loạn cương dương.Vì vậy, cách tốt nhất để kiểm soát huyết áp là bạn nên có một chế độ ăn uống phù hợp, đồng thời kết hợp sử dụng thêm các loại thực phẩm chức năng và hạn chế sử dụng các loại thuốc này.
Thuốc chống trầm cảm
5 loại thuốc có thể gây rối loạn cương dương - Ảnh 3Thuốc chống trầm cảm được xem là nguyên nhân gây rối loạn cương dương
Những loại thuốc này thường được dùng để điều trị trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn ăn uống, đau bụng kinh nghiêm trọng... Những loại thuốc này cũng được xem là nguyên nhân gây rối loạn cương dương. Chưa rõ cơ chế ảnh hưởng của thuốc này, nhưng các chuyên gia nghi ngờ rằng nó có ảnh hưởng lên hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh serotonin, norepinephrin và dopamine. Tất cả chúng đều có liên quan tới cảm giác hạnh phúc.
Thuốc an thần
5 loại thuốc có thể gây rối loạn cương dương - Ảnh 4Thuốc an thần gây ra tác dụng phụ với hoạt động tình dục
Loại thuốc này thường được dùng trong việc điều trị các bệnh tâm thần (tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực, mất ngủ, lo âu…). Loại thuốc này cũng là nguyên nhân gây nên tình trạng rối loạn cương dương ở nam giới, rối loạn ham muốn hoặc giảm chất nhầy âm đạo ở phụ nữ . Thuốc an thần làm tăng nồng độ prolactin gây ra tác dụng phụ với hoạt động tình dục.
Thuốc chống co giật
5 loại thuốc có thể gây rối loạn cương dương - Ảnh 5Thuốc chống co giật gây rối loạn cương dương
Các thuốc này được sử dụng để điều trị động kinh và đôi khi sử dụng để điều trị đau nửa đầu. Tuy nhiên, những loại thuốc này cũng được xác định có liên quan đến việc làm giảm lượng hormone testosteronevà làm giảm ham muốn tình dục, gây rối loạn cương dương.
ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408  

Khi nào thì cơ thể cần bổ sung các loại vitamin?

Các vitamin tan trong dầu được người tiêu dùng biết đến nhiều nhất là vitamin A, D, E… Chúng có thể ở dạng đơn lẻ hoặc phối hợp với các vitamin và khoáng chất khác. Vậy 3 loại vitamin này quan trọng như thế nào với cơ thể? Và khi nào cần bổ sung?
Vitamin A: Rất cần thiết cho cơ thể, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của thị giác (nếu thiếu sẽ gây bệnh quáng gà, khô mắt, loét giác mạc); trên biểu mô và các tổ chức da, vitamin A (đặc biệt axít retinoic) kích thích biệt hóa tế bào biểu mô, sinh tiết nhầy, ức chế sự sừng hóa tế bào biểu mô. Người thiếu vitamin A dễ bị mẫn cảm với các chất gây ung thư và các tế bào nền của biểu mô ở những vùng khác nhau tăng sản rõ rệt và giảm khả năng biệt hóa.
Tuy nhiên, cơ chế tác dụng chống ung thư của vitamin A vẫn chưa được giải thích đầy đủ nhưng có thể vitamin A điều hòa sự sinh tổng hợp protein, đặc biệt cần thiết cho sự biệt hóa tế bào của tổ chức biểu mô này và ức chế sự nhân lên của tế bào ung thư. Trên chức năng miễn dịch, vitamin A tăng sức đề kháng của cơ thể.
Khi nào thì cơ thể cần bổ sung các loại vitamin? 1
Vitamin A đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của thị giác Ảnh: Seatimes.com.vn
Vitamin A được dùng trong các trường hợp: Bệnh khô mắt, quáng gà, trẻ chậm lớn dễ mắc các bệnh nhiễm trùng, suy dinh dưỡng; bệnh trứng cá, da, tóc, móng khô, bệnh á sừng, bệnh vẩy nến; hỗ trợ trong điều trị ung thư da, cổ tử cung, đại tràng, phổi và phòng, chống lão hóa.
Khi cơ thể bị thiếu vitamin A sẽ có các triệu chứng như tăng sừng hóa biểu mô, da khô, thoái hóa tuyến mồ hôi, nhiễm trùng da, quáng gà, khô màng tiếp hợp, khô giác mạc có thể gặp viêm loét giác mạc dễ dẫn đến mù lòa và cơ thể dễ bị nhiễm trùng hô hấp, tiết niệu, sinh dục và chậm lớn, chán ăn...
Vitamin D: Được dùng trong phòng và chống còi xương ở trẻ em, phòng và chống loãng xương, nhuyễn xương ở người lớn, người gãy xương lâu lành; phòng và chống co giật trong suy cận giáp… Vitamin D có tác dụng tăng hấp thu canxi ở ruột và tái hấp thu canxi ở ống thận; phối hợp với hormone cận giáp điều hòa nồng độ canxi trong máu và tăng tích tụ canxi trong xương…
Việc thiếu vitamin D có thể do giảm hấp thu ở ruột, suy cận giáp, dùng thuốc ức chế enzym gan, người ít tiếp xúc với nắng. Thiếu vitamin D có dấu hiệu giảm canxi và phosphat trong máu, có thể gặp cơn hạ canxi máu. Thiếu lâu dài dẫn đến còi xương ở trẻ em và nhuyễn xương ở người lớn.
Vitamin E: Người ta thấy vai trò của vitamin E là làm tăng sản xuất tinh trùng và khả năng thụ thai, làm tổ của trứng đã thụ thai; ngăn cản sự tạo thành gốc tự do, làm vững bền màng tế bào đặc biệt khi có mặt vitamin C và các chất có chứa nhóm SH; tăng hấp thu và dự trữ vitamin A nhưng lại làm giảm một số triệu chứng của sự thừa vitamin A... Vì vậy, vitamin E được dùng trong các trường hợp: dọa sẩy thai, phụ nữ bị sẩy thai liên tiếp, vô sinh; teo cơ; thiếu máu, tan máu, bệnh xơ cứng bì ở trẻ em và lipid máu cao...
Ngoài ra, vitamin E còn được dùng để chống lão hóa (thường dùng chế phẩm phối hợp vitamin E với coenzym Q, axít amin chứa lưu huỳnh hoặc β - caroten, vitamin C và selen); cận thị tiến triển do giảm sự ôxy hóa của β- caroten ; chứng đái dầm sau đẻ hoặc rối loạn kinh nguyệt...
Thiếu hụt vitamin E kéo dài sẽ gây giảm phản xạ, giảm nhạy cảm xúc giác, yếu cơ, teo cơ phì đại, giảm sản xuất tinh trùng, giảm khả năng thụ thai, dọa sẩy thai, đẻ non, tổn thương cơ tim, thiếu máu, tan máu và rung giật nhãn cầu...
Cần lưu ý: Chỉ bổ sung các vitamin trên bằng thuốc (theo chỉ định của bác sĩ) khi có các dấu hiệu thiếu hụt như đã nêu trên. Lý do là khi dùng thừa sẽ tích lũy trong cơ thể gây nên các rối loạn do thừa vitamin. Vì vậy, phải dùng hết sức thận trọng.



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408  

Triển vọng thuốc giảm đau giống nọc độc nhện

Kết quả thí nghiệm của các nhà khoa học Brazil tại ĐH Liên bang Minas Gerais mới được công bố trên tờ British Journal of Pharmacology của Anh cho thấy thành phần được gọi là PnPP-19 được tổng hợp tương tự chất độc nhện, có thể làm giảm đau bằng cách tác động lên các thụ quan ở hệ thần kinh. Những thụ quan nói trên cũng có thể liên kết với dạng thuốc giảm đau có nguồn gốc từ thuốc phiện.
trien vong thuoc giam dau giong noc doc nhen - 1Nọc độc nhện được mô phỏng để nghiên cứu bào chế thuốc Ảnh: MEDICAL DAILY 

Trưởng nhóm nghiên cứu TS Maria de Lima thông báo: “Phát hiện của chúng tôi cho thấy ít nhất có một phần nào đó trong cơ chế tác dụng giảm đau từ PnPP-19 và thành phần này có thể dẫn tới nghiên cứu bào chế một loại thuốc giảm đau mới”. Việc tìm kiếm thuốc giảm đau mới có ý nghĩa đáng kể do một số trường hợp bệnh nhân phải dùng morphine - dạng thuốc gây nghiện có nguồn gốc từ thuốc phiện.
Một điều thú vị khác là PnPP-19 cũng đang được nghiên cứu thử nghiệm để điều trị rối loạn cương dương và đang cho thấy triển vọng hứa hẹn.


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408  

Khi nào thì hạ sốt cho trẻ bằng thuốc đặt hậu môn



Sốt là khi thân nhiệt ở miệng từ 37,5 độ C trở lên, ở nách 37,2 độ C. Khi trẻ sốt 37,5-38,5 độ C thì chưa cần dùng thuốc hạ nhiệt mà chỉ cần cởi bớt quần áo, cho uống nhiều nước, nếu trẻ đang bú mẹ cho bú nhiều hơn. Sốt trên 38,5 độ C thì cần cho bé uống thuốc hạ sốt. Trong một số trường hợp có thể dùng thuốc đặt hậu môn. 
PGS Nguyễn Tiến Dũng, nguyên trưởng khoa Nhi, BV Bạch Mai (Hà Nội) cho rằng, loại thuốc hạ sốt đặt hậu môn dành cho những trường hợp không thể dùng đường uống như trẻ hay nôn, co giật, bị mê… hay có chống chỉ định đường uống. Đây là lợi ích quan trọng nhất của loại thuốc này, còn nếu trẻ uống được thì đường uống là tốt nhất.
Nhược điểm của loại thuốc này là chỉ có một số dạng nhất định, hàm lượng cách nhau quá xa nên rất dễ bị sai liều. Ngoài ra trẻ mắc bệnh đường hậu môn như trĩ, đi ngoài quá nhiều, loét hậu môn… không nên đặt.
khi-nao-thi-ha-sot-cho-tre-bang-thuoc-dat-hau-mon
Sốt là biểu hiện thường gặp ở nhiều bệnh. Ảnh minh họa: N.Phương
Một số bà mẹ phối hợp cả thuốc uống hạ sốt và đặt môn, theo phó giáo sư Dũng là không đúng. Nếu 2 liều sát nhau quá có thể dẫn đến quá liều. Trước đây một số người hiểu nhầm thuốc đặt hậu môn không vào máu; một số sách cũ cũng viết thuốc đặt hậu môn không qua tuần hoàn gan ruột. Tuy nhiên, các thử nghiệm gần đây khẳng định thuốc vẫn vào máu, tổng liều uống và đặt hậu môn là như nhau.
Theo kinh nghiệm cá nhân của ông Dũng, một số bà mẹ cho con uống thuốc nhưng không thấy hạ sốt có thể do nguyên nhân sau. Thuốc là để cơ thể thoát nhiệt, nó tác dụng lên thần kinh trung ương điều khiển cơ thể thoát nhiệt ra ngoài, trong đó quan trọng nhất là thoát nhiệt trực tiếp ra ngoài môi trường. Vì thế, khi trẻ bị sốt bác sĩ bao giờ cũng khuyên nằm nơi thoáng mát. Mát là nhiệt độ trong phòng thấp hơn, nếu để trẻ trong nhà ở nhiệt độ nóng thì thuốc không có tác dụng, không thoát được nhiệt.
“Thoáng nghĩa là phải có gió, có đối lưu. Một trong những cách thoát nhiệt tốt nhất là đối lưu, nghĩa là phải có luồng gió đi qua da của trẻ”, phó giáo sư Dũng phân tích.
Theo ông, tâm lý chung của người Việt là sợ gió, vì thế hay đóng kín cửa, như thế không có đối lưu, không có luồng gió thổi qua, trẻ không có cơ chế mất nhiệt ra ngoài, sốt không hạ được. Cần lưu ý cho trẻ nằm thoáng không có nghĩa là lộng gió, tốc độ gió như thế nào tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ.
Nguyên tắc quan trọng khi bị sốt là không được đắp chăn, không được đóng kín cửa mà phải mở cửa, quạt cho thông gió, để không khí trong nhà lưu thông. Không nên để trẻ nằm sát đệm hay chiếu vì cả phần da lớn không thoát được nhiệt; cha mẹ có thể bế con lên để da tiếp xúc nhiều với môi trường. 
Cha mẹ không nên quá nóng vội muốn con phải hạ sốt thật nhanh, vì xuống quá nhanh lại nguy hiểm, cơ thể không chịu được sự thay đổi quá nhanh mà phải giảm từ từ. Những loại thuốc hạ sốt hiện nay sau 30 phút uống bắt đầu có tác dụng, nhiệt độ giảm dần sau 1-2 giờ.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408  

Thuốc chữa bệnh tiêu hóa gây hại… tiêu hóa


Các thuốc thường dùng là loại thuốc trung hòa axít chlorhydric, thuốc chống tiết axít hydrochloric (HCl), thuốc bảo vệ niêm mạc dạ dày, thuốc nhuận trường và thuốc điều chỉnh nhu động ống tiêu hóa.
Thuốc điều trị sử dụng qua đường tiêu hóa cũng giống như thức ăn đưa vào cơ thể, bộ máy tiêu hóa có nhiệm vụ tiếp nhận và vận chuyển; tiêu hóa, hấp thu và thải trừ; cuối cùng được chuyển hóa chủ yếu ở gan. Một số thuốc dùng để điều trị bệnh đường tiêu hóa lại có khả năng gây hại cho chính hệ tiêu hóa, vấn đề này cần thận trọng để ngăn ngừa tác dụng không mong muốn có thể xảy ra; đặc biệt là các loại thuốc thông dụng đã nêu ở trên.
Thuốc trung hòa HCl
Thuốc trung hòa HCl thường được sử dụng hiện nay là các thuốc nhôm hydroxyd, magnesie hydroxyd, nhôm phosphat, canxi carbonat. Các loại thuốc này ngoài tác dụng tích cực trong việc trung hòa chất axít dạ dày, sau khi ngừng dùng chúng có thể gây tăng tiết chất gastrin làm cho dịch vị lại tăng chất axít; các nhà khoa học thường gọi đây là hiện tượng trỗi dậy.
Các loại thuốc có muối nhôm hay gây táo bón, ngược lại các loại thuốc có muối magnesie lại gây ra tiêu chảy do cơ chế thẩm thấu và tiết dịch vị của dạ dày; vì vậy trong công thức điều trị thường phải phối hợp cả hai loại muối này.
Thuốc chữa bệnh tiêu hóa gây hại… tiêu hóa
Thuốc trung hòa axít chlorhydric sau khi ngừng dùng chúng có thể gây tăng tiết chất gastrin làm cho dịch vị lại tăng chất axít
Thuốc chống tiết HCl
Thuốc chống tiết HCl gồm thuốc ức chế histamin H2 và thuốc ức chế bơm proton.
Thuốc ức chế histamin H2 như: cimetidin, ranitidin, famotidin, nizatidin... Những loại thuốc này có thể gây ra triệu chứng buồn nôn, nôn, đi tiêu chảy hoặc táo bón thoáng qua và tự khỏi mà không cần can thiệp biện pháp.
Thuốc ức chế bơm proton như: omeprazol, lansoprazol... Những loại thuốc này có tác dụng ức chế rất mạnh đến việc tiết HCl nên đã có giả thiết cho rằng tình trạng thiểu toan kéo dài có thể dẫn đến tình trạng phát sinh ung thư nhưng đây chỉ mới là giả thiết. Trên thực tế chưa có sự chứng minh trên thực nghiệm và cũng chưa có trường hợp nào ghi nhận xảy ra trên lâm sàng mặc dù các loại thuốc này đã được sử dụng rộng rãi vào đầu thập kỷ những năm 80. 
Cũng có giả thiết được đặt ra là tình trạng thiểu toan đã làm tăng tiết chất gastrin theo cơ chế phản hồi, có thể làm phát sinh các khối u carcinoid ở dạ dày; tuy vậy quan điểm này chưa được chứng minh trên lâm sàng nhưng thực tế đã có trường hợp hiện tượng xuất hiện trong nghiên cứu thực nghiệm ở trên chuột.
Thuốc bảo vệ niêm mạc dạ dày
Thuốc bảo vệ niêm mạc dạ dày thường dùng thuộc nhóm thuốc bismuth, sucralfat, prostaglandin.
Thuốc thuộc nhóm bismuth hiện nay thường dùng dưới dạng subcitrat hoặc citrat. Ngoài tác dụng diệt loại vi khuẩn Helicobacter pylori hiện diện trong dạ dày, bismuth còn có tác dụng băng bó bảo vệ niêm mạc dạ dày. Khi sử dụng nhóm thuốc này, một số tác dụng không mong muốn gây hại về tiêu hóa có thể xảy ra nhưng thường chỉ nhẹ và thoáng qua như: buồn nôn, nôn, đi đại tiện phân lỏng và có màu đen, có khi màu đen xuất hiện ở lưỡi do thuốc.
Thuốc thuộc nhóm sucralfat như: nhôm saccharose sulfat rất ít hấp thu qua ống tiêu hóa nên tác dụng không mong muốn xảy ra rất ít khoảng 4,7%. Phản ứng chủ yếu là do chất nhôm nên thường gặp nhất là triệu chứng táo bón khoảng 2%; ngoài ra có tỉ lệ chừng 0,5% bị buồn nôn, nôn, đi tiêu chảy, đầy bụng, khó tiêu và khô miệng...
Thuốc thuộc nhóm prostaglandin lúc đầu dùng với liều lượng bảo vệ niêm mạc dạ dày không thấy có tác dụng đến việc tiết HCl, do đó muốn có tác dụng ức chế bài tiết HCl cần phải dùng liều cao như khi dùng thuốc Misoprostol cần dùng 200µg mỗi lần, dùng 4 lần trong 24 giờ. Với việc sử dụng liều cao như vậy, kết quả đạt được cũng chỉ ngang với thuốc ức chế histamin H2 nhưng lại phải đối diện với tác dụng có hại không mong muốn của thuốc như: gây buồn nôn, nôn với tỉ lệ từ 5 - 18%; đi tiêu chảy với tỉ lệ 5 - 22% vì prostaglandin đã kích thích sự tiết dịch và nhu động ruột.
Thuốc nhuận trường
Những người bị táo bón phải sử dụng thuốc nhuận tràng để can thiệp, thuốc có thể gây ra tác dụng không mong muốn thông thường là đi tiêu chảy do sự thích ứng của từng người bệnh hoặc do liều lượng thuốc sử dụng. Cơ chế gây ra tiêu chảy do thuốc nhuận trường là tăng tiết dịch của niêm mạc ruột hoặc do tăng thẩm thấu.
Tình trạng đi tiêu chảy có thể xảy ra bột phát nhất thời cho người sử dụng mỗi khi uống thuốc nhuận trường nhưng cũng có thể trở thành bệnh lý nên thường được gọi là “bệnh do thuốc nhuận trường” xảy ra ở những người lạm dụng thuốc, thường xuyên dùng thuốc nhuận trường. Ở nước ta, bệnh lý này ít gặp nhưng hay xảy ra nhiều ở các nước châu Âu, trong đó có 90% là đối tượng phụ nữ tuổi còn trẻ. Thực tế tất cả các loại thuốc nhuận trường đều có thể gây nên phản ứng này như: thuốc có các muối magnesie gồm sulfat, citrat hoặc chlorid; sorbitol, mannitol, lactulose, các anthraquinon...
Biểu hiện lâm sàng ghi nhận trong trường hợp những người sử dụng thuốc nhuận trường có phản ứng không mong muốn là đi tiêu chảy kéo dài, phân lẫn nhiều nước, có thể làm cho người sử dụng gầy sút và nhất là bị hạ chất kali máu được phát hiện trên lâm sàng, điện tâm đồ, xét nghiệm chất điện giải trong máu; độ pH của phân có thể bình thường ở những người dùng thuốc có các muối magnesie hoặc giảm ở những người dùng thuốc có sorbitol, mannitol hay lactulose. Ở những người sử dụng thuốc anthraquinon khi soi đại tràng có thể thấy niêm mạc ruột bị sạm đen, đôi khi phát hiện có cả những nốt loét trợt.
Thuốc điều chỉnh nhu động ống tiêu hóa
Thuốc điều chỉnh nhu động ống tiêu hóa gồm thuốc kích thích nhu động ruột và thuốc kìm hãm nhu động ruột; khi dùng để điều trị bệnh đường tiêu hóa chúng có thể gây nên một số tác dụng không mong muốn.
Thuốc kích thích nhu động ruột có ba loại thông dụng hiện nay là metoclopropamid với biệt dược là Primperan, domperidon và cisaprid. Những thuốc này rất ít khi gây ra tác dụng không mong muốn về tiêu hóa, tuy vậy trong một số trường hợp có thể làm đau quặn bụng thoáng qua, bị sôi bụng hoặc đi tiêu chảy. Thực tế chỉ cần giảm liều lượng dùng của thuốc thì sẽ khỏi các triệu chứng.
Thuốc kìm hãm nhu động ruột như loperamid có tác động chủ yếu lên nhu động ruột, thường được chỉ định sử dụng khi đi tiêu chảy không phải do nguyên nhân vi khuẩn hoặc ký sinh trùng. Do đặc tính kìm hãm nhu động ruột nên thuốc loperamid có thể gây táo bón, cần lưu ý thận trọng khi dùng cho trẻ em vì thuốc có thể gây nên tình trạng liệt ruột.


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408  

Khi nào nên tẩy giun cho bé?


Tỷ lệ nhiễm giun đường ruột ở nước ta khá cao, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, những nơi có điều kiện vệ sinh kém. Trẻ em thường hiếu động, bò chơi lê la trên sàn nhà rồi lại mút tay, cầm nắm và ngậm đồ chơi nhiễm bẩn, có khi trẻ đánh rơi thức ăn xuống đất rồi lại nhặt lên ăn vì thế trẻ rất dễ bị nhiễm các loại giun như giun đũa, giun tóc, giun kim.
Biểu hiện nhiễm giun, trẻ thường  bị rối loạn tiêu hóa, làm cản trở quá trình hấp thu chất dinh dưỡng nên các bé sẽ chậm lớn, biếng ăn, suy dinh dưỡng, thiếu máu, sức đề kháng kém vì thế dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn khác. Trường hợp nhiễm giun móc, trẻ có thể bị thiếu máu nặng vì mất máu mạn tính do tổn thương niêm mạc ruột làm chảy máu kéo dài...
Chiến dịch tẩy giun học đường của WHO
Khi trẻ bị nhiễm giun, dùng thuốc tẩy giun là một việc làm rất cần thiết vì thuốc có tác dụng tẩy sạch hoặc làm giảm đáng kể số lượng giun ra khỏi ruột.  Đây là loại thuốc dễ sử dụng và tương đối an toàn, được bào chế dưới dạng viên nén, thơm, ngọt, có thể nhai, nghiền trước khi uống hay dạng hỗn dịch, tùy theo lứa tuổi của bé để lựa chọn dạng thuốc cho thích hợp. 
Có thể uống thuốc vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, không cần phải nhịn đói. Tuy nhiên, chỉ nên bắt đầu tẩy giun định kỳ khi trẻ được 2 tuổi trở lên. Thời gian tẩy giun định kỳ là 6 tháng một lần.
Trước hết, cha mẹ nên cho cháu đến cơ sở y tế để khám, làm xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán chính xác và dùng thuốc theo sự hướng dẫn của bác sĩ.


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408  

Loại thuốc không dùng khi đường tiêu hóa trục trặc


Ðau bụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây đau bụng, đơn giản nhất là táo bón. Tuy nhiên, nguyên nhân có thể còn nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như viêm dạ dày ruột do virut, hội chứng ruột kích thích (IBS), ngộ độc thực phẩm, viêm ruột thừa,  tắc ruột, ung thư ruột, thiếu máu, sỏi thận, viêm tụy hoặc loét... Khi bị đau bụng, người bệnh cần đi khám bệnh để tìm nguyên nhân gây đau bụng.
Người có bệnh ở đường tiêu hóa cần thận trọng trong khi dùng thuốc.
Không được dùng cho bệnh nhân có triệu chứng đau bụng các thuốc nhuận tràng và tất cả các thuốc PPI (ức chế bơm proton) vì đau bụng là những triệu chứng có thể có của viêm ruột thừa, có thể bị nhầm lẫn với đau bụng liên quan đến táo bón không biến chứng. Sử dụng thuốc nhuận tràng ở bệnh nhân bị viêm ruột thừa cấp tính có thể dẫn đến vỡ ruột thừa.
Bên cạnh đó, các NSAID như aspirin, ibuprofen, naproxen cũng không được dùng cho bệnh nhân có triệu chứng này, mà cụ thể là bệnh nhân bị đau bụng có nguyên nhân bị đau - loét dạ dày. Nếu dùng bệnh sẽ trầm trọng làm chảy máu dạ dày... nguy hiểm tính mạng nếu không được cấp cứu kịp thời.
Rối loạn nuốt
Rối loạn nuốt (nuốt khó) thường xảy ra ở người bệnh Parkinson, đột quỵ, chấn thương sọ não, ung thư đầu, cổ hoặc thực quản... Một số thuốc (thậm chí thuốc không cần kê đơn) có thể mang cảnh báo “chống chỉ định” (không được dùng) cho bệnh nhân có vấn đề về nuốt vì có thể gây nguy hiểm cho người bệnh. Ví dụ như các thuốc nhuận tràng (citrucel, metamucil) có chứa dầu. 
Người bệnh khó nuốt sẽ vô tình hít phải dầu có trong thuốc gây ra viêm phổi, thâm nhiễm đáy phổi, xơ phổi và có thể dẫn đến ung thư phổi. Hơn nữa, khi khó nuốt, viên thuốc có thể bị mắc lại ở thực quản, trương lên và có thể gây ngạt thở cho người bệnh. Thuốc naproxen (aleve) cũng cảnh báo bệnh nhân không sử dụng nếu có khó nuốt. Trường hợp uống thuốc thấy bị mắc kẹt trong cổ họng cần phải có sự hỗ trợ của y tế.
Đối với người bệnh có khó khăn khi nuốt hoặc đau khi nuốt cũng không tự ý sử dụng thuốc ức chế bơm proton (PPI). Khi dùng phải có sự giám sát của bác sĩ, tránh viên thuốc mắc kẹt tại cổ họng gây hại...
Buồn nôn và nôn
Buồn nôn và nôn là một triệu chứng gây phiền hà. Cũng có rất nhiều nguyên nhân gây nôn như do chuyển động (say tàu xe) và không do chuyển động. Tuy nhiên, đối với triệu chứng buồn nôn và nôn không do chuyển động cần chú ý.
Một nguyên nhân phổ biến của nôn không liên quan đến chuyển động là viêm dạ dày ruột do virut, tổn thương dạ dày, thực quản, loét đường ruột, các khối u dạ dày, thực quản...
Không dùng các sản phẩm có chứa salicylate (aspirin, magiê salicylat và subsalicylate bismuth) cho người có buồn nôn hoặc nôn với những thay đổi trong hành vi. Cảnh báo này được đưa vào để ngăn chặn sự xuất hiện của hội chứng Reye. Hiện nguyên nhân của hội chứng Reye vẫn chưa được biết, nhưng nó gắn liền với việc sử dụng aspirin hoặc salicylat cho trẻ em bị bệnh thủy đậu hoặc cúm. Các triệu chứng thường bắt đầu với buồn nôn và nôn, tiếp theo là hành vi kích thích, tiêu cực và hiếu chiến. Các triệu chứng khác bao gồm lú lẫn, hôn mê, thay đổi tâm thần, động kinh...
Hiện một hoặc nhiều các thành phần trong nhóm này có thể được tìm thấy trong các thuốc giảm đau (trị đau nửa đầu, đau dạ dày, giảm cảm giác khó chịu ở dạ dày...). Vì vậy, cần lưu ý đọc kỹ thành phần của thuốc để tránh dùng.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408  
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons