Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2016

SOS: Tình trạng kháng thuốc ở Việt Nam

Hiện bác sĩ lạm dụng kháng sinh trong kê toa, người dân dùng thuốc điều trị vô tội vạ khiến nhân loại phải đối mặt với thảm họa kháng thuốc, Việt Nam cũng nằm trong tình trang báo động đỏ.




Tình trạng kháng thuốc không chỉ là mối lo ngại của các bác sĩ lâm sàng trong điều trị mà còn là thảm họa chung đối với sức khỏe cộng đồng.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa 
Tình trạng kháng thuốc là gì?
Kháng thuốc là tình trạng các vi sinh vật như: vi khuẩn, vi rút, nấm, ký sinh trùng… kháng lại các thuốc kháng sinh đã nhạy cảm với các vi sinh vật này trước đây, nó là cuộc chiến giữa con người và vi rút gây bệnh.
Trên thế giới đã xuất hiện các vi khuẩn kháng với hầu hết kháng sinh, còn gọi là vi khuẩn siêu kháng thuốc.
Ở Việt Nam, hầu hết các cơ sở khám, chữa bệnh đang phải đối mặt với tốc độ lan rộng các vi khuẩn kháng với nhiều loại kháng sinh. Mức độ và tốc độ kháng thuốc ngày càng gia tăng ở mức báo động.
Gánh nặng do kháng thuốc khiến chi phí điều trị tăng lên, ngày điều trị kéo dài, ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh và sự phát triển chung của xã hội.
Nếu không có giải pháp can thiệp kịp thời, trong tương lai, nhân loại có thể phải đối mặt với khả năng không có thuốc để điều trị hiệu quả các bệnh truyền nhiễm.
Giật mình về tình trạng kháng thuốc ở Việt Nam
Thống kê của Bộ Y tế chỉ ra, có tới 76% bác sĩ kê toa kháng sinh không phù hợp. Đây là nguyên nhân khiến 33% người bệnh bị kháng thuốc. Trong khi các quốc gia phát triển đang còn sử dụng kháng sinh thế hệ 1 thì Việt Nam đã sử dụng tới kháng sinh thế hệ 3 và 4, chi phí kháng sinh trong điều trị chiếm tới 17% trên tổng chi cho phí dịch vụ khám chữa bệnh của người dân. Tổ chức Y tế thế giới đã liệt Việt Nam vào danh sách nước có tỷ lệ kháng kháng sinh cao nhất trên toàn cầu.
Đại diện Bộ Y tế thừa nhận, mặc dù Việt Nam đã có quy định bắt buộc các nhà thuốc chỉ được bán kháng sinh theo toa, bác sĩ chỉ kê toa kháng sinh trong những trường hợp cần thiết, nhưng kháng sinh vẫn được bán một cách bừa bãi, công tác quản lý nhà nước về dược phẩm còn lỏng lẻo, chế tài xử lý chỉ là phạt hành chính nên chưa đủ sức răn đe đối với những đơn vị sai phạm.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Uống thuốc lúc nào để đạt hiệu quả cao nhất trong điều trị?


Khi sử dụng các loại thuốc dùng đường uống, điều được người bệnh quan tâm đầu tiên là uống thuốc vào lúc nào để đạt hiệu quả cao nhất trong điều trị.
Việc hướng dẫn thời gian uống thuốc hợp lý là một tiêu chí bắt buộc của công tác dược lâm sàng trong bệnh viện. Đối với việc dùng thuốc ngoại trú tại gia đình, trong cộng đồng, điều này cũng được đặt lên hàng đầu vì người bệnh tự dùng thuốc theo đơn của bác sĩ lại càng phải được chỉ dẫn thời gian dùng thuốc trong ngày sao cho hợp lý để thuốc đạt hiệu quả điều trị mà lại ít bị ảnh hưởng của thức ăn, đồ uống.
Liên quan đến mục đích dùng thuốc và nhịp thời gian
Chẳng hạn như đối với các loại thuốc ngủ, người bệnh cần được hướng dẫn uống thuốc vào buổi tối trước khi đi ngủ. Trừ trường hợp cần làm cho người bệnh ngủ vào ban ngày còn không ai lại hướng dẫn uống thuốc ngủ vào buổi sáng. Đối với các loại thuốc hạ sốt, giảm đau thì cần phải uống ngay bất cứ lúc nào khi người bệnh đang bị sốt, đang bị đau. 
Trong những trường hợp ấy, không nên máy móc phải uống thuốc vào buổi sáng hay buổi tối mà sau lần đưa thuốc đầu tiên nên quan tâm đến khoảng cách giữa các lần dùng thuốc, sao cho cứ mỗi một số giờ nhất định có một lượng thuốc theo yêu cầu vào cơ thể để có tác dụng giảm đau hạ sốt.
Yếu tố quan trọng thứ hai đó là ảnh hưởng của nhịp thời gian đối với tác dụng sinh học của thuốc, trong chuyên môn gọi là dược lý thời khắc. Cơ thể con người có một chu trình sinh học rất phức tạp, khép kín và có thể thay đổi theo nhịp ngày đêm, nhất là với các nhịp sinh học (ví dụ: nhịp tim) hoặc nồng độ của các chất nội tiết (ví dụ: các hoóc-môn).

Những thuốc có tác dụng sinh học tương tự như các hoóc-môn của cơ thể cần phải rất quan tâm đến thời điểm dùng thuốc sao cho không đi ngược lại các nhịp sinh lý tự nhiên của cơ thể. Điều này lý giải tại sao các thuốc loại corticoid nên uống vào buổi sáng, lúc khoảng 6 - 8 giờ vì khi đó nồng độ hydrocortison trong máu đạt mức cao nhất trong ngày. 
Uống các loại thuốc như: metylprednisolon, dexamethason vào thời điểm này sẽ không phá vỡ nhịp hoạt động của tuyến thượng thận là nơi bài tiết ra các chất đó và sẽ ít gây hiện tượng ức chế trục dưới đồi-yên-thượng thận là những tuyến sinh học quan trọng của cơ thể.
Các thuốc chống tăng huyết áp cũng nên uống vào buổi sáng, vì sự tăng huyết áp hay xảy ra vào buổi trưa và buổi chiều. Sau khi uống, thuốc phải trải qua quá trình hấp thu vào máu, đến khi cơ thể bị tăng huyết áp cũng là lúc hiệu quả của dược chất được phát huy tác dụng làm giảm huyết áp cho người bệnh. 
Tất nhiên, đối với một số thuốc chống tăng huyết áp mà bị ảnh hưởng hấp thu bởi thức ăn thì nên uống xa bữa ăn, ví dụ như captoprin. Đối với các thuốc làm giảm tiết acid dịch vị nên uống vào buổi tối trước khi đi ngủ vì nồng độ HCl tiết nhiều vào ban đêm. Các chất antacid, chất kháng thụ thể H2 và sucrafat thường dùng trong điều trị viêm loét dạ dày tá tràng đều phải uống xa bữa ăn (sau lúc ăn 2 giờ hoặc trước bữa ăn 1 giờ). 
Dược lý thời khắc xác định thời gian cho thuốc tối ưu cho từng loại thuốc và cả liều thuốc tối ưu dựa trên cấu trúc sinh học theo thời gian của cơ thể. Để xác định thời gian cho thuốc tối ưu, người ta chú ý nhiều đến các chu kỳ sinh học theo chu kỳ ngày đêm và cố gắng làm sáng tỏ cơ chế sinh ra các chu kỳ sinh học này. Có giả thuyết cho rằng chính tuyến tùng (glande pinéale) là cơ quan điều khiển các chu kỳ sinh học. 
Tuyến này có sự đáp ứng với sự biến thiên ánh sáng do tuần hoàn ngày đêm từ bên ngoài tác động vào. Tín hiệu của bóng tối hoặc ánh sáng từ võng mạc của mắt theo dây thần kinh thị giác về tuyến tùng sẽ kích thích hoặc ức chế tuyến tùng tiết ra các chất điều khiển các chu kỳ sinh học. Trong các chất ấy, melatonin là chất được biết tương đối rõ. 
Người ta đã chứng minh rằng, ở một số loài vật, melatonin được tuyến tùng tiết ra chủ yếu vào ban đêm. Ánh sáng ban ngày tùy theo cường độ sẽ làm giảm hoặc ngưng sự tổng hợp và tiết ra melatonin. Vấn đề này sẽ được đề cập đến sâu hơn trong một chuyên đề khác.
Thuốc và thức ăn, đồ uống
Vấn đề tương tác giữa thuốc và thức ăn cần được quan tâm một cách sâu sắc bởi vì thức ăn và đồ uống có thể ảnh hưởng đến dược động học của thuốc do thức ăn làm thay đổi mức độ hấp thu, phân bố, chuyển hóa và thải trừ của hoạt chất. Thậm chí trong một số trường hợp, thức ăn và đồ uống còn làm thay đổi tác dụng dược lý và độc tính của thuốc. Vì vậy, thuốc cần hướng dẫn cho bệnh nhân thời gian uống thuốc hợp lý để tránh các tương tác bất lợi của thức ăn và đồ uống đến tác dụng của thuốc trong cơ thể.
Các loại thuốc kích thích sự bài tiết dịch vị tiêu hóa như: rượu bổ khai vị, các thuốc điều trị thay thế men tiêu hóa như: pepsin, các enzyme tuyến tuỵ như: pancreatin nên uống trước khi ăn chừng 10 - 15 phút. Các loại thuốc vitamin, muối khoáng được thức ăn làm tăng hấp thu nên uống ngay trước bữa ăn vì bản thân thức ăn cũng là nguồn cung cấp vitamin và muối khoáng. Đối với một số thuốc kháng sinh không bị thức ăn làm giảm hấp thu mà lại kích ứng mạnh đường tiêu hóa cũng cần uống và lúc ăn như các kháng sinh nhóm quinolon, doxycylin.
Riêng trường hợp của thuốc aspirin là một thuốc giảm đau, hạ sốt, chống kết tập tiểu cầu thì cần lưu ý đến dạng bào chế để chọn thời điểm uống thuốc thích hợp. Aspirin là thuốc kích ứng đường tiêu hóa rất mạnh và lại bị thức ăn làm giảm hấp thu nên cần uống vào bữa ăn với các dạng thuốc lỏng hoặc viên sủi bọt. Với dạng thuốc viên nén aspirin thì cần nhai nát viên thuốc, uống với nhiều nước vào ngay khi ăn. 
Còn đối với dạng viên aspirin bao phim tan trong ruột thì lại phải uống vào lúc dạ dày rỗng và uống với nhiều nước để thuốc không lưu lại lâu ở dạ dày mà nhanh chóng được đưa xuống ruột. Trong trường hợp này nên uống trước bữa ăn khoảng 1 tiếng hoặc sau khi ăn 2 tiếng. Quy tắc này cũng được áp dụng cho các dạng thuốc được bào chế thành dạng viên bao tan trong ruột hoặc viên giải phóng chậm. 
Điều này có ghi trong các tờ hướng dẫn dùng thuốc mà các thầy thuốc phải đọc để hướng dẫn chu đáo cho bệnh nhân. Cần nhớ rằng nếu dạng aspirin viên nén mà uống sau khi ăn sẽ bị giảm sinh khả dụng đến 50%.
Những thuốc bị hấp thu quá nhanh lúc dạ dày đang rỗng cũng cần phải uống vào bữa ăn. Các thuốc như: levodopa, griseofulvin, hydralazin, carbamazepin, phenyltoin, diazepam… nếu uống lúc đói sẽ bị hấp thu nhanh vào máu gây các tác dụng không mong muốn do nồng độ tăng đột ngột cho nên cần phải uống vào bữa ăn để hạn chế tác dụng phụ. Diazepam là thuốc ngủ nên uống ngay sau bữa ăn tối để đạt hiệu quả cao nhất.
Các thuốc cần uống xa bữa ăn là các thuốc bị giảm hấp thu do thức ăn như: các thuốc chống lao (rifampicin, rimifon…), các kháng sinh nhóm betalactam (amoxicilin, ampicilin,penicilin…), lincomycin, erythromycin… Các thuốc này đều kém bền trong môi trường acid dịch vị nên cần phải uống cách xa bữa ăn. 
Cần nhớ rằng các dạng thuốc cần giảm thời gian lưu trong dạ dày như các viên bao tan trong ruột, viên giải phóng kéo dài cũng phải uống xa bữa ăn. Một số thuốc dùng trong điều trị bệnh dạ dày, tiêu hóa như sucrafat nên uống 1 giờ trước khi ăn để nó kịp tạo màng bao che niêm mạc trước khi thức ăn vào dạ dày. Các thuốc antacid phải uống au khi ăn 1 giờ để trung hòa lượng acid HCl thừa do dạ dày tiết ra để tiêu hóa thức ăn.
Lời khuyên của thầy thuốc
Chọn thời điểm dùng thuốc thích hợp cần phải căn cứ vào bản chất của thuốc được lựa chọn, dạng bào chế sử dụng và mục đích dùng thuốc cũng như nhịp sinh học của cơ thể. Các thầy thuốc sau khi kê đơn, giao thuốc cho người bệnh cần hướng dẫn cụ thể đối với từng bệnh nhân. Trong điều kiện hiện nay, khi các đơn thuốc thường phối hợp nhiều loại thuốc, điều này rất quan trọng để giúp người bệnh sử dụng đúng cách, nâng cao hiệu quả, hạn chế tác dụng không mong muốn và mau khỏi bệnh.


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Những lưu ý khi dùng thuốc chống phơi nhiễm HIV?

Tốt nhất là điều trị sớm từ 2-6h sau khi bị phơi nhiễm và không điều trị muộn quá 72h (3 ngày) kể từ khi có hành vi nguy cơ.


Ảnh minh họa - nguồn internet
Ảnh minh họa - nguồn internet
Chỉ hiệu quả khi dùng sớm: Những người có nguy cơ lây nhiễm cao, cần phải dùng thuốc càng sớm càng tốt. Tốt nhất là điều trị sớm từ 2-6h sau khi bị phơi nhiễm và không điều trị muộn quá 72h (3 ngày) kể từ khi có hành vi nguy cơ. 

Thời gian điều trị kéo dài liên tục trong 28 ngày. Sau 10 tuần kể từ thời điểm bị phơi nhiễm hoặc có hành vi nguy cơ, bạn cần tái xét nghiệm HIV. Nếu kết quả âm tính, bạn có thể yên tâm không bị nhiễm.

Địa chỉ mua thuốc: Các loại thuốc chống phơi nhiễm HIV này không bán lẻ ở bên ngoài. Có thể điều trị tại phòng cấp cứu các bệnh viện, phòng khám ngoại trú Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS địa phương. Ví dụ, tại Hà Nội Bệnh viện Đống Đa, Nhiệt đới... đang có loại thuốc này.


Chi phí điều trị: Thuốc chống phơi nhiễm do nước ta sản xuất khoảng 1,2 triệu đồng, nếu thuốc ngoại khoảng 4,5 triệu đồng.

Khuyến cáo: Điều trị bằng thuốc chống phơi nhiễm HIV không phải là lựa chọn cho những người thường xuyên phơi nhiễm. Cách chống phơi nhiễm tốt nhất là quan hệ tình dục lành mạnh và dùng bao cao su thường xuyên, đúng cách.


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

“Viên thuốc Viagra của phụ nữ” và những ý kiến trái chiều

Xuất hiện chính thức trên thị trường từ tháng 10/2015, viên thuốc Addyi, hoặc flibanserin, thường được gọi là “Viagra của phái nữ”.


“Vien thuoc Viagra cua phu nu” va nhung y kien trai chieu
Viên thuốc Addyi, hoặc flibanserin, thường được gọi là “Viagra của phái nữ”
Xuất hiện chính thức trên thị trường từ tháng 10/2015, viên thuốc Addyi, hoặc flibanserin, thường được gọi là “Viagra của phái nữ”, đã nhận được những sự khen chê trái ngược từ người dùng.
Kết quả khảo sát của một nhóm nghiên cứu Hà Lan vừa công bố: Các dữ liệu thu được cho thấy “sự thay đổi có ý nghĩa” do viên thuốc flibanserin mang lại là tối thiểu. Theo đó, các viên thuốc nhỏ màu hồng dành cho những phụ nữ suy giảm ham muốn tình dục không có tác dụng bao nhiêu, bất chấp ý kiến trái ngược của một số bác sĩ và bệnh nhân đang sử dụng thuốc.
Các nhà nghiên cứu Hà Lan đã phân tích tám nghiên cứu trên Addyi, tên thương phẩm của thuốc flibanserin, trên cứ liệu sử dụng của gần 6.000 phụ nữ. Kết quả thu được là con số “thỏa mãn tình dục tăng thêm” bình quân vào khoảng 0,5 lần một tháng, và một năm tăng thêm được khoảng sáu lần. Nhóm nghiên cứu yêu cầu hãng dược phẩm Sprout Pharmaceuticals, nhà bào chế thuốc Addyi, làm nghiên cứu thêm về sự tương tác giữa thuốc Addyi và rượu.
Một bài viết kèm theo công bố trên, cùng đăng trên tạp chí y khoa JAMA Internal Medicine, thậm chí còn đặt câu hỏi về việc Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê chuẩn thuốc này. “FDA đã phê chuẩn một loại thuốc có hiệu quả không cao để dùng trong điều kiện không đe dọa đến tính mạng bệnh nhân. Người tiêu dùng đang phải đối mặt với sự mơ hồ đáng kể và không cần thiết về những mối nguy hiểm có thể mang lại”, tiến sĩ Steven Woloshin và tiến sĩ Lisa Schwartz thuộc Trung tâm Y tế và truyền thông tại Viện chính sách y tế và thực hành lâm sàng Dartmouth (Hoa Kỳ), viết trong báo cáo của mình.
Các nhà nghiên cứu cho biết thuốc Addyi có tác dụng phụ đáng kể, như chóng mặt, buồn ngủ, buồn nôn. FDA phê chuẩn sử dụng thuốc Addyi tháng 8/2015 với một cảnh báo ghi trên nhãn nhấn mạnh các nguy cơ hạ huyết áp nghiêm trọng và ngất xỉu khi bệnh nhân uống rượu, dùng một số loại thuốc nhất định, hoặc có vấn đề về gan.
Sau khi viên Addyi được đưa vào tiêu thụ, một số bác sĩ và bệnh nhân đã dùng thuốc cho rằng nó có tác dụng. Đến nay vẫn không có phương thuốc nào khác ngoài Addyi được FDA phê chuẩn dành cho phụ nữ suy giảm ham muốn tình dục. Mặt khác, cũng hiếm khi có một viên thuốc nào gây nên tranh cãi như vậy giữa các chuyên gia y tế.
“Vien thuoc Viagra cua phu nu” va nhung y kien trai chieu
Phản bác ý kiến của các nhà khoa học Hà Lan, tiến sĩ Lauren Streicher, Giám đốc y vụ Trung tâm Y học tình dục Bệnh viện Northwestern Memorial ở Chicago (Mỹ), cho biết kết quả được trích dẫn trong nghiên cứu trên là con số trung bình. Trong khi Addyi không có tác dụng với mọi người, nhưng nhiều bệnh nhân của bà đã được hưởng lợi từ nó. Bà nói đã kê đơn thuốc Addyi khoảng 10 phụ nữ, ba hoặc bốn người trong số đó đã gửi email phản hồi với bà rằng thuốc có tác dụng. Bà Streicher trích dẫn một email viết “Lạy Chúa, viên thuốc đã thay đổi đời tôi, mọi thứ thật tuyệt vời!”.
Người mẹ trẻ Jodi Cole, 33 tuổi, sống tại Porter, bang Oklahoma (Mỹ), nói trước khi cô bắt đầu dùng Addyi, cô không muốn quan hệ tình dục với chồng mình. “Tôi yêu chồng tôi và tôi tin rằng Thượng đế đã tạo ra sự gần gũi tình cảm và tình dục như là thành phần quan trọng của hôn nhân. Vợ chồng cô quan hệ tình dục khá thưa thớt, và những khi tôi không ham muốn chuyện này, tôi thường có cảm giác lo sợ”.
Tuy nhiên, sau khi bắt đầu dùng Addyi từ tháng 11/2015, Cole đã cảm thấy sự khác biệt trong vòng sáu tuần uống viên thuốc màu hồng. Cô viết: “Tôi thực sự kinh ngạc, khi thấy mình thích được gần chồng, và lần đầu tiên trong đời tôi cảm nhận được sự nối kết với anh ấy”. Cole xác nhận cô không nói đến việc tăng số lượng quan hệ tình dục, mà quan trọng hơn đó là chất lượng mỗi lần gần gũi nhau.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Chặn đứng nguy cơ ung thư ruột kết nhờ uống aspirin


Chan dung nguy co ung thu ruot ket nho uong aspirin
Một nghiên cứu tiến hành bởi BV Massachusetts chứng minh: Sử dụng aspirin thường xuyên trong nhiều năm giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh ung thư nói chung, đặc biệt là ung thư ruột kết.
Chan dung nguy co ung thu ruot ket nho uong aspirin-Hinh-2
Aspirin làm giảm viêm khắp cơ thể, từ đó giảm nguy cơ phát triển các tế bào ung thư
Chan dung nguy co ung thu ruot ket nho uong aspirin-Hinh-3
Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu thu thập được từ 88.084 phụ nữ và 47.881 nam giới
Chan dung nguy co ung thu ruot ket nho uong aspirin-Hinh-4
Kết quả cho thấy người thường xuyên dùng aspirin có ít hơn 3% nguy cơ mắc bệnh ung thư nói chung so với những người ít sử dụng
Chan dung nguy co ung thu ruot ket nho uong aspirin-Hinh-5
Đặc biệt, những người dùng aspirin trong thời gian dài có ít hơn 15% nguy cơ ung thư đường tiêu hóa và 19% nguy cơ ung thư ruột kết
Chan dung nguy co ung thu ruot ket nho uong aspirin-Hinh-6
Một nghiên cứu trong năm 2015 cũng cho thấy, người sử dụng aspirin thường xuyên từ 10 năm trở lên có ít nguy cơ mắc các bệnh tim mạch
Chan dung nguy co ung thu ruot ket nho uong aspirin-Hinh-7
Những nghiên cứu trước đây cũng cho thấy, sử dụng thuốc aspirin trong thời gian dài giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư.


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Thận trọng với các loại thuốc giảm cân "siêu tốc"

Sử dụng thuốc giảm cân là một trong những phương pháp giảm béo hữu hiệu. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn tốt, thậm chí có thể mang đến nhiều nguy cơ gây bệnh.


Theo các chuyên gia dinh dưỡng, người béo phì nên tập trung tập luyện cho những bộ phận dư thừa mỡ. Ở nam giới, mỡ thường tập trung ở phần trên cơ thể như ngực, vai, bụng. Trong khi đó, ở phụ nữ, mỡ lại tích tụ ở phần bụng, eo, hông, mông, đùi.
Tùy theo môn thể thao mà cơ thể có thể đốt cháy ít hay nhiều năng lượng. Nếu tập luyện nhẹ thì mỗi giờ chỉ tiêu tốn 200kCal, tập luyện trung bình đốt được 300kCal, còn tập nặng mới cho 400kCal đào thoát khỏi cơ thể.
Hiện nay, nhiều người vì muốn giảm cân nhanh chóng nên đã tìm đến các loại thuốc giảm cân "siêu tốc", được quảng cáo rất hấp dẫn như có thể giảm được 3 - 5kg sau một tuần sử dụng. Điều này đánh vào tâm lý của nhiều người và họ sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để mua thuốc giảm cân.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là có nhiều loại thuốc mập mờ về nguồn gốc xuất xứ, nhãn mác cũng như hướng dẫn sử dụng sản phẩm, chất lượng không được như mong muốn.
Thậm chí, một số loại thuốc quảng cáo được sản xuất tại Mỹ, Nhật nhưng thực tế lại xuất hiện chữ Trung Quốc trên bao bì sản phẩm, không có hạn sử dụng, thành phần các chất trong sản phẩm...
Thận trọng với các loại thuốc giảm cân Hãy thận trọng khi sử dụng các loại thuốc giảm cân "siêu tốc"
Các chuyên gia y tế cho rằng: "Mỗi loại thuốc có tác dụng và cơ chế giảm cân khác nhau. Thuốc thường gây tiêu chảy để giảm hấp thu. Khoảng 70% cơ thể là nước, khi ta mất nước nhiều có nghĩa cân nặng cũng giảm, vì vậy khi sử dụng thuốc giảm cân còn làm lợi tiểu”.
Theo TS-BS Hồ Thu Mai, khoa Dinh dưỡng, BV Đa khoa Quốc tế Vinmec, thuốc giảm cân cấp tốc làm mất điện giải nhanh, ức chế hấp thu, giảm cảm giác ngon miệng và thèm ăn của người uống.
Về lâu dài, cân nặng giảm đồng thời cũng làm mất đi cảm giác thèm ăn, gây biếng ăn, khó hấp thu. Ngoài ra, thuốc giảm cân có thể gây ảnh hưởng đến chức năng của một số bộ phận trong cơ thể như suy thận, suy tim, đột quỵ, dị ứng.
Như vậy, giảm cân "siêu tốc" không hề tốt, bởi nó có thể khiến bạn giảm được số cân nặng một cách nhanh chóng, nhưng vô tình lại mang đến cho bạn những nguy cơ tiềm ẩn mắc các bệnh khác nhau. Để giảm cân hiệu quả, an toàn, hãy kiên trì tập luyện, điều chỉnh chế độ ăn uống hàng ngày và sống khỏe.
Dưới đây là lời khuyên của các bác sĩ:
- Có chế độ ăn kiêng phù hợp, tránh xa các loại thực phẩm chứa nhiều chất béo, dầu mỡ, tinh bột.
- Ăn nhiều rau xanh và củ quả.
- Uống nhiều nước làm tăng khả năng hòa tan chất béo và là yếu tố đầu tiên trong giảm cân.
- Không nên uống những thức uống có chứa soda như nước ngọt có ga, sinh tố.
- Vận động tập thể dục với các bài như đi bộ, leo núi, đi xe đạp, bơi giúp đốt mỡ thừa và tiêu thụ calo nhanh chóng. Bạn nên duy trì tập luyện thường xuyên.
- Bạn nên ăn uống đầy đủ, chú ý ăn nhiều vào buổi sáng và ít vào buổi tối.
- Ăn chậm. Việc ăn chậm giúp bộ não phân loại được thức ăn dễ dàng. Bạn sẽ hấp thụ và no bụng nhanh hơn.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Lạm dụng thuốc và những tai biến

Rất nhiều bệnh do virut gây ra và chỉ cần vệ sinh cơ thể, có chế độ dinh dưỡng nâng cao thể trạng là bệnh đã tự khỏi mà không cần thuốc.


Tuy nhiên, nhiều người có thói quen cứ thấy cơ thể bất thường là tự mua thuốc về uống. Thói quen này có hại cho sức khỏe mà chúng ta không thể lường trước được.
Lạm dụng thuốc khiến hệ miễn dịch của cơ thể suy yếu
Hệ miễn dịch tạo ra các kháng thể và các tế bào đặc biệt để tấn công các sinh vật lạ xâm nhập, chúng có khả năng nhận diện và phản ứng lại các tác nhân, kẻ lạ mặt xâm nhập như: vi khuẩn, virut, ký sinh trùng... Hệ thống miễn dịch của cơ thể là mạng lưới của các tế bào, mô và các bộ phận bảo vệ cơ thể trước những nguy cơ bệnh tật và có thể nói đây là hàng rào phòng thủ tự nhiên của cơ thể sống.
Khi mới ho, sổ mũi, bác sĩ sẽ dặn dò người bệnh ăn uống nâng cao thể trạng, giữ vệ sinh cơ thể, không vội vàng dùng thuốc. Ảnh: TM
Lúc bình thường, cơ thể người chỉ có một vài kháng thể nhưng khi có kẻ lạ mặt (kháng nguyên) xâm nhập thì lập tức được nhận diện và tình trạng “khẩn cấp được ban bố”, cơ thể tự sản sinh ra nhiều kháng thể hơn, giúp chống lại các tác nhân gây bệnh. 
Sau khi tấn công, một số kháng thể sẽ được giữ lại mãi mãi để khi những tác nhân đó quay lại thì cơ thể đủ sức đánh bại chúng. Hệ miễn dịch càng hoạt động mạnh thì nguy cơ nhiễm bệnh càng thấp.
Do thói quen tự điều trị và quan niệm trong cộng đồng là: “Đói ăn rau, đau uống thuốc” nên nhiều người đã vội vàng uống thuốc ngay khi có những biểu hiện bất thường về sức khỏe. Khi mới có các triệu chứng như sốt, ho, sổ mũi đã vội dùng thuốc mà phổ biến là dùng các kháng sinh. 
Kháng sinh là những chất có khả năng tiêu diệt vi khuẩn hay kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn một cách đặc hiệu. Mỗi loại kháng sinh chỉ tác động lên một số chủng vi khuẩn nhất định. 
Các thuốc kháng sinh không diệt được virut vì virut hoàn toàn khác biệt với vi khuẩn, nó không phải là một tế bào hoàn chỉnh mà chỉ là một bộ gene (DNA hoặc RNA) bao quanh là lớp vỏ protein chứa nhiều kháng nguyên, nên bắt buộc phải sống ký sinh bên trong tế bào chủ mà nó xâm nhiễm. 
Do virut nằm trong vật chất di truyền của tế bào chủ nên nếu kháng sinh tiêu diệt thì đồng nghĩa với diệt cả tế bào chủ (của người và động vật). Virut còn có khả năng nằm ẩn mình vài năm hoặc lâu hơn trong tế bào trước khi phát bệnh và luôn thay đổi hình dạng nên có khả năng kháng lại thuốc rất cao. Điều đó dẫn đến hệ miễn dịch của cơ thể bị suy yếu và không còn khả năng chống lại kháng nguyên.
Vì sao không được dùng thuốc kháng sinh khi nhiễm virut?
Hầu hết các trường hợp sốt do viêm mũi họng, tiêu chảy... là do virut, do đó không nên dùng kháng sinh. Chúng ta cần hiểu rằng sốt không phải là một bệnh mà chỉ là phản ứng bình thường của cơ thể khi bị nhiễm khuẩn. Sốt giúp chống lại nhiễm khuẩn bằng cách khởi động hệ miễn dịch của cơ thể. 
Thuốc kháng sinh ngoài tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh còn tiêu diệt cả những vi khuẩn có lợi. Vì vậy, lạm dụng kháng sinh thì cơ thể dễ bị các bệnh nhiễm khuẩn hơn. Điều này dễ nhận thấy nhất là ở trẻ em. 
Những trẻ uống kháng sinh nhiều thì sẽ dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn. Trong khi đa số cảm, ho, sổ mũi, sốt... ở trẻ là do virut và “thuốc” điều trị tốt nhất là thời gian (để bệnh tự khỏi) và dùng các thuốc điều trị triệu chứng.
Ho không phải là một bệnh mà là cơ chế giúp tống vi khuẩn, virut, chất nhầy ra khỏi đường hô hấp trên và hô hấp dưới. Chính dịch nhầy tiết ra từ đường hô hấp là nguồn dinh dưỡng béo bở cho vi khuẩn, cần phải tống ra ngoài nên ta không vội vã dùng kháng sinh và thuốc ức chế phản xạ ho ngay lúc mới bị nhiễm bệnh. 
Ngoài ra, ho chính là phản xạ tự vệ rất quan trọng của cơ thể, giúp đẩy chất nhầy ra khỏi túi phế nang trước khi nhiễm trùng đặt chân vào đây.
Một sai lầm thường gặp trong điều trị tiêu chảy là dùng kháng sinh bất kể nguyên nhân gì, việc dùng kháng sinh sẽ làm tăng phóng thích độc tố, làm rối loạn cân bằng hệ vi sinh đường ruột, bệnh nhân càng tiêu chảy nặng hơn. 
Trong trường hợp tiêu chảy do virut thì kháng sinh không có tác dụng mà còn làm cho bệnh nhân mệt mỏi thêm... Trường hợp này chỉ cần lưu ý bổ sung nước và điện giải.
Hậu quả khó lường
Trước hết, chúng ta phải nói về nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng lạm dụng thuốc. Đó là do bệnh nhân nhầm lẫn là kháng sinh chữa bách bệnh... nên đã dùng thuốc không đúng loại bệnh, không tuân thủ điều trị, dùng không đủ liều lượng và thời gian quy định của kháng sinh.
Việc lạm dụng thuốc không mang lại hiệu quả điều trị mà còn gây tác hại khôn lường. Trước hết là gây lãng phí, tăng chi phí điều trị trong khi hiệu quả điều trị không tăng. 
Tiếp theo là gây khó khăn cho việc chẩn đoán: dùng kháng sinh không kiểm soát sẽ làm lu mờ, mất triệu chứng của một bệnh liên quan; dễ gây phản ứng dị ứng, shock phản vệ thậm chí tử vong; nguy hiểm nhất là lạm dụng kháng sinh dẫn đến kháng thuốc, sau này khi cần thì không còn kháng sinh để diệt vi khuẩn gây bệnh nữa; bệnh nhân có nguy cơ bệnh nặng hơn và có thể tử vong ngay cả khi mắc phải các bệnh thông thường.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons