Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016

Cách dùng thuốc trị mũi họng dạng xịt

Hiện nay trên thị trường các thuốc trị bệnh ở mũi họng ngoài dạng uống, dạng tiêm còn có thuốc ở dạng xịt. Một số thuốc thường gặp như thuốc làm co mạch (làm thông mũi khi bị ngạt mũi), thuốc chứa corticoid trị viêm mũi, viêm xoang... 
Các thuốc ở dạng phun mù này được dùng khá phổ biến. Tuy nhiên, người bệnh cần phải biết cách dùng đúng mới đạt hiệu quả điều trị để tránh hoặc hạn chế các tai biến do thuốc gây ra.
Bình xịt định liều
Nguyên tắc chung khi dùng các loại thuốc ở dạng này là khi bấm nút, thuốc sẽ được phun ra dưới dạng các hạt thuốc nhỏ li ti. Các hạt thuốc này sẽ vào sâu được trong hốc mũi, các xoang, đường hô hấp dưới...
Cách dùng: Bấm nút xịt để luồng thuốc phun ra, khi hít vào  thở đều chừng 30 giây sau đó xịt lần thứ hai (nếu cần). Có hai loại bình phun (xịt): loại có van định liều và loại phun liên tục.
Với loại bình có van định liều, khi bấm nút mở van thuốc được đẩy ra với một liều lượng xác định và số lần ấn nút  được tính theo liều lượng cần điều trị. Đối với loại bình này thường là chứa thuốc corticoid trị các bệnh viêm mũi, viêm xoang... 
Thuốc được dùng theo chỉ định của bác sĩ. Người bệnh cần tuân thủ tuyệt đối về liều lượng, số lần dùng trong ngày và thời gian dùng (liệu trình điều trị). Nói chung đối với loại thuốc này không nên xịt nhiều lần trong ngày. 
Trường hợp phải xịt trong thời gian dài, liên tục cần phải theo dõi, cân nhắc tới tác động toàn thân của corticoid như khi uống hoặc tiêm. Bởi corticoid có nhiều tác dụng phụ nguy hiểm như: gây tăng huyết áp, gây giữ nước, muối, gây béo giả, đái tháo đường, loãng xương... nhất là đối với người có tiền sử các bệnh trên. 
Với các thuốc xịt gây co mạch không nên xịt liên tiếp nhiều lần và dùng lâu dài vì có thể gây viêm mũi do thuốc, việc chữa trị sẽ rất khó khăn.
Đối với loại bình không có van định liều khi bấm nút mở van thuốc được phun ra liên tục và chỉ ngừng khi ta bỏ tay, nút bấm sẽ trở về vị trí cũ và van đóng lại. Tuy nhiên không nên xịt liền 4 cái và mỗi ngày chỉ xịt chỉ nên từ 1- 4 lần.
Trường hợp trong khi xịt thuốc gây sặc, ho hoặc hắt hơi, người bệnh nên ngừng vài phút rồi mới xịt tiếp. Để thuốc đạt hiệu quả cao, trước khi xịt nên súc họng hay xì và hút sạch mũi để thuốc tới được niêm mạc.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Cẩn trọng khi dùng thuốc điều trị tăng huyết áp

Một mục tiêu của việc điều trị cao huyết áp, trong đó có dùng thuốc, là đưa huyết áp về dưới 130/85mmHg, đối với người bệnh tuổi trung niên hoặc có bệnh đái tháo đường; hoặc đưa huyết áp về dưới 140/90mmHg ở người từ 60 tuổi trở lên.
Theo Tổ chức Y Tế thế giới (WHO), số huyết áp tốt nhất là 120/80mmHg, số 120 là số huyết áp trên và 80 là số dưới. Bị cao huyết áp khi 2 số trên dưới cao hơn 140/90 mmHg.
6 nhóm thuốc thường dùng để điều trị tăng huyết áp
Nhóm thuốc lợi tiểu:
Gồm có hydroclorothiazid, indapamid, furosemid, sprironolacton, amilorid, triamteren… Cơ chế của thuốc là làm giảm sự ứ nước trong cơ thể, tức làm giảm sức cản của mạch ngoại vi đưa đến làm hạ huyết áp. Dùng đơn độc khi bị cao huyết áp nhẹ, dùng phối hợp với thuốc khác khi bệnh cao huyếp áp nặng thêm.
Nhóm thuốc tác động lên thần kinh trung ương:
Gồm có reserpin, methyldopa, clonidin… Cơ chế của thuốc là hoạt hóa một số tế bào thần kinh gây hạ huyết áp. Hiện nay ít dùng do tác dụng phụ gây trầm cảm, khi ngừng thuốc đột ngột sẽ làm tăng vọt huyết áp.
Nhóm thuốc chẹn beta:
Gồm có propranolol, pindolol, nadolol, timolol, metoprolol, atenolol… Cơ chế của thuốc là ức chế thụ thể beta-giao cảm ở tim, mạch ngoại vi, do đó làm chậm nhịp tim và hạ huyết áp. Thuốc dùng thuốc cho bệnh nhân có kèm đau thắt ngực hoặc nhức nửa đầu. Chống chỉ định đối với người có kèm hen suyễn, suy tim, nhịp tim chậm.
Nhóm thuốc đối kháng canxi:
Gồm có nifedipin, nicardipin, amlodipin, felidipin, isradipin, verapamil, diltiazem… Cơ chế của thuốc là chặn dòng ion canxi không cho đi vào tế bào cơ trơn của các mạch máu gây giãn mạch và từ đó làm hạ huyết áp. Dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt ngực, hiệu quả đối với bệnh nhân cao tuổi, không ảnh hưởng đến chuyển hóa đường, mỡ trong cơ thể.
Người bị huyết áp cao không tự ý ngưng thuốc
Người bị huyết áp cao không tự ý ngưng thuốc
Nhóm thuốc ức chế men chuyển:
Gồm có captopril, enalapril, benazepril, lisinopril…, cơ chế của thuốc là ức chế một enzyme có tên là men chuyển angiotensin (angiotensin converting enzyme, viết tắt ACE). Chính nhờ men chuyển angiotensic xúc tác mà chất sinh học angiotensin 
I biến thành angiotensin II và chính chất sau này gây co thắt mạch làm tăng huyết áp (THA). Nếu men chuyển ACE bị thuốc ức chế tức làm cho không hoạt động được sẽ không sinh ra angiotensin II, sẽ có hiện tượng giãn mạch và làm hạ huyết áp. Là thuốc được chọn khi người bị kèm hen suyễn (chống chỉ định với chẹn beta), đái tháo đường (lợi tiểu, chẹn beta). Tác dụng phụ: làm tăng kali huyết và gây ho khan.
Nhóm thuốc đối kháng thụ thể angiotensin II
Thuốc đầu tiên được dùng là losartan, sau đó là các thuốc irbesartan, candesartan, valsartan. Nhóm thuốc mới này có tác dụng hạ huyết áp, đưa huyết áp về trị số bình thường tương đương với các thuốc nhóm đối kháng calci, chẹn beta, ức chế men chuyển. Đặc biệt, tác dụng hạ huyết áp của chúng tốt hơn nếu phối hợp với thuốc lợi tiểu thiazid. 
Lợi điểm của thuốc nhóm này là do không trực tiếp ức chế men chuyển nên gần như không gây ho khan như nhóm ức chế men chuyển hay không gây phù như thuốc đối kháng canxi. Tác dụng phụ có thể gặp là gây chóng mặt, hoặc rất hiếm là gây tiêu chảy. Chống chỉ định của thuốc là không dùng cho phụ nữ có thai hoặc người bị dị ứng với thuốc.
Dùng thuốc điều trị cao huyết áp phải có chỉ định của bác sĩ
Các thuốc thuộc các nhóm kể ở trên hiện nay đều có ở nước ta. Để được điều trị bằng thuốc, người bệnh cần đi khám và được bác sĩ điều trị chỉ định, hướng dẫn sử dụng thuốc. Bởi vì bác sĩ nắm vững tính năng các thuốc, khám bệnh trực tiếp sẽ lựa chọn thuốc thích hợp và hướng dẫn thực hiện các nguyên tắc dùng thuốc. 
Sự lựa chọn thuốc trị tăng huyết áp sẽ tùy thuộc vào: yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch, có sự tổn thương các cơ quan (như: suy thận, suy tim, dày thất trái…), có kèm bị bệnh đái tháo đường… Đặc biệt, bác sĩ sẽ giúp tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Trước hết, dùng liều thấp ban đầu và tăng liều dần dần với chỉ một loại thuốc.
- Nếu không hiệu quả, mới kết hợp 2 thuốc.
- Nếu thuốc được chọn đầu tiên có hiệu quả kém và có nhiều tác dụng phụ thì đổi nhóm thuốc khác, không cần tăng liều hoặc kết hợp thêm thuốc thứ 2.
- Nên dùng loại thuốc cho tác dụng kéo dài, uống một lần trong ngày.
Người bệnh có nên tự ý đổi thuốc?
Như đã trình bày ở phần trên, thuốc trị THA có nhiều loại và vấn đề sử dụng thuốc không đơn giản mà khá phức tạp. Chỉ có bác sĩ điều trị mới là người có thẩm quyền chỉ định, hướng dẫn dùng thuốc an toàn và hiệu quả, đặc biệt, bác sĩ sẽ là người đưa ra quyết định có nên thay thuốc điều trị bấy lâu nay bằng một thuốc mới hay không. 
Mọi sự thay đổi về dùng thuốc phải hỏi ý kiến của bác sĩ và thay đổi như thế nào là thuộc thẩm quyền của bác sĩ điều trị. Bệnh nhân không được tự ý thay đổi thuốc vì việc làm này rất nguy hiểm, dùng không đúng sẽ bị độc hại do thuốc hoặc bệnh THA nặng hơn đến mức nguy hiểm.
Có nên ngưng thuốc khi huyết áp không tăng?
Khi đã xác định là bị bệnh THA thì phải dùng thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ. Không vì thấy huyết áp không tăng thì ngưng thuốc, ngưng thuốc như thế có khi là nguy hiểm vì có nhiều thuốc nếu đang dùng mà lại ngưng đột ngột sẽ làm cho huyết áp tăng vọt. 
Hoặc có thuốc nếu uống theo kiểu huyết áp tăng thì mới uống, uống rồi ngưng và ngưng rồi uống thì thuốc đó sẽ đến lúc không còn có tác dụng như ban đầu. Phải uống thuốc đều đặn và theo dõi huyết áp thường xuyên, khi có gì bất thường (có thể bị tác dụng phụ có hại của thuốc) thì phải đi tái khám bác sĩ ngay.
Phải uống thuốc đều đặn và theo dõi huyết áp thường xuyên, khi có gì bất thường (có thể bị tác dụng phụ có hại của thuốc) thì phải đi tái khám bác sĩ ngay.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc trị táo bón: Dùng sai có hại!

Nên dùng thuốc trị táo bón ngắn hạn, dùng sau 7 - 10 ngày nếu không hiệu quả phải đi khám bệnh để bác sĩ chẩn đoán nguyên nhân.
Nguyên nhân gây ra táo bón
Rối loạn chức năng vận động đại tràng do: sai lầm trong ăn uống (ăn thiếu chất xơ sợi, uống quá ít nước), sinh hoạt tĩnh tại ít vận động (làm nghề ngồi nhiều: thợ may, thư ký đánh máy), thói quen đại tiện xấu (thường xuyên nín nhịn khi mót đi tiêu) làm mất phản xạ đại tiện.
- Rối loạn chuyển hóa và nội tiết (tăng canxi máu, nhược giáp).
- Tổn thương thực thể ở đại tràng, trực tràng, hậu môn gây trở ngại đường đào thải phân.
- Do thuốc: thuốc chứa opium (thuốc phiện), thuốc kháng axít trị viêm loét dạ dày - tá tràng, thuốc chống trầm cảm… có thể gây táo bón.
Điều trị
Biện pháp không dùng thuốc:
Người bị táo bón trước khi hoặc song song với sử dụng thuốc (thậm chí để phòng ngừa táo bón) nên áp dụng các biện pháp sau:
- Ăn nhiều chất xơ sợi hơn (rau cải, hoa quả), uống nhiều nước (1,5 - 2 lít nước hàng ngày, thêm nước cam, nước chanh).
- Tái huấn luyện phản xạ đại tiện (đi đại tiện đúng giờ cố định).
- Chống nếp sinh hoạt tĩnh tại (nên vận động, thể dục thể thao).
Thuốc trị táo bón:
Có thể chia làm 5 loại (trong một biệt dược thường kết hợp nhiều loại): Thuốc trị táo bón tạo khối (như methyl cellulose) khi uống không hấp thu, có tính hút nước và trương nở làm tăng khối lượng phân. Thuốc trị táo bón tăng thẩm thấu (lactulose, sorbitol, forlax) giúp giữ chất lỏng trong ruột làm dễ đi tiêu.Thuốc làm trơn phân (như dầu paraffin). Thuốc làm mềm phân (ống bơm chứa glycerol: Rectiofar) bơm vào hậu môn. Thuốc nhuận tràng kích thích(séné, rhubarbe, aloès) kích thích mạnh ruột gây xổ. Tránh dùng kéo dài
Lưu ý khi dùng thuốc trị táo bón
Nên hết sức tránh dùng thuốc táo bón, trừ trường hợp bị táo bón kéo dài hay làm nặng thêm một bệnh khác (tăng huyết áp, trĩ). Trước hết, nên dùng thuốc loại ít tác dụng phụ (thuốc tạo khối, thẩm thấu, bơm hậu môn), nếu không cải thiện mới dùng thuốc trị táo bón loại kích thích là loại cho tác dụng mạnh nhưng có nhiều tác dụng phụ có hại (làm mất trương lực ruột, mất kali).
Hiện có tình trạng lạm dụng thuốc trị táo bón loại kích thích đưa đến hai hậu quả: bị phụ thuốc và bị các tác dụng phụ của thuốc (có bệnh gọi là bệnh do thuốc nhuận trường giống như bị “hội chứng đại tràng bị kích thích”).
Không nên để bị táo bón mà phải phòng ngừa bằng các biện pháp không dùng thuốc kể ở trên.
Có một số trường hợp chưa bị táo bón vẫn phải dùng thuốc (có người bệnh được bác sĩ chỉ định thuốc trị táo bón nhưng không dùng do nghĩ rằng mình đâu bị táo bón), đó là các trường hợp bị bệnh đòi hỏi không được gắng sức: đau thắt ngực hoặc đã bị nhồi máu cơ tim, đã bị đột quỵ, đang bị bệnh phổi tắt nghẽn mạn tính... Những trường hợp này nếu đi tiêu phải rặn có thể bị tai biến do bệnh có sẵn.
Hiện nay có một số chị em làm đẹp giảm cân bằng cách uống các chế phẩm chứa các loại dược thảo gây nhuận tràng mạnh gọi là xổ. Điều rất rõ ràng là khi dùng thuốc hay chế phẩm có tác dụng làm cho xổ đến độ gây tiêu chảy trong thời gian đến mấy ngày, trong thời gian này ăn không được lại thêm tiêu tốn sức lực chạy vào cầu tiêu liên tục thì sẽ giảm cân đương nhiên. Tuy nhiên, cách làm đẹp như thế chắc chắn ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe.
Nên hết sức tránh dùng thuốc táo bón trừ trường hợp bị táo bón kéo dài.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc đặt dưới lưỡi và cách dùng

Thực tế, có loại bào chế riêng như viên chuyên đặt dưới lưỡi (subligual tablets), viên ngậm (oral release tablets) nhưng cũng có loại không có cách bào chế riêng nhưng vẫn đặt được dưới lưỡi, nếu đạt được các yêu cầu trên. Ví dụ: viên nang hay viên dập nifedipin vốn là dạng thuốc uống, nhưng khi cần thiết có thể bẻ viên dập hay tháo bỏ viên nang ra đặt vào dưới lưỡi.
Ưu điểm
Thuốc đặt dưới lưỡi và cách dùng
Thứ nhất: dưới lưỡi có hai tĩnh mạch lớn, trong miệng có nhiều mạch máu nhỏ. Đặt thuốc vào dưới lưỡi, thuốc sẽ ngấm vào hai tĩnh mạch lớn, hoặc ngậm thuốc ở miệng thuốc sẽ đi vào các mạch máu nhỏ và có thể cả tĩnh mạch lớn, rồi vào thẳng hệ tuần hoàn mà không bị phá huỷ bởi dịch vị hay enzym trong đường tiêu hoá, không bị gan chuyển hoá như khi uống. Các viên alphachymotrypsin, progesteron, mehtyltestosteron... thường có cách dùng này.
Thứ hai: thuốc đi thẳng vào hệ thống tuần hoàn nên có hiệu quả nhanh, không kém như khi tiêm. Ví dụ: trong cơn tăng huyết áp cấp tính, nếu không hạ cấp thời huyết áp xuống (hoặc trong 1giờ, hoặc trong 24 giờ tuỳ theo cơn cấp) thì các cơ quan đích sẽ bị tổn thương, có thể dẫn tới tử vong. 
Nhưng nếu dùng viên catopril 50 mg đặt dưới lưỡi, chỉ trong vòng 15 phút huyết áp giảm được 60mmHg. Như vậy bằng cách dùng này, có thể đưa huyết áp từ mức cao nguy hiểm (trên 200mmHg) xuống mức chấp nhận được (150-160 mmHg), tránh được các biến cố. 
Tương tự, trong bệnh xơ vữa động mạch vành, có lúc máu không đi đến và cung cấp đủ ôxy cho cơ tim, dẫn đến sự thiếu máu cục bộ, gây chứng đau thắt ngực. Đặt viên nitroglycerin vào dưới lưỡi, sẽ làm giãn ngay mạch, thư giãn hệ mạch chủ yếu vùng tĩnh mạch, làm giảm máu trở về tĩnh mạch, kéo theo sự giảm áp suất trong tim và sự tái phân bố luồng mạch vành vào các lớp dưới (nhạy cảm với sự thiếu máu cục bộ) trong tim; mức tiêu thụ oxy của cơ tim do đó giảm đi, lập lại sự cân bằng cung-cầu ôxy, huỷ chứng đau thắt ngực, tránh được các biến cố nhồi máu cơ tim, đột quỵ.
Một số thuốc có tác dụng tại chỗ như viên nystatin dùng chữa nấm miệng, viên metronidazol chữa viêm lợi, viên erythromycin chữa viêm họng... khi dùng không đặt thuốc dưới lưỡi cho thuốc ngấm vào tĩnh mạch lớn, mà chỉ cho thuốc vào miệng (ngậm lại, không nhai, không nuốt) cho thuốc tự rã ra có tác dụng kéo dài tại đó. 
Nhiều tài liệu không xếp các loại thuốc này vào thuốc đặt dưới lưỡi. Có loại thuốc không thể đặt dưới lưỡi như loại viên giải phóng hoạt chất chậm hay các viên sủi bọt, viên có mùi vị khó chịu, gây kích ứng. Nhiều tài liệu coi chúng là các loại thuốc cấm đặt dưới lưỡi.
Như vậy, trong phạm vi hẹp, nói chính xác, thuốc đặt dưới lưỡi là thuốc dùng đặt vào dưới vòm lưỡi nhằm tránh các tác dụng bất lợi khi dùng uống, nhằm có tác dụng nhanh.
Cách dùng
Co lưỡi lên vòm miệng trên. Đặt thuốc vào dưới, rồi hạ lưỡi xuống. Nếu viên thuốc to, khô, khó rã thì có thể thấm nước trước, hoặc ngậm một ít nước đun sôi để nguội, đợi một lúc viên thuốc ngấm đủ nước (nhưng không bị rã ra) thì nuốt nước đi, rồi cứ để viên thuốc tự rã ra dưới lưỡi. Nếu làm không khéo, làm ẩm thuốc quá nhiều hay ngậm quá nhiều nước, để quá lâu, thuốc bị rã ra khi nuốt sẽ nuốt cả thuốc vào ruột nên không đạt yêu cầu.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Có thuốc làm đẹp da?

Trong tiết trời lạnh và khô hanh của mùa đông, làn da chịu tác động của thời tiết nhiều nhất. Khi da có những dấu hiệu khô, nứt nẻ, nổi mụn hay thâm sạm đi cũng là lúc chị em đi tìm các phương pháp làm đẹp để cải thiện tình hình. Xu hướng dùng dược mỹ phẩm làm đẹp da với dạng thuốc uống gia tăng trong những năm gần đây hứa hẹn nhiều hy vọng. Song thực tế thế nào?
Da xấu vì sao?
Da xấu là do nhiều nguyên nhân. Các yếu tố từ môi trường như: khói, bụi, ô nhiễm, các chất kích thích (rượu bia, thuốc lá...), tình trạng stress, thiếu ngủ... Sau tuổi 30, lượng nội tiết tố estrogen suy giảm, tổ chức collagen dưới da có tác dụng kết nối các tế bào, tạo độ đàn hồi của da, cũng chùng và nhão dần. Da trở nên mất tính đàn hồi, chùng nhão và nếp nhăn sâu xuất hiện.
​Làn da đẹp phụ thuộc nhiều yếu tố: di truyền, tuổi tác... chứ không phải cứ uống thuốc là có làn da đẹp
Da bị thiếu nước hay cơ thể không được cung cấp đủ chất dinh dưỡng cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn tới một làn da không đẹp. Đồng thời, vệ sinh da không tốt cũng sẽ khiến da bạn mọc nhiều mụn hơn.
Khi da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, đặc biệt là những khoảng thời gian trong ngày mà cường độ tia cực tím cao như khoảng từ 10 - 15 giờ hàng ngày. Khi đó, lượng amintyrosine tăng lên và để lại những khoảng da có sắc tố cao. Da sẽ dần xuất hiện những khoảng bị sần và sạm lại và xấu đi...
Dùng thuốc làm đẹp da - Thực tế thế nào?
Khi da xấu đi, bạn tìm mọi cách để làn da đẹp trở lại và băn khoăn với câu hỏi ăn gì hay uống gì để đẹp da. Những viên thuốc chứa chất dinh dưỡng làm đẹp làn da đã được lựa chọn nhiều. Mục đích của việc dùng thuốc là: tăng độ săn chắc giúp da trở nên mềm mại, mịn màng (những chất có chứa chiết xuất từ sinh vật biển hoặc collagen). 
Duy trì độ ẩm, ngăn ngừa mất nước và cung cấp độ ẩm cần thiết cho da (thuốc có chứa các chất như hyaluronic, ceramide và amino acid). Các thuốc chuyển hóa tế bào hắc tố thành nhạt hơn giúp da trở nên trắng sáng hơn. 
Thành phần của thuốc giúp cho làn da có thể chống chọi được với ánh nắng mặt trời, giúp cân bằng hormon trong cơ thể nhờ đó mà hạn chế những thay đổi nội tiết khiến cho da nổi mụn, tiết quá nhiều chất nhờn hay ửng đỏ...
Thành phần chính của các loại thuốc uống làm đẹp da thường là collagen hoặc các loại vitamin C, A, E... được giới thiệu chiết xuất từ động thực vật tự nhiên như: da heo, cá, sữa ong chúa... Với cơ chế tác động từ bên trong, ức chế tổng hợp melanin giúp ngăn chặn nám, làm trắng da, đồng thời giúp da kháng khuẩn, tạo dinh dưỡng và giữ ẩm, làm cho da đàn hồi và khỏe mạnh:
Vitamin E: có vai trò chống ôxy hóa bằng cách ngăn ngừa hay làm gián đoạn những phản ứng tạo ra các gốc tự do. Vitamin E có thể giúp làm da mềm mại, căng mịn hơn do đã làm giảm tiến trình lão hóa của da.
Vitamin C: ngăn chặn quá trình sản xuất các gốc tự do, bảo vệ acid béo không no của màng tế bào, đồng thời giúp tái sử dụng vitamin E (chất chống ôxy hóa chính của màng tế bào).
Vitamin A: thường tồn tại dưới 2 dạng retinol và beta-caroten (tiền vitamin A). Beta-caroten có những đặc tính chống ôxy hóa và khả năng trung hòa các gốc tự do rất hiệu quả.
Panothenic acid: hay còn gọi là vitamin B5 cần thiết cho sự mạnh khỏe của làn da, giúp các cơ quan biểu bì tăng trưởng, phát triển và tái sinh các biểu mô.
Selenium: Có tác dụng chống lại tình trạng ôxy hóa của acid béo để thiết lập nên màng tế bào.
Thuốc bôi ngoài da: Để bảo vệ da chống lại các tác nhân từ môi trường, giảm các dấu hiệu của lão hóa da do ánh nắng, giúp xóa mờ nếp nhăn và những đốm thâm nám, đồng thời tăng độ căng mịn cho da, nên sử dụng các sản phẩm có chứa: chất chống ôxy hóa bao gồm vitamin A, C, E, beta - caroten và bioflavonoide. 
Thoa tại chỗ các chế phẩm của estrogen có thể cho tác dụng tích cực chống lão hóa da. AHA (acid alpha hydroxy - carboxyliques): là những hợp chất chiết xuất từ các sản phẩm của sữa, hay từ trái cây. Dùng thoa tại chỗ, AHA giúp giảm nhăn da, giảm thô ráp, giảm nám trong vòng nhiều tháng sau khi điều trị hàng ngày.
Lời khuyên cho người dùng thuốc
Thuốc làm đẹp cho da đa số đều là thuốc không kê đơn. Tuy được nhiều người gọi là thuốc nhưng thực tế đây chỉ là dạng thực phẩm bổ sung và cũng có những hạn chế nhất định. Các thành phần như collagen, vitamin, chất chống ôxy hóa... dù tốt nhưng muốn đưa vào cơ thể cũng cần có liều lượng, cách thức phù hợp với từng người. 
Mặt khác, những chất này khi uống vào đều phải qua quá trình hấp thụ, chuyển hóa và sẽ có tác động đến nhiều cơ quan khác chứ không chỉ tập trung tác động lên da như ta mong muốn. Uống nhiều thuốc đẹp da không hẳn đã tốt, nếu không muốn nói là có hại cho thận và gan. 
Thuốc đẹp da cũng là một loại thuốc bổ, mà quá nhiều thuốc bổ thì sẽ tăng lượng độc tố trong cơ thể. Ví dụ, uống quá nhiều vitamin A sẽ gây ra chứng rụng tóc; hay uống quá nhiều vitamin C sẽ ngăn ngừa cơ thể hấp thụ kẽm...
Thuốc uống có thể gây dị ứng. Nhiều người do không hợp với chiết xuất của sinh vật biển nên làn da đã bị phá hủy trầm trọng, khả năng gây dị ứng là rất lớn. Mặt khác, không phải cứ uống thuốc là có ngay làn da đẹp, vẫn còn những yếu tố khác ảnh hưởng trên da như di truyền, tuổi tác, lối sống, mức độ tiếp xúc ánh sáng mặt trời và các vấn đề về da đang có... 
Đừng để mình bị mê hoặc bởi những lời giới thiệu hấp dẫn khi muốn nhanh chóng có được một làn da lý tưởng. Không có loại thuốc nào có tác dụng thần kỳ đến vậy. Khi đã dùng thuốc thì phải sử dụng trong thời gian dài. Nếu đang sử dụng mà nghỉ một thời gian, làn da có thể sẽ trở nên lão hóa nhanh hơn.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Tránh nhầm lẫn khi dùng thuốc có tên gần giống nhau

Hai thuốc glycerin và glyceryl trinitrate là hai thuốc có công dụng hoàn toàn khác nhau nhưng tên thuốc gần giống nhau và người dùng dễ bị nhầm lẫn.

Tác dụng của thuốc
Glycerin (còn gọi là glycerol) là loại thuốc nhuận tràng thẩm thấu, có các đặc tính hút ẩm và làm trơn. Khi uống, glycerol làm tăng tính thẩm thấu huyết tương, làm cho nước thẩm thấu từ các khoang ngoài mạch máu đi vào huyết tương dùng trong điều trị táo bón. Thuốc còn có tác dụng kích thích đại tràng tại chỗ, gây trơn và làm mềm phân. 
Đối với trẻ sơ sinh dùng nhuận tràng để thúc đẩy bài tiết bilirubin bằng cách làm giảm tuần hoàn ruột - gan, giảm thời gian vận chuyển ở đường tiêu hóa và kích thích tống phân xu. Đối với glycerin là thuốc nhuận tràng nên cần phải được dùng thận trọng đối với người bị bệnh tim, thận hay gan vì thuốc làm tăng gánh tuần hoàn gây phù phổi cấp.
Không tự ý sử dụng thuốc mà cần có sự tư vấn của thầy thuốc, người có chuyên môn
Còn glyceryl trinitrate lại là thuốc giãn mạch được dùng để phòng và điều trị cơn đau thắt ngực; phối hợp với các thuốc khác để điều trị suy tim sung huyết. Tác dụng của thuốc là tác động chủ yếu trên hệ tĩnh mạch, với liều cao làm giãn mạch và làm giảm huyết áp nhất là huyết áp tâm thu, tuy không nhiều nhưng có thể gây phản xạ giao cảm làm mạch hơi nhanh và tăng sức co bóp cơ tim. Các nitrat còn có tác dụng ức chế kết tập tiểu cầu.
Một số lưu ý khi dùng
Khi dùng thuốc nhuận tràng glycerin, các tác dụng không mong muốn có thể xảy ra bao gồm buồn nôn, nôn, đau đầu, lú lẫn và mất định hướng. Trường hợp nặng có thể gây mất nước trầm trọng, loạn nhịp tim, hôn mê nguy hiểm đến tính mạng. Khi sử dụng tại chỗ hay ở trực tràng, thuốc có thể gây kích ứng. 
Để chữa táo bón qua đường trực tràng, mỗi lần dùng 1 liều đơn và không nên dùng thường xuyên, chỉ dùng khi cần thiết và thường không nên dùng quá 1 tuần. Thuốc nhuận tràng dùng trong thời gian dài phải có sự theo dõi của bác sĩ.
Đối với thuốc giãn mạch glyceryl trinitrate, các tác dụng phụ thường gặp gây giãn mạch ngoại vi làm da bừng đỏ nhất là ở ngực và mặt; giãn các mạch trong mắt dễ gây tăng tiết dịch và làm tăng nhãn áp; giãn các mạch trong não có thể gây tăng áp lực nội sọ và làm đau đầu. Hạ huyết áp thế đứng, choáng váng, chóng mặt hay xảy ra khi dùng thuốc cho những người bệnh có huyết áp đã thấp, người cao tuổi. Có một số trường hợp gặp triệu chứng nổi ban, viêm da tróc vảy, rối loạn tiêu hóa…
Để tránh nhầm lẫn giữa hai loại thuốc này người bệnh không được tự ý mách bảo nhau dùng thuốc, cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng, đặc biệt là tên thuốc, công dụng và cách dùng… của thuốc.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Sai lầm khi dùng thuốc có thể gây tử vong


Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong
Dùng thuốc giảm sốt quá nhiều. Thực tế là việc không dùng thuốc không đúng cách như lạm dụng thuốc khi đang sốt cũng gây ra nhiều vấn đề cho sức khỏe. Sốt là phản ứng tự nhiên của cơ thể và không hẳn đã có hại. Chỉ dùng khi sốt cao quá tránh những cơn động kinh hoặc nhiễm trùng.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-2
Dùng sai liều hay dùng quá nhiều. Người dùng thuốc thường vô tình dùng quá số lượng quy định, đặc biệt khi nói đến thuốc giảm đau acetaminophen dạng lỏng dành cho trẻ em.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-3
Để đảm bảo liều lượng không bị quá, hãy viết nhật ký thuốc dán trên cánh cửa phòng hoặc cửa tủ thuốc để những thành viên trong gia đình có thể cho bé uống chính xác
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-4
Dùng thuốc chống viêm chung với thuốc làm loãng máu. Đã có rất nhiều tranh cãi gần đây về nguy cơ tim và đột quỵ liên quan đến việc dùng chung 2 loại thuốc, xuất huyết tiêu hóa vẫn là hậu quả nghiêm trọng nhất. Nếu bạn muốn dùng thuốc giảm đau chống viêm thì nên chuyển sang OTC là lựa chọn tốt nhất.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-5
Dùng NSAIDS (thuốc giảm đau chống viêm) khi đang mang thai. NSAIDS sẽ xâm nhập qua nhau thai và can thiệp vào hệ thống lưu thông của thai nhi làm ảnh hưởng đến sự phát triển của tim, thận và các cơ quan khác.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-6
Dùng thuốc quá lâu sau khi bị thương. Khi bị bong gân hoặc căng cơ, cơ thể sẽ có phản ứng tức thời là viêm. Vì vậy mà dùng thuốc NSAIDS sớm có thể kiểm soát được cơn đau và sưng. Thế nhưng, bạn tiếp tục dùng nó kéo dài đến 2-3 ngày thì nó thực sự làm cho các mô chậm lành.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-7
Dùng thuốc giảm đau trước khi tập thể thao. Đau nhức là một cơ chế khá an toàn với những gì xảy ra trong cơ thể bạn. Nếu dùng thuốc giảm đau để dự phòng trước khi tập thể thao có thể làm tổn thương hệ thống miễn dịch hoặc làm trầm trọng thêm chấn thương hiện tại.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-8
Dùng thuốc chống viêm kèm thuốc chống trầm cảm. Một nghiên cứu năm 2015 cho thấy, việc kết hợp 2 loại thuốc này có nguy cơ chảy máu não. Nếu bạn đang dùng thuốc chống viêm, hãy nói chuyện với bác sỹ và xem có lựa chọn nào khác không.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-9
Dùng đồng thời NSAIDS và aspirin. Nếu bác sỹ đã kê đơn liều thấp aspirin và bạn cũng đang dùng NSAIDS giảm đau thì thực sự có thể nguy hiểm. Trong khi aspirin ngăn ngừa máu đông hình thành thì NSAIDS lại ngăn chặn tác dụng đó. Vì vậy mà nếu muốn dùng cả 2 loại thuốc thì bạn nên dùng aspirin vào buổi sáng và chờ 2-4 giờ mới dùng NSAIDS.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-10
Dùng thuốc giảm đau, chống viêm NSAIDS thường xuyên khi đang cố gắng thụ thai. Nghiên cứu cho thấy, loại thuốc này có thể ức chế sự rụng trứng. 75% phụ nữ tham gia nghiên cứu sau 10 ngày đã không rụng trứng đều theo chu kỳ của họ. Do NSAIDS ức chế giải phóng prostaglandin, là thành phần quan trọng để trứng rụng.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons