Không có thuốc nào giải được rượu
|
This is featured post 1 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 2 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 3 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016
Thuốc giải rượu: có giải được rượu?
Thứ Ba, tháng 1 12, 2016
sống khỏe
No comments
Nắm bắt được tâm lý muốn uống rượu bia mà không “xỉn”, một số hãng dược phẩm đã tung ra thị trường hàng loạt sản phẩm gọi là “viên giải rượu”. Viên giải rượu có hiệu quả như mong muốn không?
Bia, rượu, nước giải khát có gas, rượu đế, rượu nếp than, rượu thuốc, rượu mạnh đóng chai… là những sản phẩm chứa chủ yếu là ethanol. Độ rượu là tỷ lệ thể tích ethanol trên thể tích dung dịch. Ví dụ: rượu đế 40 độ tức là trong 100ml rượu có 40ml ethanol, 1ml ethanol nặng khoảng 0,79g.
Rượu và quá trình chuyển hóa, đào thải
Về mặt khoa học, rượu là một dung dịch gồm nước và ethanol (trong đó ethanol chiếm từ 1 - 50% tính theo thể tích, vì vậy được gọi là rượu từ 10 - 500).
Ngoài các thành phần chính trên, rượu còn chứa một lượng nhỏ các chất riêng biệt của mỗi nhà sản xuất nhằm tạo nên mỗi loại rượu một màu sắc, một hương vị đặc thù: bia 4 - 8%, rượu vang 8 - 12%, vokda 37 - 45%, rượu nếp tự nấu 30 - 45%, wisky 40 - 50%, brandy 45%...
Làm xét nghiệm cồn trong máu cho ta kết quả dưới dạng Xmg/dl hay Xmg% tức là trong 100ml máu có Xmg rượu. Nồng độ cồn trong máu 150mg/ dl là vượt quá ngưỡng tham gia giao thông (80mg%); 120 - 160mg/dl: say rượu nặng; trên 300mg/dl: mất ý thức, hôn mê với suy tim và suy hô hấp; trên 500mg/dl: nồng độ gây chết. Vậy uống bao nhiêu là đủ?
Theo WHO thì cứ 1kg thể trọng trong một ngày chỉ nên đưa vào cơ thể 1g ethanol = 1,2ml cồn nhưng phải chia đều ra trong 1 ngày.
Trong 1 lít bia có chứa 40 - 80ml cồn, vậy một người nặng khoảng 70kg thì trong một ngày đêm chỉ nên uống lượng bia tối đa từ 1 - 1,2 lít nhưng phải chia đều ra.
Còn khi uống quá liều theo khuyến cáo thì sao? Khi rượu vào cơ thể, lượng rượu được hấp thu hoàn toàn trực tiếp vào máu 20% ở dạ dày, 80% ở ruột non.
Tốc độ hấp thu vào máu của rượu nhanh hay chậm, tùy thuộc vào dạ dày đầy hay đang trống, khi đói thì tốc độ hấp thu của rượu càng nhanh hơn, làm người ta mau say hơn lúc no bụng.
Sau khi được hấp thu, rượu vào máu và phân tán đến khắp các mô tế bào cơ thể, có thể vượt qua nhau thai, tìm thấy trong cịch não tủy và tích tụ ở não.
Vì vậy, có thể xác định nồng độ rượu trong bất cứ dịch sinh lý nào (nước tiểu, máu, dịch não tủy, hơi thở…). Quá trình đào thải chủ yếu qua chuyển hóa qua gan (khoảng 90%), còn lại được đào thải qua mồ hôi, nước tiểu và hơi thở…
Khi vào cơ thể rượu tác động chính đến 2 cơ quan là thần kinh trung ương và gan.
Ở thần kinh trung ương: rượu ức chế thứ tự từ trên xuống, đầu tiên là vỏ não, tiểu não, tủy sống cuối cùng là trung tâm hành tủy. Cho nên khi uống một lượng nhỏ rượu sẽ thấy dễ chịu, uống nhiều gây an thần, mất ức chế, giảm khả năng phán đoán, nói líu nhíu, mắt hoa và trở nên hung dữ hơn.
Ở gan: trong cơ thể gan đóng vai trò là một nhà máy thải độc, khi rượu vào thì gan chuyển hóa thành những chất không độc đào thải ra khỏi cơ thể. Đây chính là khả năng chuyển hóa giải độc rượu của gan.
Quá trình này hoạt động tốt khi có dự hiện diện của men xúc tác tên là NAD (nadnicotintamid - ademin - dinuclentid) do gan sản xuất với số lượng hạn chế để có đủ khả năng chuyển hóa từ 7 -10g/giờ (tương đương khoảng 1 ly bia hay 1 chung rượu nhỏ).
Điều này cho thấy khi uống quá nhiều bia rượu gan không kịp sản xuất đủ lượng men để chuyển hóa giải độc rượu. Khi đó lượng rượu tích tụ lại trong cơ thể, gây độc cho cơ thể, đặc biệt gan là cơ quan chịu tác động trực tiếp.
Về lâu dài tác hại càng nguy hiểm, đầu tiên chỉ gây ra hiện tượng đầy bụng khó tiêu, đó là giai đoạn đầu của tổn thương thực thể đến gan, về sau gây ra các bệnh gan nhiễm mỡ, viêm gan, xơ gan và cuối cùng là ung thư gan đưa đến tử vong.
Không có thuốc nào giải được rượu, bảo vệ gan
Các viên thuốc giải rượu có mặt trên thị trường hiện nay có rất nhiều: RU-21, tiếp là ME-21, Mewol-21 và gần đây góp mặt trên thị trường là Voskyo. Các viên thuốc này có thành phần tương tự nhau, chủ yếu gồm đường, vitamin B1, B6, PP, acid glutamic, acid fumaric, acid succinic.
Thực chất, các chất này không phải là thuốc mà là một dạng thực phẩm chức năng. Nó có tác dụng bổ trợ một phần trong quá trình chuyển hóa rượu, chứ chưa có tài liệu nào chứng minh tác dụng bảo vệ hoặc phục hồi cơ quan dễ bị rượu làm tổn hại là gan hoặc triệt tiêu tác dụng của rượu trên hệ thần kinh trung ương để làm mất đi trạng thái “xỉn”.
Khi uống nhiều rượu thường xuất hiện trạng thái đau đầu, cho nên người uống nhiều rượu thường dùng thêm các chế phẩm có aspirin, paracetamol, kháng viêm không csteroid...
Điều này càng làm ảnh hưởng xấu thêm cho chức năng gan. Khi phối hợp các thuốc này với rượu sẽ làm kích ứng niêm mạc đường tiêu hóa gây xuất huyết tiêu hóa. Nếu nồng độ paracetamol trong máu cao, vượt quá khả năng khử độc của gan gây hoại tử tế bào gan hàng loạt, gây ra biểu hiện viêm gan cấp.
Ngoài ra, người uống nhiều rượu còn dùng một số loại thuốc tráng dạ dày để uống rượu cho lâu say như phosphalugel, kremil-s, maalox... Thực chất những thuốc này chỉ làm chậm quá trình hấp thu rượu vào máu thôi chứ không phải những thuốc này bao hết đường tiêu hóa để rượu không hấp thu được vào máu.
Như vậy, không có một “thần dược” nào giúp cho con người uống rượu không say. Uống thuốc giải rượu để tăng “đô” khi đi nhậu chỉ chuốc họa vào thân. Có những trường hợp được ghi nhận là suýt mất mạng vì tưởng mình có thuốc giải rượu nên cứ uống. Chưa nói đến sự nguy hiểm khi gặp phải rượu giả.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Đột quỵ vì thuốc chống viêm, giảm đau
Thứ Ba, tháng 1 12, 2016
sống khỏe
No comments
Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) được sử dụng rộng rãi để điều trị đau và sốt từ nhẹ đến vừa trong các trường hợp như viêm khớp, đau bụng kinh, đau đầu, cảm lạnh và cảm cúm. Các NSAID có thể là thuốc kê đơn và không kê đơn (OTC) như ibuprofen, diclofenac, meloxicam, indomethacin và piroxicam…
Thực tế cho thấy, các thuốc chống viêm không steroid có nguy cơ làm tăng các cơn đau tim hoặc đột quỵ có thể dẫn tới tử vong. Dựa trên đánh giá toàn diện về thông tin an toàn mới của nhóm thuốc này, Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) đang tăng cường một nhãn hiệu cảnh báo về nguy cơ trên và yêu cầu cập nhật cho các nhãn thuốc của tất cả các NSAID kê đơn (mặc dù aspirin cũng là một NSAID, nhưng cảnh báo sửa đổi này không áp dụng đối với aspirin). Đó là:
Các nguy cơ đau tim hoặc đột quỵ có thể xảy ra sớm nhất là vào tuần đầu tiên của việc sử dụng một NSAID, và nguy cơ này có thể tăng khi tiếp tục dùng thuốc. Nguy cơ xuất hiện nhiều hơn ở liều cao hơn, vì vậy nên sử dụng thuốc ở liều thấp nhất có hiệu quả và trong thời gian ngắn nhất (có thể).
Người bệnh cần ngừng dùng thuốc và tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu có các triệu chứng như: đau ngực, khó thở, điểm yếu đột ngột hoặc tê ở một phần hoặc bên của cơ thể, nói lắp… vì đây là những triệu chứng có thể báo hiệu vấn đề về tim hoặc đột quỵ.
Các loại thuốc kê đơn trong nhóm này thường được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh viêm khớp và các chứng đau khác. Còn thuốc OTC (không kê đơn) trong nhóm này như ibuprofen, naproxen… được sử dụng để làm giảm tạm thời cơn đau và sốt như đau đầu, đau răng, đau lưng, đau nhức cơ bắp, đau bụng kinh…
Ngoài ra, một số OTC trị cảm cúm, cảm lạnh cũng chứa NSAID. Trên thực tế nhiều đơn thuốc và thuốc OTC có chứa NSAID, nên điều quan trọng là phải đọc kỹ nhãn thuốc để tránh uống nhiều loại thuốc cùng chứa thành phần hoạt tính tương tự.
Những người có bệnh tim mạch, đặc biệt là những người gần đây đã có một cơn đau tim hoặc phẫu thuật tim, có nguy cơ lớn nhất đối với các tác dụng phụ tim mạch kết hợp với NSAID. Vì vậy, nếu bạn có bệnh tim hoặc tăng huyết áp cần nói cho bác sĩ biết trước khi sử một NSAID. Cân bằng lợi ích của NSAID với những rủi ro có thể để cân nhắc lựa chọn thuốc điều trị.
Trong quá trình sử dụng thuốc người bệnh cần biết phát hiện tác dụng phụ của thuốc để kịp thời báo cho các nhà chuyên môn biết để được xử lý kịp thời, thích hợp.
Đối với bác sĩ, cảnh giác đối với sự phát triển của các tác dụng phụ tim mạch trong suốt toàn bộ quá trình điều trị của bệnh nhân, ngay cả trong trường hợp không có triệu chứng tim mạch trước đó.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Lưu ý sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai
Thứ Ba, tháng 1 12, 2016
sống khỏe
No comments
Trong thời kỳ mang thai, các bà mẹ thường dùng những loại thuốc mà đôi khi không để ý những tác hại đến bào thai và đặc biệt những thuốc chống chỉ định dùng.
Những rủi ro thường gặp
Thuốc dùng trong thời kỳ mang thai sẽ có những ảnh hưởng khác nhau đến bà mẹ và thai nhi. Nhau thai là nơi trao đổi chất giữa mẹ và thai nhi, một số thuốc có thể qua được hàng rào nhau thai. Vì vậy, một số thuốc có thể gây nên những dị tật bẩm sinh, quái thai...nhưng không phải tất cả và những dị tật cũng chiếm tỷ lệ thấp. Tuy nhiên cần phải biết những nguy cơ tiềm ẩn và điều này cũng tùy thuộc vào thời gian dùng thuốc trong thai kỳ.
Ba tháng đầu thường bị ảnh hưởng nhiều vì đây là giai đoạn hình thành phôi thai và có thể có các dị tật ở trẻ. Dị tật bẩm sinh có thể xảy ra ở bất cứ bộ phận nào như tim, mạch máu, đầu, mặt, bộ phận tiết niệu, sinh dục, tiêu hóa, xương, cơ, các chi... Trong sáu tháng kế tiếp thì những nguy cơ bị dị tật do dùng thuốc thường ít hơn, tuy nhiên vẫn rất cẩn thận vì vẫn có những độc tính trực tiếp đến thai nhi.
Ảnh minh họa |
Lưu ý một số thuốc phụ nữ mang thai không nên dùng: một số thuốc kháng sinh, thuốc chống đông máu, thuốc chống động kinh, thuốc chống trầm cảm, chống lo âu, thuốc an thần kinh, lithium, thuốc giảm đau, kháng viêm… Ngoài ra một số thuốc về mặt lý thuyết là không gây nguy hiểm cho phụ nữ mang thai nhưng tốt hơn hết phải có ý kiến của bác sĩ trước khi dùng.
Các bà mẹ mang thai cần lưu ý những điều sau:
Không được tự ý dùng thuốc vào bất cứ thời gian nào của thai kỳ. Cần có chỉ dẫn của bác sĩ dù thuốc đó có thể mua không cần đơn thuốc hay các loại thảo dược.
Tuy nhiên vẫn có trường hợp phải dùng thuốc ( các bệnh mạn tính : tăng huyết áp, hen suyễn, tiểu đường, động kinh). Trong trường hợp này cần có chỉ định của bác sĩ. Khi đó bác sĩ sẽ cân nhắc thật kỹ giữa lợi ích sức khỏe của bà mẹ và mức ảnh hưởng đến bào thai để chọn thuốc phù hợp ( thay đổi liều dùng hoặc thay đổi thuốc khác để có ảnh hưởng ít nhất đến thai nhi).
Thời kỳ cho con bú các bà mẹ cần tuân thủ chặt chẽ, không được dùng bất kỳ thuốc gì mà không có ý kiến của bác sĩ.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Bệnh do virut Herpes: Chữa trị thế nào?
Thứ Ba, tháng 1 12, 2016
sống khỏe
No comments
Virut Herpes simplex (HSV) có thể gây nên nhiễm khuẩn da cấp tính và biểu hiện mụn nước thành nhóm trên nền da đỏ. Hiếm khi virut này gây nên bệnh trầm trọng và có thể ảnh hưởng tổn hại đến thai nhi. Bệnh tái phát và thường xuất hiện tại vị trí cũ hoặc gần đó. Herpes ở môi phổ biến nhất gây bởi HSV týp1, ngược lại, Herpes sinh dục thường gây bởi HSV týp2.
Nguy cơ và biểu hiện bệnh
Điều kiện thuận lợi để virut xâm nhập gây bệnh thường là: tổn thương ở môi (khô, nứt môi, chấn thương...), chấn thương răng - miệng (nhổ, trám răng...), sốt, cảm cúm, các bệnh nhiễm trùng (như viêm đường hô hấp trên...), kinh nguyệt, có thai, suy nhược cơ thể, căng thẳng tinh thần, chấn thương thể chất, giảm sức đề kháng, giảm miễn dịch (AIDS, ung thư...). Bệnh thường biểu hiện với các dấu hiệu đau, bỏng rát, ngứa hoặc tê nhẹ vùng da trước khi nổi mụn nước, sau đó nổi mụn nước thành chùm trên nền da đỏ.
Vị trí thường gặp: quanh môi, vùng quy đầu, bao quy đầu, môi lớn, môi bé và vùng da xung quanh sinh dục. Chúng thường tiến triển thành mụn mủ hoặc loét và phủ vảy tiết lên trên. Bệnh nhiễm thứ phát thường xuất hiện lại tại vị trí cũ hoặc gần đó.
Nhiễm HSV ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch (AIDS, đang dùng corticoid kéo dài...)
Virut Herpes simplex lớn hơn hoặc loét hoại tử, lan rộng và tổn thương có thể xảy ra bất cứ nơi nào trên cơ thể.
Ảnh minh họa
Ðiều trị thế nào?
HSV là bệnh tự giới hạn. Tuy nhiên, nên dùng một đợt thuốc kháng virut để giảm bớt triệu chứng, ngăn ngừa lan tỏa và lây lan. Sử dụng tốt nhất vào thời điểm khởi phát.
Hiện có 3 loại thuốc được chấp nhận dùng điều trị nhiễm Herpes là: aciclovir, valaciclovir và famciclovir. Tùy giai đoạn bệnh mà liều lượng và số ngày dùng thuốc sẽ khác nhau.
Ngoài ra, thuốc bôi acyclovir dạng ống 5g có hoạt tính chống HSV gây bệnh ở người. Cần bôi thuốc càng sớm càng tốt khi bắt đầu có các triệu chứng báo hiệu hoặc khi xuất hiện các thương tổn đầu tiên. Không bôi thuốc vào niêm mạc mắt.
Dùng toàn thân: acyclovir; valaciclovir; famciclovir, isopreinosine. Nếu có bội nhiễm (có sốt, xét nghiệm bạch cầu tăng, nhuộm soi dịch tiết có vi khuẩn...) thì uống hoặc tiêm kháng sinh kết hợp với thuốc kháng virut. Nếu tổn thương đau nhiều thì nên kết hợp với thuốc giảm đau.
Dùng tại chỗ: mỡ acyclovir 5% hoặc kem penciclovir 1% bôi 5 lần/ngày. Docosanol kem 10% bôi 5 lần/ngày cho đến khi lành đối với người lớn và trẻ em trên 12 tuổi.
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán Herpes sơ phát cần được cho thuốc uống càng sớm càng tốt và tư vấn về nguy cơ tái phát, cách làm giảm tái phát. Mục đích của trị liệu thuốc chống virut để điều trị hoặc làm giảm các triệu chứng; đề phòng các di chứng và HSV tái hoạt tính. Thầy thuốc không chỉ điều trị triệu chứng bệnh mà còn quan tâm đến những ảnh hưởng tâm lý.
Phòng ngừa lây nhiễm
Herpes rất dễ lây nhiễm qua đường tiếp xúc trực tiếp khi vẫn còn các sang thương, vì vậy, cần lưu ý những điều sau:
Không tiếp xúc trực tiếp vùng da đang tổn thương của mình vào người khác như: hôn hít, sờ, chạm, quan hệ tình dục...
Không dùng chung đồ dùng cá nhân như bàn chải đánh răng, khăn tắm, khăn lau mặt, ly uống nước, chén-đũa-muỗng, son môi, phấn trang điểm và “khăn ướp lạnh”...
Không sờ lên mắt. Không dùng nước miếng để làm ướt kính sát tròng.
Cẩn thận khi trang điểm và tẩy trang. Không nên cố gắng dùng cream hay phấn trang điểm để che đi những mụn rộp hay vết lở vì sẽ dễ bị bội nhiễm vi khuẩn.
Vết lở sẽ không còn gây lây nhiễm khi đã lành hoàn toàn và vùng da bị ảnh hưởng đã trở về bình thường.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Có nên ngừng dùng thuốc ở bệnh nhân tăng huyết áp?
Thứ Ba, tháng 1 12, 2016
sống khỏe
No comments
Tăng huyết áp là bệnh lý thường gặp trong cộng đồng và gia tăng theo tuổi, ở cả hai giới nam và nữ. Bệnh nhân tăng huyết áp thường phải sử dụng thuốc lâu dài, gần như cả đời. Có rất nhiều loại thuốc điều trị căn bệnh này trong đó thuốc hạ huyết áp chẹn kênh canxi đang được sử dụng rất rộng rãi. Tuy nhiên, gần đây có những thông tin về loại thuốc này có thể gây ung thư vú khiến nhiều người đang sử dụng thuốc này rất lo lắng.
Từ những công bố đáng chú ý
Người ta thường ví thuốc là con dao hai lưỡi, có thể giúp điều trị bệnh nhưng cũng có những tác dụng phụ ảnh hưởng đến người bệnh. Nghiên cứu của các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson ở Seattle mới được công bố trên tạp chí JAMA Internal Medicine vào ngày 5/8 vừa rồi cho thấy việc sử dụng thuốc chẹn kênh canxi (nifedipine, amlodipine, lacidipine...) kéo dài ở phụ nữ thời kỳ mãn kinh dẫn đến một nguy cơ cao hơn đáng kể mắc bệnh ung thư vú.
Cơ chế tác động của thuốc chẹn kênh canxi
|
Nghiên cứu được tiến hành trên phụ nữ từ 55 - 74 tuổi, 880 người trong số họ bị ung thư vú biểu mô thể ống xâm nhập, 1.027 người bị ung thư biểu mô tiểu thùy xâm nhập và 856 người không bị ung thư vú làm nhóm chứng. Cả ba nhóm đều có đặc điểm tương tự về tuổi tác, tiền sử tăng huyết áp, bệnh tim mạch và mỡ máu.
Tiến hành khai thác tiền sử bệnh tật; liều lượng, loại thuốc và quá trình điều trị thuốc của các nhóm đối tượng nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy rằng sử dụng thuốc chẹn kênh canxi trong vòng ít nhất 10 năm sẽ làm tăng gấp 2,4 lần nguy cơ mắc ung thư vú thể ống xâm nhập và 2,6 lần bị ung thư biểu mô tiểu thùy xâm nhập so với bệnh nhân không sử dụng thuốc này.
Điều này không thấy ở việc sử dụng thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn bêta hoặc chẹn thụ thể angiotensin II. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, sử dụng thuốc hạ huyết áp loại ức chế men chuyển trong vòng trên 10 năm sẽ làm giảm 30 - 40% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
Đây là một nghiên cứu thống kê, kết quả đề xuất có mối liên hệ giữa sử dụng thuốc chẹn kênh canxi kéo dài và ung thư vú nhưng chưa chứng minh được mối quan hệ nhân quả bằng các thử nghiệm lâm sàng. Các chuyên gia y tế vẫn không chắc chắn lý do tại sao thuốc chẹn kênh canxi có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Theo nghiên cứu này, một trong những lý do có thể là thuốc chẹn kênh canxi cản trở quá trình chết tế bào theo chương trình.
Phát hiện này hết sức quan trọng và có ý nghĩa với sức khỏe cộng đồng vì hiện có nhiều người dùng thuốc để kiểm soát huyết áp. Tuy nhiên cần nhiều nghiên cứu để xác định xem có bất kỳ sự khác biệt về nguy cơ giữa các thuốc chẹn kênh canxi tác dụng ngắn, tác dụng kéo dài và liệu thời gian sử dụng thuốc có ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh ung thư vú hay không. Cần thêm các nghiên cứu bằng các thử nghiệm lâm sàng để khẳng định chắc chắn thuốc chẹn kênh canxi là tác nhân gây ung thư vú, cũng như có các bằng chứng về cơ chế gây ung thư nếu có.
Đến lời khuyên hữu ích
Các nhà khoa học cũng khuyến cáo rằng, trong lúc chưa có các bằng chứng cụ thể nêu trên, mọi người không nên ngừng sử dụng thuốc chẹn kênh canxi một cách hoàn toàn. Chẹn kênh canxi, dựa trên cơ chế làm chậm sự vận chuyển canxi vào trong tế bào, giúp làm giãn mạch máu, làm giảm lực co bóp cơ tim và một số thuốc có tác dụng làm chậm nhịp tim.
Nên cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ, vì bệnh lý tim mạch cùng các biến chứng tim mạch cũng nguy hiểm và cần được kiểm soát chặt chẽ. Có một số bệnh nhân không đáp ứng với bất cứ loại thuốc hạ huyết áp nào và chỉ đáp ứng tốt với thuốc chẹn kênh canxi.
Các bác sĩ nên kiểm tra kỹ tình trạng toàn thân của bệnh nhân, liệu bệnh nhân có đáp ứng với thuốc điều trị đó hay không, trước khi chỉ định sử dụng thuốc. Nếu bệnh nhân đang sử dụng thuốc chẹn kênh canxi cần theo dõi phát hiện sớm các biến chứng, đặc biệt ung thư vú ở bệnh nhân nữ thời kỳ mãn kinh.
Nên cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ, vì bệnh lý tim mạch cùng các biến chứng tim mạch cũng nguy hiểm và cần được kiểm soát chặt chẽ. Có một số bệnh nhân không đáp ứng với bất cứ loại thuốc hạ huyết áp nào và chỉ đáp ứng tốt với thuốc chẹn kênh canxi.
Các bác sĩ nên kiểm tra kỹ tình trạng toàn thân của bệnh nhân, liệu bệnh nhân có đáp ứng với thuốc điều trị đó hay không, trước khi chỉ định sử dụng thuốc. Nếu bệnh nhân đang sử dụng thuốc chẹn kênh canxi cần theo dõi phát hiện sớm các biến chứng, đặc biệt ung thư vú ở bệnh nhân nữ thời kỳ mãn kinh.
Theo ThS.BS Phạm Thị Mai Hương - Sức khỏe và Đời sống
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Những loại thuốc tuyệt đối không dùng khi lái xe
Thứ Ba, tháng 1 12, 2016
sống khỏe
No comments
Tốt hơn, để đảm bảo sức khỏe, bạn hãy tham khảo ý kiến bác sỹ trước khi dùng thuốc để biết được tác dụng phụ và tránh sai lầm khi dùng thuốc. Nếu như hiểu rõ tính chất của thuốc thì mà vẫn cố ngồi sau vô lăng thì thật là tai hại.
Thuốc giảm đau. Loại thuốc này giống như thuốc phiện và codeine, gây buồn ngủ, chóng mặt, hưng phấn và mất phương hướng hàng giờ sau khi uống
Tuy nhiên, trên nhãn của từng loại thuốc thường có hướng dẫn sử dụng để giúp dùng đúng và an toàn. Nếu người dùng không đọc, bỏ qua những thông tin này thì nó có thể gây ra những rủi ro nghiêm trọng khi bạn lái xe.
Thuốc kháng histamine. Nếu bạn đang dùng thuốc cảm lạnh hoặc ho hay dị ứng thì có thể thành phần trong các loại thuốc này sẽ kéo theo những cơn buồn ngủ. Ngoài ra, chúng gây phản ứng hóa học làm cho cơ thể giảm tiết nước mắt gây tình trạng mắt bạn mờ đi sau khi uống.
Thuốc chống trầm cảm. Một số thuốc chống trầm cảm như Trazodone, Nefazodone và tricyclics có thể làm bạn buồn ngủ và phản ứng chậm chạp. Chỉ chậm hai hoặc ba giây phanh gấp cũng sẽ gây nguy hiểm cho cả người lái và người đi đường.
Tuy nhiên, không phải như vậy có nghĩa là bạn phải kiêng hoàn toàn thuốc. Để chống lại những cơn buồn ngủ, bạn có thể dùng thuốc vào ban đêm.
Thuốc hạ huyết áp. Có thể gây hiệu ứng bơ phờ, mệt mỏi. Nếu bạn đang dùng thuốc để kiểm soát huyết áp thì hệ thần kinh khi gặp thuốc sẽ bị tác động tạo nên hưng phấn quá đà. Điều này gây ra sự mất kiểm soát nếu gặp tình huống bất ngờ khi đang điều khiển vô lăng.
Thuốc hay nước tăng lực. Đừng tưởng rằng, những loại tăng lực sẽ làm cho cơ thể tỉnh táo. Sự thực là chúng làm cho cơ thể hưng phấn hơn mức bình thường, vì vậy bạn dễ mất quyền kiểm soát vào những chi tiết nhỏ bất ngờ xảy ra.
Nước tăng lực cũng chứa một lượng cồn nhỏ, dẫu nó không thể dẫn đến những cơn say nhưng lại mang lại ảnh hưởng không hề nhỏ khi cầm lái.
Các loại thuốc ngủ, an thần. Mọi người thường nghĩ rằng những loại thuốc này giúp ổn định tinh thần nhưng không ngờ đến chúng lại gây ra một số tác dụng phụ như làm cho cơ thể lười phản ứng và giảm khả năng phán đoán vấn đề.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016
Thận trọng khi dùng thuốc nhỏ tai
Chủ Nhật, tháng 1 03, 2016
sống khỏe
No comments
Phần lớn thuốc nhỏ tai được dùng khi viêm tai màng nhĩ còn nguyên vẹn, nhưng khi màng nhĩ bị tổn thương (có lỗ thủng hoặc vết rách) việc dùng thuốc lại là điều cần phải được cân nhắc kỹ.
Ảnh minh họa - nguồn internet
Tai được chia là 3 phần: tai ngoài, tai giữa và tai trong. Tai trong là nơi chứa các tế bào thần kinh tiền đình và tế bào thần kinh thính giác. Màng nhĩ ngăn cách giữa tai ngoài và tai giữa. Ngoài việc tham gia vào quá trình thu nhận âm thanh nó còn là một tấm màn bảo vệ, hạn chế các thuốc dùng ở tai ngoài thấm vào tai giữa và tai trong.
Chính vì vậy, phần lớn các thuốc nhỏ tai tiền đình được dùng trong các trường hợp viêm tai màng nhĩ còn nguyên vẹn, nhưng khi màng nhĩ bị tổn thương (có lỗ thủng hoặc vết rách) thì việc dùng thuốc nhỏ tai như thế nào lại là điều cần phải được cân nhắc kỹ.
Khi bị đau tai, chảy mủ tai, theo thói quen nhiều người thường tự mua thuốc mà không được các bác sĩ chỉ định. Một số trường hợp sau khi nhỏ tai khoảng một vài tuần, người bệnh thấy tai nghe kém hẳn đi. Và không hề biết nguyên nhân do đâu.
Thực tế, lúc này bệnh nhân đã mắc bệnh điếc tiếp nhận nghi do dùng thuốc nhỏ tai không đúng. Trong điếc tiếp nhận (điếc tai trong) thương tổn có thể khu trú ở mê nhĩ, dây 7, thần kinh trung ương. Tổn thương mê nhĩ có thể do viêm nhiễm (giang mai, thương hàn, quai bị, cúm...) hoặc do chất độc như rượu, thuốc lá, quinin, natri salicilat, streptomycin...
Có những loại thuốc gây tổn thương tế bào thần kinh, tiền đình hoặc thính giác, nhất là các thuốc kháng sinh dòng aminoglycosid như streptomycin, gentamicin, neomycin...
Khi những thuốc này thấm vào thành mạch và đi tới tai trong sẽ gây tổn thương không hồi phục các tế bào thần kinh hoặc tiền đình. Các tế bào thần kinh thính giác bị tổn thương do nhiễm độc thuốc sẽ gây ra điếc tiếp nhận (người bệnh thường phàn nàn là bị nghe kém). Với loại điếc này ngày nay y học chưa có khả năng điều trị.
Trong viêm ống tai ngoài, hiện nay có một số loại thuốc dùng rất tốt như polydexa, dicortinapt..., nhưng lại chống chỉ định tuyệt đối trong viêm tai có thủng màng nhĩ, vì trong thành phần của thuốc có neomycin.
Trong trường hợp viêm tai có thủng màng nhĩ người ta thường dùng một số thuốc như effexin, ottofa, chloramphenicol (0,4%), cortiphenicol...
Điều quan trọng với người bệnh khi có những dấu hiệu của viêm tai (như đau tai,chảy mủ tai) là phải dùng ngay thuốc điều trị để ngăn chặn bệnh tiến triển nặng hơn, đọc kỹ hướng dẫn sử dụng thuốc trước khi quyết định dùng bất kỳ một loại thuốc nhỏ tai nào.
Và tốt nhất là, hãy tới bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng để được khám và chỉ định cách điều trị nhằm tránh dẫn đến nghe kém đáng tiếc xảy ra.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317