Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

Lạm dụng thuốc loãng xương rất nguy hiểm


Một số tác dụng phụ như loét và thủng thực quản, dạ dày, ruột có thể xuất hiện sau một thời gian dùng thuốc phòng loãng xương.

Ở Việt Nam, số người dùng các thuốc này ngày càng nhiều, nhưng rất ít khi họ được thông tin về tác dụng thật sự cũng như những nguy hiểm tiềm tàng mà việc lạm dụng thuốc có thể gây ra.

Sở dĩ nhiều bác sĩ kê đơn thuốc này vì họ coi hiện tượng giảm dần canxi trong xương theo tuổi tác là một bệnh lý. Thực ra, theo các chuyên gia giàu kinh nghiệm về xương khớp, không nên dùng thuốc trị loãng xương cho người có chỉ số khoáng chất dưới - 2 mà vẫn khỏe mạnh và không có triệu chứng bệnh tật nào.

Nhóm thuốc hay được kê cho người loãng xương nhất là bisphosphonat với các biệt dược nổi tiếng như Fosamax, Actonel, Reclast, Boniva... Đôi khi các bác sĩ còn chỉ định thuốc nội tiết tố oestrogen, thuốc kích thích cảm thụ quan của estrogen hoặc kích thích tăng sản xương.

Các thuốc này đã được chấp nhận vì có khả năng làm tăng nồng độ canxi trong xương. Nhưng một số nhà nghiên cứu đặt ra câu hỏi mà hiện nay chưa có câu trả lời chính xác: Liệu chúng có làm xương chắc và ít gãy hơn không? Theo các nghiên cứu của họ, phần lớn chúng chỉ ngăn cản sự đào thải của các khối canxi không còn liên kết với xương, chứ không làm tăng sự hàn gắn của canxi vào các mô xương.

Nhiều tác dụng phụ

Sau một thời gian sử dụng thuốc phòng loãng xương, đặc biệt là nhóm bisphosphonat, một số tác dụng phụ nguy hiểm có thể xuất hiện như loét và thủng thực quản, dạ dày, ruột.

Thuốc Fosamax
đã được các nha sĩ phát hiện là có khả năng gây hoại tử xương hàm và có thể dẫn đến tàn phế, thậm chí tử vong cho người sử dụng thuốc. Nó cùng với hai dược phẩm Aredia và Zometa đã bị buộc dán nhãn đen để cảnh báo về tác dụng phụ nguy hiểm này. Hai nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí y khoa New England Journal of Medicine còn cho thấy Fosamax làm tăng các nguy cơ loạn nhịp tim và rung nhĩ ở phụ nữ tới 50%.

Ngoài ra, thuốc trị loãng xương còn có thể gây ợ chua, đau bụng, tiêu chảy, đầy hơi, trào axít thực quản, táo bón và nhiều rối loạn tiêu hóa khác.

Còn các thuốc sử dụng oestrogen và cảm thụ quan của nội tiết tố này cần được nghiên cứu kỹ hơn để khẳng định về hiệu quả và độ an toàn. Việc can thiệp lâu dài vào nội tiết tố thường dẫn tới nhiều biến chứng và bệnh tật nguy hiểm như ung thư, tim mạch...

Forteo là thuốc duy nhất có khả năng làm tăng trưởng mô xương và làm chắc xương. Nhưng các nghiên cứu đã cho thấy nó còn có thể kích thích sự hình thành tế bào ung thư xương.

Để phòng trị loãng xương, các chuyên gia khuyên nên cóchế độ dinh dưỡng nhiều rau, hoa quả tươi để cung cấp magiê, canxi, vitamin K, glycine. Chúng đã được chứng minh là có tác dụng tích cực cho việc phòng chống loãng xương.

Nên tập luyện ít nhất 2 lần/tuần và tiếp xúc điều độ với ánh nắng mặt trời để có đủ vitamin D.



Độc tính của thuốc gây tê tại chỗ


Biểu hiện nhiễm độc cấp tính thường xảy ra do nồng độ thuốc tăng nhanh trong máu. Do đó, khi tiêm nhanh một liều nhỏ của thuốc gây tê có thể gây ra các biểu hiện nhiễm độc cấp tính.

Các loại thuốc gây tê tại chỗ như novocain, lidocain, bupivacain thường được sử dụng để giảm đau trong các thủ thuật và tiểu phẫu thuật ở ngoài da và niêm mạc hoặc để phong bế các dây thần kinh cảm giác. Nói chung, nếu được sử dụng đúng cách, các thuốc này thường chỉ tác dụng tại chỗ mà ít được hấp thu vào máu nên ít gây tác dụng phụ toàn thân. 
Bên cạnh các phản ứng dị ứng, tình trạng nhiễm độc do nồng độ thuốc trong máu cao quá mức cho phép cũng là một trong các tác dụng phụ thường gặp nhất với nhóm thuốc này. Sau khi gây tê, nồng độ thuốc tê có thể tăng cao trong máu vì nhiều lý do khác nhau như thuốc gây tê được tiêm vào mạch máu, tốc độ tiêm quá nhanh, dùng vượt quá liều quy định hoặc do thuốc hấp thu vào máu quá nhanh khi gây tê ở một vùng giàu mạch máu (đặc biệt là các vùng niêm mạc). Khi phong bế thần kinh liên sườn bằng các thuốc gây tê, thuốc cũng hấp thu nhanh hơn so với khi tiêm dưới da nên nồng độ thuốc trong máu cũng có thể tăng cao.
Các biểu hiện của nhiễm độc thuốc gây tê
Nhiễm độc thuốc gây tê chủ yếu ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương và hệ tim mạch, trong đó, các biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương thường gặp hơn và xảy ra sớm hơn so với các biểu hiện ở hệ tim mạch. Các biểu hiện nhiễm độc cấp tính thường xảy ra do nồng độ thuốc tăng nhanh trong máu. Do đó, khi tiêm nhanh một liều nhỏ của thuốc gây tê cũng có thể gây ra các biểu hiện nhiễm độc cấp tính.
Biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương: Các biểu hiện do kích thích hệ thần kinh trung ương thường xảy ra sớm, giai đoạn muộn là các biểu hiện do tác dụng ức chế thần kinh của thuốc. Những trường hợp nhẹ hoặc trong giai đoạn sớm, người bệnh thường có biểu hiện hoa mắt, chóng mặt, ù tai, tê bì đầu chi, rối loạn vị giác, lú lẫn và buồn ngủ. 
Trong quá trình tiêm, thầy thuốc cần liên tục hỏi bệnh nhân về cảm giác của họ, nếu có dấu hiệu nghi ngờ có nhiễm độc thuốc, cần ngay lập tức ngừng tiêm. Những trường hợp nặng, người bệnh có thể co giật, mất ý thức, hôn mê, suy hô hấp và ngừng thở. Tùy thuộc vào loại thuốc và tốc độ tăng của nồng độ thuốc trong máu, bệnh nhân có thể tỉnh lại sau một thời gian ngắn.
Các biểu hiện ở hệ tim mạch: Ở các trường hợp nhiễm độc nhẹ hoặc trong giai đoạn sớm, người bệnh thường có nhịp tim nhanh và tăng huyết áp, đặc biệt là khi thuốc gây tê được tiêm kết hợp với adrenalin. Sau đó người bệnh thường biểu hiện nhịp tim chậm và tụt huyết áp. 
Những trường hợp nặng, người bệnh có trụy tim mạch và rối loạn nhịp tim do tác dụng gây độc trực tiếp của thuốc tê trên tế bào cơ tim. Nói chung, bupivacain có độc tính trên cơ tim cao hơn so với lidocain. Rối loạn nhịp tim do thuốc gây tê có thể rất nặng và dai dẳng, khó điều trị. Nồng độ thuốc gây tê đủ để gây trụy tim mạch thường cao gấp 4 - 7 lần nồng độ thuốc đủ để gây ra co giật.
Dự phòng
Để giảm thiểu nguy cơ nhiễm độc thuốc gây tê tại chỗ, cần sử dụng đúng liều thuốc, lựa chọn những thuốc ít độc tính, giảm liều thuốc ở những người bệnh lớn tuổi hoặc có thể trạng gày yếu, tiêm thuốc chậm và lưu ý rút pit tông liên tục trong khi tiêm xem có máu ra không để đề phòng tiêm vào mạch máu. 
Tiêm thuốc gây tê đồng thời với adrenalin (epinephrin) cũng là một biện pháp có thể giúp giảm tốc độ hấp thu thuốc vào máu. Các nghiên cứu cho thấy, việc tiêm phối hợp với adrenalin gây giảm nồng độ tối đa của thuốc gây tê trong máu khoảng 50%. Adrenalin thường được pha ở nồng độ 1/200.000, với liều tối đa là 200 microgam. Cần lưu ý là việc tiêm phối hợp với adrenalin sẽ không giúp giảm được độc tính của thuốc gây tê nếu hỗn hợp thuốc được tiêm vào mạch máu.
Nên đặt sẵn đường truyền tĩnh mạch và chuẩn bị các thuốc và phương tiện cấp cứu trước khi gây tê. Sau khi gây tê, người bệnh cũng cần được theo dõi tại cơ sở y tế để phát hiện sớm các độc tính của thuốc có thể xảy ra sau đó.
Điều trị
Nếu người bệnh có các dấu hiệu nghi ngờ nhiễm độc thuốc gây tê trong quá trình tiêm, cần ngay lập tức ngừng tiêm và mở đường truyền tĩnh mạch. Phải đảm bảo thông thoáng đường thở và cho bệnh nhân thở ôxy nồng độ cao nếu có. Cung cấp đủ ôxy giúp ngăn ngừa tổn thương não, tình trạng co giật và các rối loạn nhịp tim khó kiểm soát. Nếu bệnh nhân co giật, có thể dùng diazepam tiêm tĩnh mạch hoặc đặt hậu môn. 
Các trường hợp hôn mê phải nhanh chóng đặt ống nội khí quản và cho bệnh nhân thở máy. Nếu bệnh nhân bị trụy tim mạch, cần điều trị bằng truyền dịch và các thuốc co mạch như ephedrin. Nếu ephedrin không hiệu quả, có thể dùng adrenalin dung dịch 1:1000 tiêm dưới da 0,3ml hoặc dung dịch 1:10,000 tiêm tĩnh mạch chậm 0,5 - 1ml. Điều trị các rối loạn nhịp tim nếu có, ép tim khi có ngừng tuần hoàn.
Nhiễm độc thuốc gây tê thường có tiên lượng tốt nếu người bệnh được phát hiện và điều trị sớm. Tình trạng nhiễm độc thường nhanh chóng hồi phục nếu được điều trị đúng.



Viagra gây sốc nhờ tác dụng phụ không tưởng

Viagra nổi tiếng là loại thuốc tốt nhất để chữa trị chứng bất lực ở nam giới. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết Viagra còn có một loạt công dụng khác có thể khiến bạn phải kinh ngạc.

Vũ khí chống CIA của Taliban
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Trong cuộc chiến ở Afghanistan, các điệp viên của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã dùng Viagra để đổi lấy thông tin về phiến quân Taliban từ các tù trưởng địa phương.
Điều này xuất phát từ thực tế các thủ lĩnh bộ tộc địa phương thường là những vị cao niên có rất nhiều vợ trẻ, nên làm thế nào để đáp ứng nhu cầu “chuyện ấy” của hậu cung lớn luôn là một trong các ưu tiên hàng đầu của họ.
Giải pháp chống mệt mỏi do chênh lệch múi giờ bay
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Các cuộc thử nghiệm trên chuột hamster cho thấy, Viagra có thể giúp con người vượt qua sự mệt mỏi sau chuyến bay dài qua nhiều múi giờ nhanh hơn.
Theo các nhà nghiên cứu, tiên dược phòng the giúp các con chuột thí nghiệm điều chỉnh nhịp sinh học (chu kỳ thức - ngủ) nhanh hơn. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là, thuốc chỉ phát huy tác dụng khi kết hợp cùng liệu pháp ánh sáng và chỉ theo một hướng di chuyển nhất định - hướng đông.
Điều này đồng nghĩa, trừ phi có thêm nhiều dữ liệu nghiên cứu đáng tin cậy hơn nữa, tốt nhất bạn nên tránh sử dụng “viên thuốc xanh dương” cho mục đích chống mệt mỏi do chênh lệch múi giờ bay.
Một trong các dược phẩm bị làm giả nhiều nhất
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Nhu cầu về Viagra trên thế giới rất cao, vì nhiều người muốn thử dùng nó. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều sẵn sàng móc hầu bao mua nó với cái giá được chính thức lưu hành trên thị trường.
Thực tế này dẫn đến cơ hội tuyệt vời cho những kẻ trục lợi tung ra thị trường các phiên bản giả của Viagra với giá rẻ mạt.
Theo kết quả một cuộc điều tra mới đây của Liên hợp quốc, khoảng ½ số website đang chào bán Viagra trên mạng thực tế đang buôn lậu hàng giả. Do đó, mọi người được khuyên nên mua “tiên dược phòng the” từ các kênh phân phối chính thống hoặc nguồn bán hàng uy tín để tránh “tiền mất, tật mang”. 
Thuốc hỗ trợ điều trị ung thư
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Mặc dù các nghiên cứu mới đang ở giai đoạn đầu, nhưng các nhà khoa học kết luận sơ bộ rằng, Viagra có thể được dùng để điều trị ung thư.
Cụ thể là, trong quá trình điều trị ung thư, “tiên dược phòng the” giúp làm giảm kích thước các khối u ác tính. Đặc biệt, một nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Virginia Commonwealth khám phá ra rằng, Viagra có thể hữu ích trong quá trình điều trị ung thư tuyến tiền liệt khi được sử dụng kèm thuốc doxorubicin.
Việc kết hợp thuốc tương tự như vậy còn được phát hiện có tác dụng tốt trong việc chữa trị ung thư buồng trứng và ung thư dạ dày.
“Cứu tinh” của các động vật có nguy cơ tuyệt chủng
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Việc khám phá ra Viagra cùng tác dụng tuyệt vời của nó đối với chứng bất lực ở nam giới đang góp phần bảo vệ các động vật có nguy cơ tuyệt chủng trên thế giới.
Điều này bắt nguồn từ thực tế thay vì cất công săn lùng và giết hại các động vật để lấy những bộ phận cơ thể được cho là có khả năng cường dương, nhiều quý ông đã chuyển sang dùng thuốc tân dược.
Ở những nơi như Trung Quốc, Viagra đang dần thay thế các phương thuốc y học cổ truyền nhằm cải thiện khả năng “lâm trận” của quý ông, vốn được bào chế từ sừng tê giác, xương hổ, dương vật hải cẩu và nhung hươu.
Thuốc kích dục cho gấu trúc
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Gấu trúc trong môi trường nuôi nhốt thường nhút nhát và lảng tránh chuyện giao phối. Tuy nhiên, khi được các nhân viên chăm sóc cho dùng Viagra, sức chịu đựng của chúng tăng lên và chúng có thể rũ bỏ sự kiềm chế để giao phối trong môi trường nuôi nhốt.
Giải pháp tăng thành tích của các vận động viên
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Nhiều vận động viên thể thao chuyên nghiệp đang ngấm ngầm sử dụng các loại steroid (các hợp chất chất béo hữu cơ hòa tan, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, chẳng hạn như các hoóc môn, vitamin, …) nhằm làm tăng thành tích thi đấu của họ.
Tuy nhiên, cũng có báo cáo ghi nhận, họ còn sử dụng cả “tiên dược phòng the” để đạt được mục đích này. Mặc dù chưa có bằng chứng xác thực, nhưng một số vận động viên vẫn rỉ tai nhau về việc Viagra có tác dụng tăng cường sinh lực và tăng hấp thu steroid.
“Tiên dược” cải thiện khả năng phát triển của trẻ sinh non
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Các nhà nghiên cứu phát hiện, Viagra có thể cải thiện tỉ lệ sống sót ở trẻ sinh non và trẻ nhẹ cân – những đối tượng vốn không phát triển đúng mức khi còn là bào thai trong bụng mẹ.
Theo họ, Viagra chứa axit nitric, rất hữu ích cho sự tăng trưởng của trẻ. Viagra cũng được cho là sẽ làm gia tăng nguồn cung cấp máu tới tử cung và nhau thai, giúp bào thai nhận được nhiều chất dinh dưỡng và oxy nuôi dưỡng hơn để tiếp tục phát triển trong bụng mẹ.
Chất kích thích tăng trưởng cho cây và hoa
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Hóa ra, Viagra không chỉ tốt cho con người và các loài động vật khác, mà còn rất hữu ích với thực vật.
Các nhà nghiên cứu Israel và Australia phát hiện, một hàm lượng nhỏ thuốc được hòa tan trong bình nước có thể khiến các bông hoa cắm tăng gấp đôi tuổi thọ và trì hoãn được thời gian bị héo tới thêm một tuần so với thông thường.
Dược phẩm chống suy giảm trí nhớ
Viagra, tiên dược phòng the, thuốc màu xanh dương, chứng bất lực, bệnh “trên bảo dưới không nghe”, nam giới, rối loạn cương dương, CIA, chất kích dục, suy giảm trí nhớ, ung thư, Taliban, tuyệt chủng, động vật
Sự suy giảm trí nhớ của con người thường do tuổi tác, bệnh lý hoặc đơn giản do sự phụ thuộc của chúng ta vào các công cụ hỗ trợ ghi nhớ điện tử. Một giải pháp mới cho vấn đề này có thể là sử dụng thuốc Viagra.
Một số nghiên cứu gần đây khám phá ra rằng, viên thuốc màu xanh dương có thể giúp cải thiện trí nhớ cũng như hỗ trợ điều trị bệnh suy thoái trí não Alzheimer.




Dầu cá cho bạn những giấc ngủ ngon

Kết quả thử nghiệm lâm sàng gần đây nhất của Đại học Oxford đã chỉ ra rằng với một lượng axit béo omega-3 cao hơn sẽ giúp  giấc ngủ của bạn sâu hơn. DHA - chuỗi axit béo không no thuộc nhóm Omega-3 có trong tảo biển và các đồ hải sản, đặc biệt hiệu quả trong việc giúp đôi mắt nghỉ ngơi đúng giờ.
Nhà nghiên cứu Paul Montgomery cho biết "Axit béo Omega-3 và Omega-6 giúp tạo ra rất nhiều dưỡng chất mà từ lâu được biết đến như một yếu tố không thể thiếu để ổn định giấc ngủ. Ví dụ như khi DHA giảm thì một lượng melatonin cũng giảm theo, và điều đó khiến bạn dễ dàng gặp rắc rối khó ngủ khi nồng độ DHA trong máu giảm".
Để đi đến kết luận, các nhà khoa học đã theo dõi giấc ngủ của 362 trẻ em. Thật bất ngờ khi có tới 40% trẻ có vấn đề về giấc ngủ. Trong đó, một số trẻ được cung cấp một lượng 600mg dầu cá hằng ngày trong vòng 16 tuần. Những trẻ còn lại được cho uống giả dược là các hạt ngô hay đậu nành thay thế.
Kết quả cho thấy những trẻ uống Omega-3 hằng ngày, thường ngủ nhiều hơn 1 tiếng, và ít đi lại vào ban đêm hơn so với những trẻ dùng giả dược.




Khó chịu sau ăn - Dùng thuốc gì?

Nhiều người thường than phiền về tình trạng khó tiêu sau khi ăn, nhất là trong dịp Tết đến xuân về. Hội chứng này thường là biểu hiện của nhiều bệnh khác nhau liên quan đến đường tiêu hóa.

Tuy nhiên, đôi khi nó chỉ là biểu hiện của tình trạng ăn quá nhiều, quá nhanh, ăn nhiều chất béo, ăn quả chua hoặc ăn phải một số gia vị hoặc thực phẩm không phù hợp, khó tiêu hóa...
Nếu người bệnh có dấu hiệu đau bụng, khó chịu, buồn nôn, đầy hơi, trướng bụng thì cần phải đi khám để tìm ra bệnh cụ thể. Chứng ăn không tiêu cũng có thể liên quan đến tình trạng căng thẳng về tâm lý, mệt mỏi, ăn uống không đầy đủ chất, người lười vận động... Vì vậy, cần xem xét kỹ trước khi quyết định dùng thuốc.
Nhu động ruột kém thường gây khó chịu sau ăn.Nhu động ruột kém thường gây khó chịu sau ăn
Chứng bệnh này liên quan mật thiết đến một số căn bệnh ở đường tiêu hóa như bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng, bệnh trào ngược dạ dày thực quản, bệnh khó tiêu dạng đầy hơi... 
Khi đó, cần dùng thuốc theo phác đồ trị bệnh cụ thể. Việc sử dụng một số thuốc kháng viêm, giảm đau để điều trị các bệnh khác cũng có thể gây ra các phản ứng có hại do thuốc, nhất là khi sử dụng các thuốc kháng viêm không steroid (NSAID), các glucocorticoid, các kháng sinh... có thể gây loét đường tiêu hóa và cũng gây ra tác dụng có hại là khó chịu sau ăn, ăn không tiêu, ợ hơi, cảm giác buồn nôn...
Các thuốc hay dùng để trị chứng này là:
- Thuốc kháng acid: là những hợp chất có tính bazơ để trung hòa HCl có trong dịch tiết của dạ dày. Hay dùng là các muối của nhôm, muối magne, calci carbonat hoặc natri carbonat (nabica). Tuy nhiên cần lưu ý, nabica không được dùng cho người bị tăng huyết áp, bệnh tim, suy gan hoặc có thai do có nồng độ natri cao.
- Thuốc chống loét: hay dùng là các thuốc kháng tiết acid dịch vị như nhóm ức chế bơm proton (omeprazole, lansoprazole, esomeprazole, pantoprazole...), nhóm ức chế thụ thể H2 (cimetidin, famotidin, ranitidine...).
- Thuốc kích thích nhu động: hay dùng là các chất như domperidon, metoclopramide, itopride, mosapride, tegaserod. Các thuốc này có tác dụng rất tốt để kích thích nhu động đường tiêu hóa, giúp cho thức ăn được nhào trộn nhanh và tránh đầy bụng, khó tiêu.
- Thuốc chống đầy hơi: hay dùng là simethicon, dimethicon và sena, có tác dụng tốt khử bỏ hơi tích tụ trong đường tiêu hóa, tăng trung tiện, giảm khó chịu cho người bệnh.
- Các thuốc hỗ trợ tiêu hóa, trị chứng khó tiêu: hay dùng là các men tiêu hóa như amylase, diastase, biodiastase, cellulase, lipase, protease. Ngoài ra, cũng có thể dùng thêm thuốc hỗ trợ tiêu hóa pancreatin giúp làm giảm sự phá hủy pancreatin bởi acid dịch vị. 
Người hay bị chứng khó chịu sau ăn, đầy hơi, trướng bụng, ậm ạch không tiêu cũng có thể dùng một số trà thảo dược, gừng hoặc sản phẩm bổ sung có nguồn gốc thiên nhiên để giải độc cơ thể, lợi mật, lợi tiểu để giúp cho quá trình tiêu hóa được thuận lợi.
Người mắc chứng khó chịu sau ăn cần phải thay đổi cách ăn, ăn chậm, nhai kỹ, không ăn quá nhiều chất kích thích hoặc gia vị gây khó tiêu. Nên đi bộ chậm rãi sau khi ăn, tránh lười vận động, ăn xong lại nằm.
Mang trang phục thoải mái, tránh mặc quần áo, đồ lót, dây nịt quá chật ảnh hưởng đến sự vận động và tiêu hóa thức ăn của cơ thể. Trong dịp Tết cổ truyền, nên ăn có chừng mực các thực phẩm dễ gây đầy bụng như bánh chưng, móng giò, thịt mỡ, các loại giò, các loại bánh mứt kẹo.




Không được ăn tôm khi đang uống Vitamin C


Nếu vẫn cần dùng thuốc trong ngày Tết, bạn lưu ý một số món ăn, thức uống ngày Tết tuyệt đối không được dùng chung với thuốc, bởi chúng làm mất tác dụng của thuốc hoặc gây tác dụng phụ.

Đồ ăn
- Không ăn tôm khi uống vitamin C vì nguy hiểm. Nếu bạn đang uống vitamin C thì tuyệt đối không nên ăn tôm. Bởi chất hóa học có trong tôm sẽ oxy hóa vitamin C và làm mất tác dụng của vitamin này, thậm chí có thể gây nguy hiểm cho bạn.
- Không ăn các món ăn có tỏi khi đang uống thuốc điều trị tiểu đường, vì sẽ xảy ra nguy cơ giảm đường huyết đột ngột. Tỏi là loại gia vị làm dậy mùi món ăn, chẳng hạn người ta thường ướp tỏi với thịt bò để có món thịt bò xào thơm ngon, hay món rau muống xào tỏi…
Tuy nhiên khi ăn tỏi trong khi đang dùng thuốc điều trị tiểu đường có thể gây hạ đường huyết trong máu đột ngột, nguy hiểm cho bạn.
- Không ăn thực phẩm quá giàu chất xơ mà uống thuốc, sẽ giảm khả năng hấp thụ thuốc. Vì thực phẩm giàu chất xơ có thể làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ thuốc của dạ dày.
- Không ăn cam, quýt khi đang uống thuốc kháng sinh vì sẽ mất tác dụng của thuốc. Trong cam quyt có chứa hàm lượng lớn acid, trong khi kháng sinh là loại thuốc kém bền vững trong môi trường acid. Nếu uống nước hoặc ăn cam quyt khi đang dùng thuốc kháng sinh sẽ làm thuốc kháng sinh mất tác dụng.
- Không ăn bưởi khi uống thuốc vì có thể gây nguy hiểm. Bạn không nên uống thuốc chung với nước ép bưởi, vì một số loại thuốc dùng chung với nước ép bưởi sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Chẳng hạn: nước ép bưởi dùng với thuốc chống dị ứng, có thể gây tử vong cho những người bị bệnh tim; nước ép bưởi dùng với thuốc an thần, thuốc ngủ, có thể gây chóng mặt; ăn bưởi khi bạn đang uống các loại thuốc nhằm giảm cholesterol sẽ khiến cho một lượng lớn thuốc đọng lại trong cơ thể, không phát huy được tác dụng, dẫn đến tổn thương gan và suy nhược cơ bắp, có thể dẫn đến suy thận.
- Không ăn chuối nếu đang dùng thuốc lợi tiểu, vì sẽ gây biến chứng tim mạch, huyết áp. Ăn chuối cùng lúc với thuốc lợi tiểu sẽ gây ra nguy cơ cao bị biến chứng về tim mạch và huyết áp. Bởi trong chuối có hàm lượng cao kali, sẽ tăng sự tích tụ kali trong cơ thể và gây ra biến chứng tim mạch.
- Không dùng nhân sâm với thuốc điều trị tăng huyết áp sẽ phản tác dụng. Những bệnh nhân bị tăng huyết áp hoặc thường xuyên phải dùng thuốc huyết áp nên tránh ăn nhân sâm để tránh gây tăng huyết áp do nhân sâm.
Đồ uống
- Tránh uống trà xanh khi đang dùng thuốc chống ung thư, sẽ mất tác dụng của thuốc. Tuy trà xanh tốt cho sức khỏe và có tác dụng chống ung thư, nhưng nếu uống trà xanh cùng lúc với thuốc sẽ gây phản tác dụng, tức là tác dụng chống ung thư sẽ không còn.
Ngoài ra, bạn cũng không nên uống trà xanh chung với uống viên sắt, vì hợp chất tannin trong trà sẽ kìm hãm khả năng hấp thụ sắt của cơ thể, uống sắt lúc này mất tác dụng. Bạn có thể uống trà xanh, sau khi uống thuốc 5 giờ.
- Tránh uống cà phê với thuốc vì xảy ra nhiều tác dụng phụ. Không dùng cà phê để uống thuốc, nhất là với các loại thuốc kháng sinh. Bởi trong cà phê có chứa nhiều caffeine, nếu dùng với thuốc sẽ làm giảm nghiêm trọng khả năng hấp thụ sắt.
Thuốc chống viêm không steroid và cà phê không được dùng cùng nhau, bởi chúng sẽ làm cho dạ dày bị kích thích ở cường độ mạnh, gây viêm loét đau đớn.
Nếu uống thuốc này cùng cà phê sẽ càng làm cho phản ứng phụ gia tăng, vì chất caffeine trong cà phê làm tăng kích ứng niêm mạc dạ dày.
- Tránh uống sữa với thuốc vì giảm khả năng hấp thụ sắt của cơ thể. Trong sữa có chứa nhiều canxi, nếu uống sữa và thuốc cùng lúc, sữa sẽ gây cản trở hiệu quả của thuốc, đặc biệt là các bệnh tuyến giáp.
Tuy nhiên bạn có thể uống sữa sau khi uống thuốc 4 giờ. Trong thời gian uống thuốc kháng sinh, cần tạm kiêng hoặc hạn chế tối đa thói quen sử dụng sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa (phô mai, sữa chua…).
Vì canxi trong sữa phản ứng với thuốc kháng sinh, tạo ra muối canxi không tan trong nước. Hậu quả là thuốc chỉ được hấp thụ một phần qua hệ tiêu hóa hoặc bị đào thải nên hiệu quả kháng sinh bị giảm đáng kể.
- Tránh uống rượu bia khi dùng thuốc paracetamol và aspirin, vì gây ngộ độc cho gan. Aspirin và paracetamol đều gây hại cho người sử dụng khi uống rượu bia.
Nếu uống rượu bia và dùng aspirin, có thể gây nên những kích ứng có hại như: viêm niêm mạc da dày hoặc chảy máu trong đường tiêu hóa.
Rượu bia có thể làm cho acetaminophen chuyển hóa thành một dạng chất độc mạnh là acetylbenzoguinoneimin - gây tổn thương gan, thậm chí gây tử vong trong nhiều trường hợp.



Aspirin có thật đa năng!?


Bên cạnh tính năng chống viêm, giảm đau, khả năng giảm nguy cơ bệnh tim và đột quỵ đã biến Aspirin trở thành một trong những viên thuốc thông dụng nhất thế giới.

Tuy nhiên, thuốc luôn là con dao hai lưỡi và Aspirin dù thần thông tới đâu cũng không thể thoát khỏi “lời nguyền” này.
Aspirrin - từ viên thuốc đa năng
Hàng thập kỷ qua Aspirin đã được sử dụng như loại thuốc giảm đau, chống viêm và ngăn ngừa các bệnh tim mạch khá hữu hiệu. Chỉ cần một lượng nhỏ Aspirin (81 milligram) một ngày, người bệnh đã có thể giảm nguy cơ bị bệnh tim mạch và đột quỵ. 
Với liều lượng này, Aspirin giúp ngăn ngừa nguy cơ hình thành cục máu đông do ngăn chặn sự kết dính của các tiểu cầu lên các mảng xơ vữa làm dòng máu không bị ngăn chặn khi đến cung cấp ôxy cho các mô.
Nghiên cứu của các nhà khoa học Italia cho thấy, Aspirin làm giảm nguy cơ chết vì bệnh tim, cũng như nguy cơ bị cơn đau tim, đột quỵ, đau ngực và các vấn đề tim mạch khác. Nghiên cứu được thực hiện trên 4.500 nam giới và phụ nữ, từ 50 tuổi trở lên và có ít nhất một yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch như: cao huyết áp, đái tháo đường hay béo phì.
Họ được chỉ định: uống cả 2 viên thuốc Aspirin và vitamin E, chỉ uống Aspirin, chỉ uống vitamin E, hoặc không uống thuốc nào. Thời gian theo dõi trung bình là 3,6 năm. Nghiên cứu đã kết thúc trước thời hạn vì hiệu quả của Aspirin quá rõ ràng: với liều lượng 1 viên/ ngày, thuốc làm giảm nguy cơ chết vì cơn đau tim hay đột quỵ trong 50% trường hợp.
Cùng với những nghiên cứu trước đây, kết luận này đã giúp các bác sĩ "tự tin" hơn khi khuyên bệnh nhân sử dụng Aspirin liều thấp để phòng cơn đau tim đầu tiên và các cơn đột quỵ.
Aspirin - những nguy cơ tiềm ẩn
Tuy nhiên, Aspirin không phải là thuốc có khả năng ngăn chặn xơ vữa động mạch phát triển nếu không kết hợp làm giảm các yếu tố nguy cơ hình thành nên xơ vữa như hút thuốc, hạn chế hoạt động thể chất thường xuyên, ăn nhiều mỡ, béo phì hay những người có bệnh lý đi kèm như rung nhĩ, tăng mỡ máu.
Ngoài ra, đã có một số nghiên cứu gần đây đã chứng minh aspirin có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng cho người dùng như xuất huyết dưới da, xuất huyết dạ dày... Từ những nghiên cứu này cho thấy những rủi ro của việc dùng aspirin cũng ngang bằng với lợi ích do chúng mang lại cho những người có bệnh tim mạch.
Một nghiên cứu mới đây cho thấy, 75% bệnh nhân tim mạch có biểu hiện kháng aspirin. Điều đó không chỉ làm giảm hiệu lực của thuốc mà còn tăng nguy cơ tử vong của bệnh nhân.
Aspirin cũng có khả năng gây chảy máu dạ dày hoặc ruột nếu như người bệnh có kèm bệnh lý về viêm loét dạ dày-tá tràng hay những người có dùng kèm các thuốc khám viêm steroid. Khi phát hiện các dấu hiệu đau vùng bụng trên rốn, đi cầu phân đen hoặc có máu, nôn ra dịch đỏ cần phải ngưng ngay việc uống aspirin và nhanh chóng gặp bác sỹ để được kiểm tra.
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Oxford (Anh) đã đưa ra kết luận: Khoảng 1% bệnh nhân uống Aspirin trong thời gian 28 tháng bị chảy máu dạ dày. Nhận xét này được đúc kết từ 24 nghiên cứu, thực hiện trên 66.000 người bệnh dùng Aspirin liều thấp. Những người ở độ tuổi từ 45-50 hoặc trong gia đình có người mắc bệnh tim mạch nhằm phòng ngừa các cơn đau tim hoặc đột quị có thể xảy ra trong tương lai.
Một số nghiên cứu cho rằng, một người có nguy cơ xảy ra cơn đau tim nhưng không tử vong sẽ giảm đi 1/3 nếu như họ được sử dụng aspirin trước đó như một phương thức phòng ngừa. 
Aspirin cũng có khả năng gây dị ứng, tuy nhiên tỉ lệ này rất hiếm. Việc dùng Aspirin thường xuyên có thể làm cho triệu chứng thở tồi tệ hơn nếu bạn có bệnh hen suyễn. Nếu có vấn đề dị ứng với aspirin, có thể thay thế nhóm thuốc kháng tiểu cầu khác như clopidogrel.
Và mới đây, Cơ quan Quản lý Dược phẩm của Anh (MCA) đã đưa ra lệnh cấm dùng Aspirin cho trẻ dưới 16 tuổi. MCA cho rằng, việc sử dụng aspirin ở các đối tượng dưới 16 tuổi sẽ dẫn tới một bệnh nguy hiểm cho não và gan mang tên Hội chứng Reye. Nguy cơ này tuy nhỏ (1/1 triệu) nhưng có thể dẫn tới tử vong.
Khoảng 140 sản phẩm do 50 công ty sản xuất sẽ chịu ảnh hưởng của khuyến cáo này. MCA cũng đang xem xét khả năng áp dụng lệnh cấm cho tất cả các sản phẩm chứa thuốc giảm đau aspirin.
Kể từ năm 1986, Anh đã cấm sử dụng Aspirin cho trẻ dưới 12 tuổi vì nguy cơ gây hội chứng Reye, với biểu hiện phù não và tổn thương gan. Nhờ đó tỷ lệ mắc bệnh này đã giảm. 
Aspirin - công dụng đang chờ kiểm chứng 
Có thể nói, Aspirin là một trong những loại thuốc tạo nên nhiều công dụng và tác hại trái chiều nhất của nền tân dược thế giới. Một số nghiên cứu của các chuyên gia y học thế giới trong năm 2011 ghi nhận Aspirin có khả năng ngăn ngừa ung thư như ung thư ruột, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi và ung thư thực quản.
Tuy nhiên, hiệu quả ngăn ngừa của aspirin lên bệnh ung thư rất khác nhau, Chẳng hạn, một người trung niên có dùng aspirin trong vài năm, tỷ lệ giảm phát triển ung thư ghi nhận khoảng 20 - 25%, chỉ số này chỉ là là giảm tương đối yếu tố nguy cơ hình thành phát triễn ung thư chư không phải là giảm tuyệt đối. Ví dụ, một người có 5 trong 100 (chỉ số tuyệt đối) yếu tố nguy cơ phát triển một bệnh ung thư, với dùng aspirin làm giảm nguy cơ là 20%, nguy cơ của người đó còn 4 trong 100 yếu tố nguy cơ. 
Tại hội nghị về việc sử dụng thuốc aspirin để ngăn ngừa ung thư được tổ chức tại London, Anh, các chuyên gia y tế đã đưa ra những bằng chứng cho thấy loại thuốc này có tác dụng giảm nguy cơ đau tim và đột quị, phòng chống nghẽn mạch, ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt hoặc ung thư ruột kết.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu 1.000 người có biểu hiện ung thư ruột kết và kết quả cho thấy những người uống Aspirrin có nguy cơ phát bệnh giảm 19%.
Một nghiên cứu khác đối với 80.000 phụ nữ cũng cho thấy những người thường xuyên sử dụng Aspirin thì nguy cơ ung thư vú giảm 28% so với những người không dùng thuốc. Ngoài ra, các nhà khoa học vẫn đang tìm được bằng chứng cho thấy aspirin có thể ngăn chặn chứng mất trí nhớ do lão suy thường xảy ra ở người trên 70 tuổi.
Song song với phát hiện khả năng ngăn ngừa ung thư, mới đây aspirin lại được cho là có khả năng kéo dài tuổi thọ cho các cơ quan cấy ghép.
Đó là do Aspirin có tác dụng chống sự viêm nhiễm - điều thường xảy ra với các bộ phận cấy ghép một thời gian dài sau khi được phẫu thuật, làm giảm tuổi thọ của chúng. Kết luận này được TS Zac Varghesse, thuộc Viện Hoàng gia London (Anh), đưa ra.
TS Varghesse cho biết, dù những ca phẫu thuật có thành công đến 90-99% thì sau 10 năm, khoảng 60% các cơ quan cấy ghép sẽ bị viêm nhiễm. Các tác nhân gây viêm nhiễm làm tích lũy một lượng lớn chất lipid trong tế bào. Điều này gây ra hiện tượng xơ hóa hoặc làm tổn thương bộ phận được cấy ghép ở cơ thể người bệnh. Những triệu chứng này thường rất khó chẩn đoán và xảy ra sau một thời gian dài.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons