Thứ Ba, 16 tháng 2, 2016

Bổ sung vitamin thế nào để không bị bệnh?

Vitamin và chất khoáng là những chất có tỷ lệ thấp trong cơ thể. Nhưng là những chất rất quan trọng trong hoạt động sống còn của cơ thể.

Khi thiếu hay thừa những chất này sẽ gây ra nhiều bệnh cảnh khác nhau và đôi khi cũng nguy hiểm đến tính mạng.
Vitamin có nhiều loại, dựa vào tính chất vật lý người ta phân các vitamin này thành hai nhóm. Nhóm tan trong nước như vitamin B, C... nhóm tan trong mỡ như A, D, E...
Chất khoáng là những chất như: sắt, kẽm, đồng, vàng, canxi, magiê, natri, kali, chlor, phosphat, sulphat... Chất khoáng chiếm khoảng 4% trọng lượng cơ thể, người nặng 50kg thì chất khoáng khoảng 2kg.
Mỗi ngày cơ thể phải cần một lượng tối thiểu về chất khoáng. Các chất này phải được cung cấp qua thức ăn, nước uống hay dưới dạng thuốc khi cần thiết vì cơ thể không tổng hợp được các chất này.
Không phải nhiều là tốt
Nhiều người trong chúng ta nghĩ dùng vitamin liều cao như là thuốc tăng lực. Nhưng chúng ta quên rằng vitamin cũng là thuốc, là chất hóa học nghĩa là khi dùng quá liều cũng sẽ bị ngộ độc. 
Vitamin A, D là hai vitamin tan trong mỡ hay gây ngộ độc khi dùng liều cao kéo dài. Vitamin A được biết là có vai trò quan trọng với thị lực và da, màng tế bào, có thể dùng điều trị các bệnh như vẩy nến, mụn, trứng cá, chứng tóc khô, dễ gãy... 
Thuốc dùng dễ dàng qua đường uống và người ta đã quan sát được khi ngộ độc vitamin A có thể gây ra phù não, tổn thương trầm trọng ở gan. Cả hai biến chứng này đều có thể nguy hiểm đến tính mạng nên chúng ta phải thận trọng khi dùng vitamin A liều cao kéo dài. Tốt nhất là khi dùng phải có chỉ định và theo dõi của bác sĩ.
Pyridoxine hay còn gọi là vitamin B6 thường dùng để điều trị tình trạng chóng mặt và rối loạn tiền mãn kinh. Khi dùng quá liều kéo dài có thể bị ngộ độc gây tổn hại hệ thần kinh trung ương.
Acid ascortbic hay còn gọi là vitamin C được biết như là thuốc làm tăng sức đề kháng. Khi thiếu vitamin C thì mạch máu dễ vỡ gây xuất huyết dưới da. Trước đây, bệnh được mô tả ở những thủy thủ lênh đênh trên biển nhiều tháng liên tục không ăn rau, trái cây tươi. 
Vitamin C mang nhiều lợi ích khi ta biết cách sử dụng. Vitamin C có nhiều trong cây xanh, rau quả như chanh, cam, quýt, bưởi, bắp cải... Nhu cầu cơ thể về vitaminn C cao hơn các loại vitamin khác rất nhiều. Người lớn cần khoảng 50-100mg, nghĩa là 1mg/kg thể trọng mỗi ngày; đối với trẻ con và phụ nữ có thai cần 100-200mg mỗi ngày. 
Vitamin C ngoài tác dụng tốt cho tim mạch còn có tác dụng tăng sức đề kháng chống lại bệnh cảm, cúm, điều này đã được biết từ vài chục năm trước đây: với liều dùng khá cao 1-4g/ngày trong vài ngày người ta có thể rút ngắn được 30% thời gian mắc bệnh cúm. Ngược lại, nếu chúng ta không biết cách sử dụng, dùng liều quá cao trên 2g/ngày kéo dài trong nhiều tháng có thể gây hại cho dạ dày vì bản thân vitamin là acid - là chất chua. 
Tệ hại hơn là liều cao vitamin C làm tăng oxalate canxi trong nước tiểu, những tinh thể này sẽ lắng đọng tại thận tạo thành sạn thận. Chỉ nên dùng khoảng 0,5-1g vitamin C mỗi ngày sẽ rất có lợi cho sức khỏe và chống được chứng xơ vữa động mạch... khi cần dùng lâu dài cũng nên hỏi qua ý kiến bác sĩ.
Thiếu lại càng nguy hiểm
Nếu chúng ta không cung cấp đủ vitamin thì sẽ gây ra nhiều bệnh nguy hiểm như: thiếu vitamin A gây bệnh quáng gà, giảm sức đề kháng, thiếu vitamin C gây chứng chảy máu dưới da, thiếu vitamin B1 gây phù, suy tim, thiếu vitamin D gây còi xương, thiếu vitamin B12 gây thiếu máu, viêm dây thần kinh...
Chất khoáng cũng rất quan trọng tham gia vào nhiều phản ứng hóa học quyết định sự sống còn trong cơ thể và là thành phần cấu tạo chủ yếu của một vài cơ quan trong cơ thể như: canxi là thành phần cấu tạo chủ yếu của xương, sắt là thành phần cấu tạo chủ yếu của hemoglobin trong hồng cầu - là chất có chức năng vận chuyển oxygen trong máu.
Thiếu chất khoáng gây nhiều tác hại cho sức khỏe: thiếu canxi gây co giật tay chân, thiếu kali gây chuột rút, rối loạn nhịp tim...
Phòng ngừa thiếu vitamin và chất khoáng bằng cách nào?
Để phòng ngừa những tình trạng này chúng ta nên ăn uống thức ăn có chứa đầy đủ chất khoáng và vitamin cần thiết cho cơ thể. Còn trong điều kiện sức khỏe suy giảm, người già, người bệnh nặng kéo dài chúng ta nên dùng thêm thuốc có chứa đầy đủ các thành phần vitamin và chất khoáng cần thiết cho nhu cầu cơ thể. 
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện ở những người ở độ tuổi trung bình từ 48-78 tuổi thì sau 4-10 tuần bổ sung vitamin và chất khoáng có cải thiện rõ rệt về sức khỏe như: giảm được mệt mỏi, tập trung tư tưởng tốt hơn, ăn ngon miệng hơn, dễ ngủ và thời gian ngủ kéo dài hơn...
Vitamin và chất khoáng là những chất nền tảng của sự sống, chúng được cung cấp hàng ngày qua thức ăn, nước uống dễ dàng đến độ có lúc chúng ta quên đi sự cần thiết thực sự của nó. Cho đến khi sự thiếu thốn tích lũy lâu dần theo thời gian trở thành bệnh lý tức là lúc sức khoẻ suy giảm nhiều đôi khi đã khá muộn. Hãy cung cấp kịp thời những gì cơ thể cần.



Thiếu vitamin và bệnh tiểu đường

Vitamin A
Một nghiên cứu trên động vật công bố trên tờ The Journal of Biological Chemistry năm 2015 chỉ rằng thiếu vitamin A có thể đóng vai trò trong khởi phát bệnh tiểu đường típ 2. Vitamin A hỗ trợ cho hệ miễn dịch và phát triển tế bào, đồng thời tốt cho thị lực. 
Nghiên cứu trên động vật cho thấy vitamin A cũng giúp ngăn ngừa mất các tế bào beta, vốn là những tế bào trong tuyến tụy sản sinh insulin. Theo nghiên cứu này, đủ vitamin A có thể giúp tuyến tụy sản sinh nhiều insulin hơn và bình thường hóa lượng đường huyết, 2 yếu tố quan trọng giúp phòng ngừa bệnh tiểu đường.
Vitamin Acó nhiều trong quả mơ, dưa đỏ, cà rốt, gan, xoài, ớt, bánh bí ngô, rau bina và khoai lang.
Vitamin B12
Nghiên cứu gần đây trên Journal of Diabetes & Metabolic Disorders thấy rằng những người bị tiểu đường típ 1 và típ 2 thường có lượng vitamin B12 thấp. Phụ nữ và nam giới cần 2,4 mcg/ngày hoặc 2,6mcg hay 2,8mcg nếu bạn mang thai hoặc cho con bú. Bên cạnh các nhiệm vụ khác, loại vitamin này giúp hình thành các tế bào hồng cầu và thúc đẩy hệ thần kinh khỏe mạnh. 
Thiếu vitamin B12 có thể dẫn tới các vấn đề như suy giảm trí nhớ, rối loạn thần kinh ở bàn tay và bàn chân. Thiếu vitamin B12 đặc biệt đáng lo ngại ở những người uống metformmin để giảm glucose. Loại thuốc kê đơn này có thể hạn chế khả năng hấp thu vitamin B12 trong thực phẩm. Nếu đang dùng metformin, hãy đề nghị bác sĩ kiểm tra hàm lượng vitamin B.
Vitamin B12 có trong những thực phẩm như thịt bò, trai, ngũ cốc ăn sáng tăng cương, gan, cá hồi,  cá ngừ, các sản phẩm sữa như sữa, pho mai, sữa chua…
Magiê
Phần lớn chúng ta đều hấp thu lượng magiê thấp hơn so với được khuyến nghị, khoảng 420mg đối với nam và 320mg đối với nữ. Loại khoáng chất này đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát đường huyết và sản sinh năng lượng. Hấp thu nhiều magiê có thể làm giảm nguy cơ tiểu đường và giúp kiểm soát tốt hơn bệnh này.
Magiê có nhiều trong quả bơ, đậu đen, bánh mì, gạo nâu, ngũ cốc ăn sáng bổ dưỡng, các loại hạt, khoai tây, rau bina và sữa đậu nành.
Chế phẩm bổ sung
Để đảm nhận đủ lượng dinh dưỡng bạn cần, hãy cùng với bác sĩ lập kế hoạch ăn uống đối phó với bệnh tiểu đường. Nếu định dùng các chế phẩm bổ sung để tăng cường sức khỏe hãy hỏi ý kiến bác sĩ.
Hãy nhớ, một số chế phẩm bổ sung có thể tương tác với nhau hoặc tương tác với các thuốc khác. Vì vậy cần hỏi bác sĩ xem các chế phẩm bổ sung có ảnh hưởng tới sức khỏe của bạn như thế nào, bao gồm đường huyết, huyết áp, cholesterol và bất cứ bệnh nào bạn đang mắc.



Thuốc ngủ ambien làm tăng tai nạn giao thông

Nhóm người cao niên từ 70 tuổi trở ra nếu dùng thuốc ngủ ambien và điều khiển phương tiện cơ giới khi tham gia giao thông dễ gia tăng tai nạn.

Nhóm chuyên gia ở Đại học Alabama (UOA) ở Birmingham vừa kết thúc nghiên cứu và phát hiện thấy, nhóm người cao niên từ 70 tuổi trở ra nếu dùng thuốc ngủ ambien và điều khiển phương tiện cơ giới khi tham gia giao thông dễ gia tăng tai nạn. 
Theo nghiên cứu, nếu nhóm người này dùng ambien, tên thương phẩm phổ biến là zolpidem thì nguy cơ gây tai nạn cao hơn so với nhóm không dùng thuốc. Trước nghiên cứu này, khoa học phát hiện thấy, ngay cả những người trẻ tuổi, nếu dùng ambien cũng có tỷ lệ tai nạn cao hơn nhóm đối chứng không dùng thuốc.
Kết luận của UOA được dựa trên nghiên cứu dài kỳ ở 2.000 lái xe, độ tuổi trên 70 sống tại Alabama. Nghiên cứu có tính đến các yếu tố giới tính, chủng tộc, tình trạng hôn nhân, tình trạng hưu trí, nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp trước khi nghỉ hưu, thói quen sử dụng rượu, thuốc lá và mắc các bệnh mạn tính dựa trên bảng thăm dò theo kiểu hỏi đáp.
Kết quả, khoảng 4% số người tham gia sử dụng zolpidem, mắc bệnh mạn tính và dùng thuốc nhiều hơn, lái xe quãng đường ít hơn so với những người còn lại. Tổng thể, tỷ lệ va chạm xe cơ giới ở nhóm dùng zolpidem cao hơn nhóm dùng thuốc, riêng phụ nữ, nhóm dùng zolpidem gây tai nạn cho những người khác cao tới 61% so với nhóm không dùng  thuốc. 
Nếu trên 80 tuổi, tỷ lệ gây tai nạn xe hơi cao gấp đôi so với nhóm không dùng zolpidem mặc dù liều dùng như nhau. Theo TS. John N. Booth - trưởng nhóm nghiên cứu, lý do có nhiều nhưng nguyên nhân chính khi dùng zolpidem là gây mất ngủ, thiếu tập trung, xử lý tình huống kém. 
Vì lý do này, hãng Sanofi - nơi bào chế ambien khuyến cáo mọi người, nhất là nhóm người cao niên khi dùng zolpidem nên tư vấn bác sĩ và dùng theo chỉ dẫn. FDA khuyến cáo nên ghi chi tiết các thông tin trên nhãn thuốc, nếu lái xe chỉ nên dùng liều thấp hoặc không dùng zolpidem.



Lạm dụng kháng sinh, nguy cơ tử vong cao khi phẫu thuật

Giáo sư Dame Sally Davies - người đứng đầu Tổ chức Y tế công cộng Anh cho biết, người dân cần biết “bảo quản” thuốc kháng sinh vì nếu lạm dụng sẽ thúc đẩy gia tăng siêu khuẩn kháng thuốc.

Đồng thời, GS. Davies cũng tiết lộ những người miễn dịch với kháng sinh có thể có nguy cơ tử vong cao khi phẫu thuật. Do đó, khi bạn bị các bệnh nhẹ như cảm lạnh, cảm cúm, nên hạn chế sử dụng thuốc kháng sinh điều trị. PHE ước tính mỗi năm châu Âu có khoảng 400.000 trường hợp kháng thuốc kháng sinh, trong đó, 25.000 ca đã tử vong.
Trẻ em là đối tượng dễ mắc bệnh do hệ thống miễn dịch còn non kém. Phụ huynh phải cân nhắc cẩn thận khi cho trẻ dùng kháng sinh và dùng theo chỉ định của bác sĩ chứ bạn không nên tự ý yêu cầu được dùng kháng sinh. Cách tốt nhất là phụ huynh nên vệ sinh sạch sẽ cho các con, bố mẹ. Đồ đạc trong nhà cũng cần sạch sẽ để ngăn chặn vi khuẩn lây lan.



Người ngạt mũi chớ nên lạm dụng thuốc

Tôi là oxymetazolin - một trong những thuốc có tác dụng làm giảm sung huyết, được dùng để làm giảm tạm thời sung huyết mũi do cảm lạnh, viêm mũi, viêm xoang, hoặc dị ứng đường hô hấp trên.

Giảm tạm thời đỏ mắt do kích ứng nhẹ, như kích ứng vì dị ứng phấn hoa, lạnh, bụi, khói, bơi lội hoặc đeo kính áp tròng... Oxymetazolin có các dạng dung dịch nhỏ mũi, xịt mũi và dung dịch nhỏ mắt.
Trong tiết trời lạnh ẩm của mùa đông xuân, đặc biệt là lúc giao mùa, các chứng bệnh mũi họng và dị ứng đường hô hấp trên phát triển. Vì vậy, bệnh nhân thường phải dùng đến tôi, đặc biệt là bệnh nhân viêm mũi. Nguyên nhân gây viêm mũi có thể là do dị ứng với thời tiết, do nhiễm vi khuẩn, do cảm cúm (virut)... và được biểu hiện với triệu chứng là ngạt mũi làm cho người bệnh trở nên khó thở. 
Khi nhỏ oxymetazolin vào mũi đang bị sung huyết (ngạt mũi), thuốc sẽ tác dụng lên các thụ thể alpha - adrenergic ở các tiểu động mạch của niêm mạc mũi làm co mạch, dẫn đến giảm lưu lượng máu và giảm sung huyết mũi. 
Thêm vào đó, thuốc làm thông lỗ vòi nhĩ đang bị tắc. Mũi được thông khí trong một thời gian ngắn, bệnh nhân cảm thấy dễ chịu. Tuy nhiên không nên dùng oxymetazolin lâu dài mà chỉ dùng theo thời gian chỉ định của bác sĩ vì tôi có thể gây sung huyết hoặc viêm mũi do phản ứng. Ngoài ra, tôi có thể gây một số tác dụng không mong muốn như: đau rát tại chỗ, hắt hơi, khô miệng họng, đau đầu... 
Hơn nữa, khi dùng oxymetazolin quá liều, kéo dài hoặc quá thường xuyên có thể kích ứng niêm mạc mũi, đặc biệt ở trẻ em; có thể gây tác dụng phụ toàn thân như tăng huyết áp, hồi hộp lo lắng, buồn nôn, chóng mặt, đau đầu, đánh trống ngực hoặc nhịp tim chậm phản xạ... 
Ở người bệnh bị bệnh mạch vành, đau thắt ngực hoặc tăng huyết áp (bệnh có thể tăng lên do thuốc gây tác dụng trên tim mạch), người đái tháo đường, cường giáp... cần dùng tôi hết sức thận trọng với sự theo dõi của bác sĩ. Cần ngừng dùng oxymetazolin nếu có phản ứng phụ xảy ra.
Khi dùng tôi, mọi người cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng và thông tin về thuốc nhé. Lưu ý, không được sử dụng oxymetazolin cho người bệnh mẫn cảm với thuốc hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc, người bệnh bị glocom. 
Không dùng thuốc nhỏ mũi oxymetazolin hydroclorid 0,05% cho trẻ em dưới 6 tuổi. Hiện nay, có một vài biệt dược, trong thành phần của thuốc, ngoài oxymetazolin còn có thêm dexamethason để tăng khả năng chống viêm mũi dị ứng, nên càng cần phải đề phòng các chống chỉ định của dexamethason như viêm do virut, nấm... và cần tránh lạm dụng thuốc.



Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

Thức ăn có ảnh hưởng tới tác dụng của thuốc?

Rất nhiều người đã từng uống thuốc vào trong bữa ăn hoặc sau khi ăn... nhưng ít ai biết rằng chính thức ăn lại làm ảnh hưởng (làm thay đổi) tới sự hấp thu của thuốc.

Trong bộ máy tiêu hóa, dạ dày không phải là nơi để hấp thu thuốc nhưng sự hấp thu của thuốc lại phụ thuộc vào thời gian rỗng của dạ dày. Nếu uống thuốc vào lúc đói (bụng rỗng), thuốc chỉ giữ lại trong dạ dày khoảng từ 10 - 30 phút. 
Nếu chúng ta uống thuốc vào lúc no, thuốc sẽ bị giữ lại trong dạ dày lâu hơn, khoảng 1 - 4 giờ. Vì thế, đối với những thuốc ít tan khi uống vào lúc no sẽ có thời gian để tan, khi xuống ruột sẽ được hấp thu nhanh hơn (penicilin V). 
Tuy nhiên, đối với những thuốc dễ tạo phức với những thành phần của thức ăn như tetracyclin (tạo phức với Ca++ và một số cation hoá trị 2 khác) sẽ bị giảm hấp thu khi uống vào lúc no. Các thuốc kém bền vững trong môi trường acid (ampicilin, erythromycin) nếu bị giữ lâu ở dạ dày sẽ bị phá huỷ nhiều hoặc đối với dạng viên bao tan trong ruột sẽ bị vỡ ra khi lưu lại lâu trong dạ dày không nên uống vào lúc no. 
Những loại thuốc này cần uống trước bữa ăn từ 30 phút - 1giờ hoặc sau bữa ăn 1 - 2 giờ. Đối với những thuốc dễ kích ứng đường tiêu hóa, nên uống vào lúc no (để tránh tác dụng phụ do thuốc gây ra tại dạ dày). Ngoài ra, thức ăn cũng có thể ảnh hưởng đến enzym chuyển hóa thuốc của gan, ảnh hưởng đến pH của nước tiểu và qua đó ảnh hưởng đến chuyển hóa và bài xuất thuốc. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này không lớn.


Các thuốc gây độc cho gan


Phần lớn thuốc khi vào cơ thể được chuyển hóa tại gan trước khi được đào thải qua đường mật hoặc qua thận. Bình thường, thuốc đưa vào cơ thể là chất không độc, nhưng sau khi được chuyển hóa tại gan, một số thuốc trở thành chất gây độc với chính bản thân gan.
Thuốc có thể gây độc cho gan ở các mức độ khác nhau từ nhẹ đến hoại tử rất nặng, bệnh có thể cấp tính nhưng cũng có thể mạn tính. Bệnh thường xuất hiện trong vòng từ 5 - 90 ngày sau khi dùng thuốc, với biểu hiện rất khác nhau từ chán ăn, mệt mỏi cho đến vàng da, nước tiểu vàng, đau tức vùng gan, xuất huyết dưới da, thậm chí có thể xuất hiện xuất huyết tiêu hóa, hôn mê gan, suy gan nặng dẫn đến tử vong. 
Với sự ra đời của nhiều thuốc mới, danh sách các thuốc gây độc cho gan ngày càng dài thêm, trong đó phải kể đến các nhóm thuốc như giảm đau hạ sốt, thuốc kháng virut, thuốc điều trị lao...
Các thuốc gây độc cho gan
Một số thuốc rất độc với gan, gây nên các bệnh gan mạn tính.
Thuốc kháng retrovirus
Phần lớn các thuốc kháng retrovirus ức chế men transcriptase ngược hay kháng protease, gây viêm gan. Tổn thương gan rất đa dạng từ nhiễm mỡ gan đến viêm gan cấp, tiến triển bệnh có thể dẫn đến tử vong. Cơ chế gây độc rất đa dạng hoặc do tạo thành các chất chuyển hóa gây phản ứng và ức chế chuyển hóa ở các thể hạt trong gan, hoặc có thể tác động đến gan do kích động lại các bệnh viêm gan siêu vi B và C.
Thuốc giảm đau hạ sốt paracetamol
Đây là thuốc dùng phổ biến để điều trị giảm sốt. Thuốc gây độc cho gan tùy theo liều sử dụng. Khi điều trị cần chú ý xem xét liều lượng gây độc cho gan. Với liều nhỏ hơn 2 - 3g/ngày, paracetamol thấy an toàn và bệnh nhân chịu đựng được. Khi dùng đường uống với liều lớn hơn 10 - 15g sẽ đưa đến tổn thương gan nặng thường sẽ tử vong, liều này dùng khi có ý định tự sát. Tổn thương gan do paracetamol là dạng phổ biến của bệnh gan do thuốc. Ở người nghiện rượu, liều paracetamol thông thường điều trị vẫn có thể gây độc cho gan, vì vậy phải cẩn thận khi dùng paracetamol cho người nghiện rượu, không dùng nước uống có cồn để uống paracetamol.
Thuốc chống lao
Các thuốc như isoniazid, rifampicin, streptomycin..., đặc biệt là isoniazid (INH). Từ giữa thế kỷ 20, INH là thuốc điều trị chính cho bệnh lao. Sự tăng men gan xuất hiện vài tuần sau khi bắt đầu điều trị lao khoảng 10 - 20% bệnh nhân dùng INH. Sự tăng men gan này thường ở mức vừa phải và không liên quan dấu hiệu hay triệu chứng bệnh gan. 
Ở nhiều bệnh nhân tăng men gan tiếp tục dùng INH vẫn chịu đựng được và có thể sau đó men gan lại trở về gần bình thường. Nếu có tăng men gan, ngưng dùng INH thì men gan trở về bình thường trong vòng 1 - 4 tuần. Tuy nhiên vẫn có ít bệnh nhân khi dùng INH có thể suy gan cấp (có thể xảy ra khoảng 0,1 - 2% bệnh nhân). 
Bệnh nhân lớn hơn 50 tuổi có nhiều nguy cơ bị viêm gan khi dùng INH, trẻ em ít khi có tổn thương gan xảy ra. Bệnh nhân nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn nam. Khi điều trị nên theo dõi kỹ để phát hiện viêm gan do INH để ngưng điều trị kịp thời, tránh ảnh hưởng nặng cho gan.
Vitamin A
Uống vitamin A quá nhiều là nguyên nhân gây ngộ độc gan phụ thuộc vào liều lượng có thể đưa đến xơ gan. Uống thường xuyên liều lớn vitamin A (>25.000 đơn vị/ngày) có thể gây ngộ độc mạn tính và tổn thương gan. Tổn thương gan có thể xảy ra khi uống 15.000 - 40.000 đơn vị/ngày trong một năm, nhưng liều cao hơn có thể ngộ độc trong vòng vài tháng.
Tổn thương gan nhiều hay ít tùy thuộc liều lượng và thời gian sử dụng. Nhiều bệnh nhân có bệnh gan do vitamin A gây ra có khi không nhận thấy, chỉ khi bác sĩ lâm sàng thấy có hiện tượng bệnh nhân dùng vitamin A kéo dài kèm viêm gan mỡ, tăng áp lực tĩnh mạch cửa thì mới phát hiện ra. Người nghiện rượu nguy cơ càng cao.
Một số nhóm thuốc khác
Ngoài ra, một số nhóm thuốc khác cũng có thể gây hại gan như thuốc điều trị nấm (nystatin, ketoconazole, fuconazole), thuốc kháng giáp trạng (PTU, MTU), thuốc điều trị đái tháo đường (sulfamid, troglitazone, rosiglitazole), thuốc điều trị bệnh tim mạch (amiodazon, methyldopa, quinidine), thuốc chống co giật (phenytoin, carbamazepin)...
Bên cạnh những tác dụng phụ của thuốc, chúng ta cũng cần chú ý một số yếu tố làm tăng độc tính của thuốc đối với gan đó là rượu (rượu làm tăng độc tính của hầu hết thuốc đối với gan trong đó phải kể đến paracetamol, isoniazid); có bệnh lý gan mật từ trước (như viêm gan mạn tính, xơ gan...); liều lượng của thuốc (một số thuốc dùng ở liều thấp thì an toàn nhưng dùng ở liều cao hoặc quá liều sẽ gây ngộ độc cấp cho gan); sự tương tác giữa các thuốc làm tăng khả năng gây độc cho gan (sự phối hợp giữa isoniazid với rifampicin sẽ làm tăng độc tính của rifampicin với gan).
Chính vì vậy, để dùng thuốc an toàn, người bệnh cần hết sức tuân thủ hướng dẫn, y lệnh của bác sĩ, không được lạm dụng thuốc và tự ý dùng thuốc, khi dùng thuốc mà có biểu hiện như chán ăn sợ mỡ, nước tiểu sẫm màu, đau tức vùng gan thì cần đến ngay các cơ sở y tế để được kiểm tra phát hiện và điều trị kịp thời.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons