Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016

Có thuốc làm đẹp da?

Trong tiết trời lạnh và khô hanh của mùa đông, làn da chịu tác động của thời tiết nhiều nhất. Khi da có những dấu hiệu khô, nứt nẻ, nổi mụn hay thâm sạm đi cũng là lúc chị em đi tìm các phương pháp làm đẹp để cải thiện tình hình. Xu hướng dùng dược mỹ phẩm làm đẹp da với dạng thuốc uống gia tăng trong những năm gần đây hứa hẹn nhiều hy vọng. Song thực tế thế nào?
Da xấu vì sao?
Da xấu là do nhiều nguyên nhân. Các yếu tố từ môi trường như: khói, bụi, ô nhiễm, các chất kích thích (rượu bia, thuốc lá...), tình trạng stress, thiếu ngủ... Sau tuổi 30, lượng nội tiết tố estrogen suy giảm, tổ chức collagen dưới da có tác dụng kết nối các tế bào, tạo độ đàn hồi của da, cũng chùng và nhão dần. Da trở nên mất tính đàn hồi, chùng nhão và nếp nhăn sâu xuất hiện.
​Làn da đẹp phụ thuộc nhiều yếu tố: di truyền, tuổi tác... chứ không phải cứ uống thuốc là có làn da đẹp
Da bị thiếu nước hay cơ thể không được cung cấp đủ chất dinh dưỡng cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn tới một làn da không đẹp. Đồng thời, vệ sinh da không tốt cũng sẽ khiến da bạn mọc nhiều mụn hơn.
Khi da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, đặc biệt là những khoảng thời gian trong ngày mà cường độ tia cực tím cao như khoảng từ 10 - 15 giờ hàng ngày. Khi đó, lượng amintyrosine tăng lên và để lại những khoảng da có sắc tố cao. Da sẽ dần xuất hiện những khoảng bị sần và sạm lại và xấu đi...
Dùng thuốc làm đẹp da - Thực tế thế nào?
Khi da xấu đi, bạn tìm mọi cách để làn da đẹp trở lại và băn khoăn với câu hỏi ăn gì hay uống gì để đẹp da. Những viên thuốc chứa chất dinh dưỡng làm đẹp làn da đã được lựa chọn nhiều. Mục đích của việc dùng thuốc là: tăng độ săn chắc giúp da trở nên mềm mại, mịn màng (những chất có chứa chiết xuất từ sinh vật biển hoặc collagen). 
Duy trì độ ẩm, ngăn ngừa mất nước và cung cấp độ ẩm cần thiết cho da (thuốc có chứa các chất như hyaluronic, ceramide và amino acid). Các thuốc chuyển hóa tế bào hắc tố thành nhạt hơn giúp da trở nên trắng sáng hơn. 
Thành phần của thuốc giúp cho làn da có thể chống chọi được với ánh nắng mặt trời, giúp cân bằng hormon trong cơ thể nhờ đó mà hạn chế những thay đổi nội tiết khiến cho da nổi mụn, tiết quá nhiều chất nhờn hay ửng đỏ...
Thành phần chính của các loại thuốc uống làm đẹp da thường là collagen hoặc các loại vitamin C, A, E... được giới thiệu chiết xuất từ động thực vật tự nhiên như: da heo, cá, sữa ong chúa... Với cơ chế tác động từ bên trong, ức chế tổng hợp melanin giúp ngăn chặn nám, làm trắng da, đồng thời giúp da kháng khuẩn, tạo dinh dưỡng và giữ ẩm, làm cho da đàn hồi và khỏe mạnh:
Vitamin E: có vai trò chống ôxy hóa bằng cách ngăn ngừa hay làm gián đoạn những phản ứng tạo ra các gốc tự do. Vitamin E có thể giúp làm da mềm mại, căng mịn hơn do đã làm giảm tiến trình lão hóa của da.
Vitamin C: ngăn chặn quá trình sản xuất các gốc tự do, bảo vệ acid béo không no của màng tế bào, đồng thời giúp tái sử dụng vitamin E (chất chống ôxy hóa chính của màng tế bào).
Vitamin A: thường tồn tại dưới 2 dạng retinol và beta-caroten (tiền vitamin A). Beta-caroten có những đặc tính chống ôxy hóa và khả năng trung hòa các gốc tự do rất hiệu quả.
Panothenic acid: hay còn gọi là vitamin B5 cần thiết cho sự mạnh khỏe của làn da, giúp các cơ quan biểu bì tăng trưởng, phát triển và tái sinh các biểu mô.
Selenium: Có tác dụng chống lại tình trạng ôxy hóa của acid béo để thiết lập nên màng tế bào.
Thuốc bôi ngoài da: Để bảo vệ da chống lại các tác nhân từ môi trường, giảm các dấu hiệu của lão hóa da do ánh nắng, giúp xóa mờ nếp nhăn và những đốm thâm nám, đồng thời tăng độ căng mịn cho da, nên sử dụng các sản phẩm có chứa: chất chống ôxy hóa bao gồm vitamin A, C, E, beta - caroten và bioflavonoide. 
Thoa tại chỗ các chế phẩm của estrogen có thể cho tác dụng tích cực chống lão hóa da. AHA (acid alpha hydroxy - carboxyliques): là những hợp chất chiết xuất từ các sản phẩm của sữa, hay từ trái cây. Dùng thoa tại chỗ, AHA giúp giảm nhăn da, giảm thô ráp, giảm nám trong vòng nhiều tháng sau khi điều trị hàng ngày.
Lời khuyên cho người dùng thuốc
Thuốc làm đẹp cho da đa số đều là thuốc không kê đơn. Tuy được nhiều người gọi là thuốc nhưng thực tế đây chỉ là dạng thực phẩm bổ sung và cũng có những hạn chế nhất định. Các thành phần như collagen, vitamin, chất chống ôxy hóa... dù tốt nhưng muốn đưa vào cơ thể cũng cần có liều lượng, cách thức phù hợp với từng người. 
Mặt khác, những chất này khi uống vào đều phải qua quá trình hấp thụ, chuyển hóa và sẽ có tác động đến nhiều cơ quan khác chứ không chỉ tập trung tác động lên da như ta mong muốn. Uống nhiều thuốc đẹp da không hẳn đã tốt, nếu không muốn nói là có hại cho thận và gan. 
Thuốc đẹp da cũng là một loại thuốc bổ, mà quá nhiều thuốc bổ thì sẽ tăng lượng độc tố trong cơ thể. Ví dụ, uống quá nhiều vitamin A sẽ gây ra chứng rụng tóc; hay uống quá nhiều vitamin C sẽ ngăn ngừa cơ thể hấp thụ kẽm...
Thuốc uống có thể gây dị ứng. Nhiều người do không hợp với chiết xuất của sinh vật biển nên làn da đã bị phá hủy trầm trọng, khả năng gây dị ứng là rất lớn. Mặt khác, không phải cứ uống thuốc là có ngay làn da đẹp, vẫn còn những yếu tố khác ảnh hưởng trên da như di truyền, tuổi tác, lối sống, mức độ tiếp xúc ánh sáng mặt trời và các vấn đề về da đang có... 
Đừng để mình bị mê hoặc bởi những lời giới thiệu hấp dẫn khi muốn nhanh chóng có được một làn da lý tưởng. Không có loại thuốc nào có tác dụng thần kỳ đến vậy. Khi đã dùng thuốc thì phải sử dụng trong thời gian dài. Nếu đang sử dụng mà nghỉ một thời gian, làn da có thể sẽ trở nên lão hóa nhanh hơn.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Tránh nhầm lẫn khi dùng thuốc có tên gần giống nhau

Hai thuốc glycerin và glyceryl trinitrate là hai thuốc có công dụng hoàn toàn khác nhau nhưng tên thuốc gần giống nhau và người dùng dễ bị nhầm lẫn.

Tác dụng của thuốc
Glycerin (còn gọi là glycerol) là loại thuốc nhuận tràng thẩm thấu, có các đặc tính hút ẩm và làm trơn. Khi uống, glycerol làm tăng tính thẩm thấu huyết tương, làm cho nước thẩm thấu từ các khoang ngoài mạch máu đi vào huyết tương dùng trong điều trị táo bón. Thuốc còn có tác dụng kích thích đại tràng tại chỗ, gây trơn và làm mềm phân. 
Đối với trẻ sơ sinh dùng nhuận tràng để thúc đẩy bài tiết bilirubin bằng cách làm giảm tuần hoàn ruột - gan, giảm thời gian vận chuyển ở đường tiêu hóa và kích thích tống phân xu. Đối với glycerin là thuốc nhuận tràng nên cần phải được dùng thận trọng đối với người bị bệnh tim, thận hay gan vì thuốc làm tăng gánh tuần hoàn gây phù phổi cấp.
Không tự ý sử dụng thuốc mà cần có sự tư vấn của thầy thuốc, người có chuyên môn
Còn glyceryl trinitrate lại là thuốc giãn mạch được dùng để phòng và điều trị cơn đau thắt ngực; phối hợp với các thuốc khác để điều trị suy tim sung huyết. Tác dụng của thuốc là tác động chủ yếu trên hệ tĩnh mạch, với liều cao làm giãn mạch và làm giảm huyết áp nhất là huyết áp tâm thu, tuy không nhiều nhưng có thể gây phản xạ giao cảm làm mạch hơi nhanh và tăng sức co bóp cơ tim. Các nitrat còn có tác dụng ức chế kết tập tiểu cầu.
Một số lưu ý khi dùng
Khi dùng thuốc nhuận tràng glycerin, các tác dụng không mong muốn có thể xảy ra bao gồm buồn nôn, nôn, đau đầu, lú lẫn và mất định hướng. Trường hợp nặng có thể gây mất nước trầm trọng, loạn nhịp tim, hôn mê nguy hiểm đến tính mạng. Khi sử dụng tại chỗ hay ở trực tràng, thuốc có thể gây kích ứng. 
Để chữa táo bón qua đường trực tràng, mỗi lần dùng 1 liều đơn và không nên dùng thường xuyên, chỉ dùng khi cần thiết và thường không nên dùng quá 1 tuần. Thuốc nhuận tràng dùng trong thời gian dài phải có sự theo dõi của bác sĩ.
Đối với thuốc giãn mạch glyceryl trinitrate, các tác dụng phụ thường gặp gây giãn mạch ngoại vi làm da bừng đỏ nhất là ở ngực và mặt; giãn các mạch trong mắt dễ gây tăng tiết dịch và làm tăng nhãn áp; giãn các mạch trong não có thể gây tăng áp lực nội sọ và làm đau đầu. Hạ huyết áp thế đứng, choáng váng, chóng mặt hay xảy ra khi dùng thuốc cho những người bệnh có huyết áp đã thấp, người cao tuổi. Có một số trường hợp gặp triệu chứng nổi ban, viêm da tróc vảy, rối loạn tiêu hóa…
Để tránh nhầm lẫn giữa hai loại thuốc này người bệnh không được tự ý mách bảo nhau dùng thuốc, cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng, đặc biệt là tên thuốc, công dụng và cách dùng… của thuốc.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Sai lầm khi dùng thuốc có thể gây tử vong


Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong
Dùng thuốc giảm sốt quá nhiều. Thực tế là việc không dùng thuốc không đúng cách như lạm dụng thuốc khi đang sốt cũng gây ra nhiều vấn đề cho sức khỏe. Sốt là phản ứng tự nhiên của cơ thể và không hẳn đã có hại. Chỉ dùng khi sốt cao quá tránh những cơn động kinh hoặc nhiễm trùng.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-2
Dùng sai liều hay dùng quá nhiều. Người dùng thuốc thường vô tình dùng quá số lượng quy định, đặc biệt khi nói đến thuốc giảm đau acetaminophen dạng lỏng dành cho trẻ em.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-3
Để đảm bảo liều lượng không bị quá, hãy viết nhật ký thuốc dán trên cánh cửa phòng hoặc cửa tủ thuốc để những thành viên trong gia đình có thể cho bé uống chính xác
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-4
Dùng thuốc chống viêm chung với thuốc làm loãng máu. Đã có rất nhiều tranh cãi gần đây về nguy cơ tim và đột quỵ liên quan đến việc dùng chung 2 loại thuốc, xuất huyết tiêu hóa vẫn là hậu quả nghiêm trọng nhất. Nếu bạn muốn dùng thuốc giảm đau chống viêm thì nên chuyển sang OTC là lựa chọn tốt nhất.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-5
Dùng NSAIDS (thuốc giảm đau chống viêm) khi đang mang thai. NSAIDS sẽ xâm nhập qua nhau thai và can thiệp vào hệ thống lưu thông của thai nhi làm ảnh hưởng đến sự phát triển của tim, thận và các cơ quan khác.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-6
Dùng thuốc quá lâu sau khi bị thương. Khi bị bong gân hoặc căng cơ, cơ thể sẽ có phản ứng tức thời là viêm. Vì vậy mà dùng thuốc NSAIDS sớm có thể kiểm soát được cơn đau và sưng. Thế nhưng, bạn tiếp tục dùng nó kéo dài đến 2-3 ngày thì nó thực sự làm cho các mô chậm lành.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-7
Dùng thuốc giảm đau trước khi tập thể thao. Đau nhức là một cơ chế khá an toàn với những gì xảy ra trong cơ thể bạn. Nếu dùng thuốc giảm đau để dự phòng trước khi tập thể thao có thể làm tổn thương hệ thống miễn dịch hoặc làm trầm trọng thêm chấn thương hiện tại.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-8
Dùng thuốc chống viêm kèm thuốc chống trầm cảm. Một nghiên cứu năm 2015 cho thấy, việc kết hợp 2 loại thuốc này có nguy cơ chảy máu não. Nếu bạn đang dùng thuốc chống viêm, hãy nói chuyện với bác sỹ và xem có lựa chọn nào khác không.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-9
Dùng đồng thời NSAIDS và aspirin. Nếu bác sỹ đã kê đơn liều thấp aspirin và bạn cũng đang dùng NSAIDS giảm đau thì thực sự có thể nguy hiểm. Trong khi aspirin ngăn ngừa máu đông hình thành thì NSAIDS lại ngăn chặn tác dụng đó. Vì vậy mà nếu muốn dùng cả 2 loại thuốc thì bạn nên dùng aspirin vào buổi sáng và chờ 2-4 giờ mới dùng NSAIDS.
Sai lam khi dung thuoc co the gay tu vong-Hinh-10
Dùng thuốc giảm đau, chống viêm NSAIDS thường xuyên khi đang cố gắng thụ thai. Nghiên cứu cho thấy, loại thuốc này có thể ức chế sự rụng trứng. 75% phụ nữ tham gia nghiên cứu sau 10 ngày đã không rụng trứng đều theo chu kỳ của họ. Do NSAIDS ức chế giải phóng prostaglandin, là thành phần quan trọng để trứng rụng.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317


Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

Cảnh giác với các loại thuốc có thành phần thuốc phiện

Thuốc có thành phần chứa thuốc phiện có nhiều loại nhưng thông thường hay sử dụng nhiều các thuốc như terpincodein để trị rối loạn tiết phế quản.

Thuốc có thành phần chứa thuốc phiện có nhiều loại nhưng thông thường hay sử dụng nhiều các thuốc như terpincodein để trị rối loạn tiết phế quản, trị các chứng ho long đờm hay opizoic dùng trong tiêu chảy, đặc biệt là morphin là loại thuốc gây nghiện khi mua phải có đơn mặc dù có công hiệu giảm đau rất tốt thường dùng trị đau trong ung thư...
Tuy nhiên, khi sử dụng chúng không hề đơn giản, vì trong thành phần đều chứa hoạt chất của thuốc phiện. Terpicodein thành phần gồm terpin hydrate, codeine base. Vì có thuốc phiện nên thuốc chống chỉ định sử dụng cho trẻ em dưới 5 tuổi, bệnh nhân suy hô hấp, hen suyễn và tránh dùng chung với thuốc có chứa atropin, cồn và các thuốc ho khác, phụ nữ có thai và cho con bú. Thuốc cũng có tác dụng không mong muốn như gây táo bón, buồn ngủ, chóng mặt, buồn nôn, co thắt phế quản, dị ứng da...
Opizoic là loại viên nén gồm cao opi (10% morphin) 5mg, long não 2mg, acide benzoic 10mg, tinh dầu hồi 1mg. Thuốc được dùng để cầm tiêu chảy, giảm đau và có tác dụng trị triệu chứng. Thuốc có tác dụng giảm nhu động ruột, giảm tiết dịch vị, gây táo bón. Tuy nhiên, do thuốc chứa thuốc phiện nên xếp vào loại thuốc độc bảng A, phải có chỉ định của bác sĩ. Không dùng cho trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ có thai hay đang cho con bú.
Thuốc giảm đau morphin
Thuốc giảm đau morphin
Đặc biệt, morphin - loại thuốc giảm đau gây nghiện (opiat) là một alcaloid có hàm lượng cao nhất (10%) trong nhựa khô quả cây thuốc phiện, về mặt cấu tạo có chứa nhân piperridin-phenanthren. 
Morphin tác dụng chọn lọc và trực tiếp lên tế bào thần kinh trung ương, nhất là vỏ não với nhiều trung khu bị ức chế như trung khu đau, trung khu hô hấp, trung khu gây ho... Nhưng có trung khu lại bị kích thích nên gây nôn, co đồng tử, chậm nhịp tim...
Bởi vậy, khi sử dụng những chế phẩm thuốc phiện đều có tiềm năng độc hại của các chất chủ vận opiat nên khi dùng phải hết sức thận trọng. Dùng nhắc lại nhiều lần có thể gây lệ thuộc thuốc, nhờn thuốc và nghiện thuốc. Vì vậy, người bệnh phải hết sức cẩn thận khi sử dụng các loại thuốc này trong trị bệnh, tốt nhất nên dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc không được dùng với rượu bia

Trong cuộc vui, người ta thường uống bia. Bia nên gọi cho đầy đủ là rượu bia bởi vì bất cứ loại bia nào cũng chứa rượu tức cồn tuyệt đối với hàm lượng thường là 2 - 4%. Và mọi thứ nguy hại của rượu bia chính là tác dụng của rượu nếu uống không chừng mực.

Ảnh minh họa: soha
Đối với cơ thể ta, rượu hay cồn được xem như là chất độc không hơn không kém. Khi uống thức uống có cồn, rất nhiều cơ quan trong cơ thể ta phải làm việc cật lực để giải độc và thường là thích ứng với sự độc này. 
Rượu bia là kẻ nham hiểm bởi vì nó không làm cho kẻ uống nó ngộ độc tức khắc (trừ trường hợp ngộ độc nặng như kiểu uống rượu dỏm chứa độc chất methanol đưa đến tử vong) mà phá hủy cơ thể người dùng nó một cách ngấm ngầm, để đến lúc nào đó trở thành người nghiện rượu gục xuống trong cơn bạo bệnh không thể cứu chữa được. 
Cơ quan chịu tác động nhiều nhất của rượu bia là hệ thần kinh trung ương (TKTW). Uống rượu lâu dài sẽ bị nghiện rượu là bệnh được xếp vào nhóm “bệnh tâm thần” ngang hàng của nghiện ma túy, kế đến là gan (dễ bị xơ gan), rồi đến dạ dày tá tràng (bị viêm loét dạ dày-tá tràng, xuất huyết tiêu hóa), v.v…
Chính tác dụng ức chế hệ TKTW, hại gan, hại dạ dày… của rượu kể trên mà có nhiều thuốc không được dùng chung với rượu bia. Bởi vì, nếu dùng thuốc chung với việc uống rượu bia sẽ làm cho tác hại của rượu tăng lên gấp nhiều lần, hoặc làm cho tác dụng của thuốc gây ra những hậu quả rất bất lợi. 
Có tình trạng rất đáng buồn thường xảy ra là nhiều người xem việc uống rượu trong khi dùng thuốc là bình thường. Thống kê vào năm 2008 cho thấy, khoảng 64% số người trưởng thành ở Mỹ có uống rượu, song hành với 3,8 tỉ lượt thuốc được kê đơn đến tay người bệnh. Tuy vậy, rất ít bác sĩ lưu ý người bệnh mối liên hệ nguy hại tiềm tàng giữa rượu và thuốc mà họ kê đơn. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho tỉ lệ nhập viện do rượu tăng lên đáng kể.
Sau đây là các thuốc không được dùng chung với rượu bia:
Các thuốc ức chế hệ TKTW: gồm các thuốc an thần gây ngủ (như diazepam), thuốc giảm đau opioid gây nghiện (codein, tramadol, fentanyl), thuốc kháng histamine trị dị ứng thế hệ cũ (promethazin, clorpheniramin, alimemazin), thuốc chống động kinh (carbamazepin, acid valproic, gabapentin). Dùng chung với rượu, các thuốc nhóm này sẽ gây tác dụng quá liều an thần nguy hiểm.
Các thuốc kích thích hệ TKTW: như thuốc caffein…, dùng chung với rượu sẽ gây đảo ngược tác dụng của thuốc làm cho caffein giảm hiệu lực.
Các thuốc hạ huyết áp: gồm các thuốc chẹn bêta (atenolol), đối kháng calci (diltiazem), ức chế men chuyển (captopril)… Dùng chung với rượu, có khi thuốc sẽ gây tác dụng hạ huyết áp quá đáng (tụt huyết áp) vì rượu có tác dụng làm dãn mạch là hạ huyết áp, nhưng có khi ngược lại, người dùng thuốc uống rượu lại tăng huyết áp chứ không hạ huyết áp theo mong muốn.
Các thuốc gây độc cho gan: gồm các thuốc giảm đau hạ nhiệt paracetamol, thuốc chống lao (pyrazinamid), thuốc trị sốt rét (cloroquin), thuốc trị loạn nhịp tim (quinidin), thuốc chống nấm (griseofulvin). Rượu và thuốc đều gây độc cho gan nên nếu dùng chung sẽ gây hại cho gan gấp nhiều lần. Riêng paracetamol là thuốc dễ bị lạm dụng uống với rượu để trị nhức đầu, không bị say thì gây hoại tử tế bào gan nhiều khi không hồi phục.
Các thuốc chống viêm không steroid NSAID: aspirin, diclofenac, ibuprofen… Bản thân các thuốc này dễ gây viêm loét dạ dày-tá tràng, nếu uống chung với rượu sẽ tăng tác dụng có hại xuất huyết tiêu hóa lên nhiều lần.
Các thuốc trị đái tháo đường týp 2: glibenclamid, glipizid, glimepirid, metformin… Rượu có tác dụng hạ đường huyết nên nêu dùng chung với thuốc sẽ hiệp đồng làm tụt đường huyết đột ngột, gây hôn mê.
Các thuốc chống đông máu: warfarin... Tùy thuộc lượng rượu uống vào, rượu có thể tương tác với warfarin làm tăng hoặc giảm tác dụng chống đông máu của warfarin. Nếu làm tăng sẽ gây xuất huyết rất nguy hiểm. Còn nếu làm giảm sẽ có nguy cơ làm cục máu đông lớn hơn gây nghẽn mạch.
Các thuốc kháng sinh có tác dụng gây phản ứng cai rượu (hiệu ứng antabuse hay hội chứng tương tự disulfiram): điển hình là kháng sinh metronidazol. Metronidazol có tác dụng giống như disulfiram (biệt dược Antabuse) là thuốc dùng cai rượu. 
Khi uống metronidazol chung với rượu, metronidazol sẽ làm ngưng sự chuyển hóa rượu chỉ tạo ra acetaldehyd là chất độc làm cho cơ thể bị buồn nôn, nôn, nhịp tim nhanh, tụt huyết áp, nhức đầu dữ dội. Vì vậy, tuyệt đối không dùng rượu chung với metronidazol, ketoconazol, isoniazid, các cephalosporin… sẽ bị hội chứng tương tự disulfiram rất nguy hiểm. 
Ngay như thuốc dùng trị tẩy giun sán như mebendazol, albendazol một khi đã dùng phải 24 giờ sau mới được uống rượu bia để không bị phản ứng thuốc gây hại.
Tóm lại, nên lưu ý đã uống rượu thì không uống thuốc, và uống thuốc rồi thì không uống rượu.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Lưu ý khi chọn thuốc ho cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ

Thời tiết vào đông lạnh giá kèm theo ô nhiễm môi trường đang làm gia tăng tình trạng các bệnh lý hô hấp ở trẻ em với những cơn ho tái phát nhiều lần khiến các mẹ hết sức lo lắng. 

Nhiều mẹ đã mang con đi tới các phòng khám để được khám và điều trị mong sao chữa trị dứt điểm cho bé. 

Tuy nhiên, bác sĩ kê toa khác nhau, dược sĩ tại nhà thuốc cũng tư vấn nhiều loại khác nhau khiến mẹ bối rối.Theo các chuyên gia nhi khoa, lựa chọn thuốc ho cho trẻ cần quan tâm đến các yếu tố dưới đây.

Tính hiệu quả và an toàn

Đây là hai yếu tố quan trọng bậc nhất  để bác sĩ kê toa. Tùy vào nguyên nhân gây ho, sẽ có thuốc thích hợp để điều trị tận gốc “căn nguyên” gây ho hiệu quả. 

Đối với ho do dị ứng thời tiết, các thuốc chống dị ứng hiệu quả hơn thuốc ho ức chế trung tâm ho thần kinh trung ương. 

Đối với ho do viêm đường hô hấp trong các bệnh cảm lạnh, cảm cúm, viêm phế quản…, điều trị ho cần kết hợp các tác dụng kháng viêm, tiêu đàm và chống co thắt phế quản.

Tính hiệu quả của thuốc cần phải được kiểm chứng qua lâm sàng trên số mẫu đủ lớn, được lưu hành rộng rãi qua nhiều năm để khẳng định tác dụng và khả năng dung nạp của thuốc đối với bệnh nhân ở các lứa tuổi khác nhau. 

Đối với trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ sơ sinh, tính an toàn phải được ưu tiên hàng đầu. Hoạt chất dextromethorphan không dùng cho bé dưới 2 tuổi, codein không dùng cho trẻ em dưới 18 tuổi vừa thực hiện cắt amidan hoặc thủ thuật nạo amidan họng, trẻ có các vấn đề hô hấp như khó thở, thở khò khè khi ngủ cần thận trọng khi sử dụng codein. Tại Mỹ, FDA khuyến cáo không sử dụng các thuốc ho cảm tân dược này cho trẻ em dưới 6 tuổi.

Thuốc nguồn gốc thảo dược với thuốc nguồn gốc hóa dược

Thuốc điều trị ho có nhiều hoạt chất khác nhau, nguồn gốc từ hóa dược hoặc dược liệu thiên nhiên. Trẻ nhỏ dùng hóa dược có thể gặp nhiều tác dụng phụ. 

Chẳng hạn như nhóm thuốc kháng histamin chứa hoạt chất diphenhydramin, chlorpheniramin, promethazin… giúp chống dị ứng, giảm ngứa họng, giảm ho và hạn chế tiết dịch mũi. Tuy nhiên, thuốc có tác dụng phụ gây buồn ngủ, khô miệng, chán ăn và táo bón, thậm chí gây kích động và co giật.

Thay vào đó, mẹ có thể lựa chọn các loại thuốc có nguồn gốc thảo dược để điều trị ho hiệu quả và an toàn. Tuy nhiên, cần phân biệt thuốc ho thảo dược với thực phẩm chức năng trị ho có thành phần thảo dược. Thuốc có tác dụng điều trị ho, trong khi thực phẩm chức năng chỉ có tác dụng hỗ trợ điều trị.

Xuất xứ

Dù mua thuốc ho trong nước hay ngoại nhập, mẹ cũng nên xem kỹ hãng sản xuất, công ty phân phối... Nên chọn thuốc ho có thương hiệu và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Bộ Y tế sản xuất, đồng thời mua tại các hiệu thuốc lớn và uy tín. Tránh mua thuốc không rõ nguồn gốc được rao bán tại chợ đen hoặc trên mạng. 

Đặc biệt việc mua và dùng thuốc ngoại nhưng là hàng xách tay, không phải thuốc nhập khẩu chính thức, không thông qua kiểm định của các cơ quan chức năng rất dễ bị nguy cơ hàng giả, hàng nhái, chưa kể việc phải mua với giá đắt, giá khống.

Giá cả và tiện dụng

Giá cả là yếu tố cuối cùng nên xem xét khi các yếu tố khác như hiệu quả điều trị, tính an toàn, thương hiệu đều tương đồng. Các mẹ thường có thói quen tính giá trên 1 đơn vị  hộp, chai thuốc. 

Tuy nhiên, giá cả nên được so sánh theo giá trên đợt sử dụng. Đối với thuốc ho dạng si rô, hương vị và dạng đóng gói cũng rất quan trọng trong việc sử dụng cho trẻ. 

Vị dễ uống, cách đóng gói hợp vệ sinh cho việc sử dụng nhiều lần sẽ giúp các mẹ tiết kiệm thời gian và công sức, tránh việc mỗi lần cho con uống siro ho là một “trận chiến”.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Tác dụng quý ít biết của vitamin B9

Cách đây 10 năm khi nói đến vitamin B9 hay còn gọi là folic acid người ta chỉ biết nó cần bổ sung cho phụ nữ mang thai, người bệnh đang dùng các loại thuốc kháng folic acid, điều trị chứng thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ. Ngày nay, nhờ sự tìm tòi tích cực của các nhà khoa học đã phát hiện nhiều tác dụng quý của folic acid cho sức khỏe con người từ lúc là mầm sống đến tuổi già.
Vitamin B9 còn gọi là vitamin Bc, vitamin L1, vitamin M, acid folic, folacin hay folate. Tên hóa học: Pteroyl monoglutamic acid.
Năm 1941, các nhà khoa học phát hiện trong lá của rau Bina (spinach) có acid folic. Ngày nay, vitamin B9 ở mỗi nước có một cách quản lý khác nhau. Ở Việt Nam được coi là thuốc. Có các dạng thuốc: uống (viên nén, viên nang, dung dịch) với hàm lượng 0,4; 0,8; 1; 5mg. Hoặc phối hợp với sắt (Fe); phối hợp với các vitamin khác nhau. Thuốc tiêm dưới dạng muối của acid folic 5mg/ml để tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch hoặc dưới da (thuốc tiêm phải bán theo đơn). Ở Mỹ, viamin B9 được coi là thực phẩm chức năng.
Những thực phẩm giàu folic acid.
Những thực phẩm giàu folic acid
Vai trò của acid folic
Folic acid là vitamin thuộc nhóm B, là coenzym của nhiều quá trình chuyển hóa trong cơ thể, rất cần để sản xuất tế bào mới, trong đó có hồng cầu, bạch cầu; nó đặc biệt quan trọng ở giai đoạn phân chia và lớn nhanh của tế bào trẻ sơ sinh và phụ nữ mang thai. 
Đóng vai trò quan trọng với sự hình thành, phục hồi và tổng hợp nên AND, cần thiết trong việc nhân đôi AND và tránh đột biến AND. Cần cho nam trong độ tuổi sinh đẻ tạo tinh trùng, tăng số lượng và chất lượng tinh trùng.
Folic acid làm giảm lượng homocystein, chất tạo điều kiện cho vữa xơ mạch vành phát triển nên rất cần thiết cho người bệnh đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim.
Folic acid tham gia vào quá trình tổng hợp các chất dẫn truyền thần kinh như dopamin, adrenalin, noradrenalin... giúp cho thần kinh hoạt động tốt; chống các bệnh như phản ứng chậm chạp, rối loạn thái độ, tự kỷ.
Folic acid kết hợp với vitamin B12 giúp sản sinh tế bào máu chống bệnh thiếu máu. Folic acid là chất xúc tác cho nhiều loại dược phẩm, giảm tác dụng phụ có hại cho cơ thể, rất cần cho những người thường xuyên phải dùng thuốc hoặc phải dùng nhiều loại thuốc để điều trị nhiều bệnh cùng lúc (thuốc giảm đau, chống co thắt, hạ huyết áp, hạ đường huyết, hạ cholesterol máu, kháng sinh, kháng lao, trợ tim, an thần, nhuận gan, chống động kinh, chống sốt rét...).
Nhu cầu folic acid hàng ngày của cơ thể
Trẻ còn bú: 50mcg, từ 1 đến 3 tuổi: 100mcg, từ 4 đến 12 tuổi: 200mcg, từ 13 tuổi đến người lớn 300mcg, phụ nữ có thai hoặc cho con bú 500mcg (giới hạn an toàn 800mcg).
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Thụy Sĩ và Hà Lan: Hàng ngày uống 800mcg folic acid sẽ giúp cho người già tăng khả năng nhận thức, duy trì thính lực, tiến bộ về trí nhớ và tổng hợp tin tức.
Quỹ Chăm sóc người cao tuổi Mỹ (CLF) khuyến cáo, người cao tuổi nên bổ sung hàng ngày 400mcg folic acid.
Nguồn cung cấp
Folic acid có trong thức ăn thiên nhiên như: các loại rau xanh tươi sống, nấm, đậu, củ, quả, ngũ cốc, thịt và phủ tạng động vật... Folic aicd cao nhất là gan bò, gan gà: 590mcg, sau đến hạt đậu đũa 430mcg, hạt đậu tương 210mcg, quả ổi chín 170mcg, rau mồng tơi 134mcg, hạt lạc 124mcg, rau đay 123mcg, rau muống 122mcg...
Folic acid không bền với nhiệt, không khí, ánh sáng, chất kiềm. Các loại rau tươi không nên ngâm lâu dưới nước, không nấu chín nhừ (thực phẩm đóng hộp mất từ 50 - 90% acid folic).
Vì vậy, người nội trợ cần biết những thức ăn dễ kiếm, rẻ tiền này để sử dụng trong bữa ăn hàng ngày là đã đảm bảo nhu cầu folic acid mà không cần mua thực phẩm chức năng nhập ngoại đắt tiền.
Vi khuẩn đường ruột có khả năng tổng hợp một lượng folic acid để đáp ứng nhu cầu cơ thể khi thức ăn không đủ cung cấp (tuy vậy, một số người lại ít có khả năng này do di truyền hoặc do cơ thể yếu).
Trong các loại thức ăn kể trên, folic acid tồn tại dưới dạng poly glutamat, khi vào cơ thể được men carboxypeptidase thủy phân rồi bị khử nhờ DHF reductase ở niêm mạc ruột và methyl hóa tạo MDHF, chất này được hấp thụ vào máu, sau đó được phân bố vào các mô trong cơ thể, được tập trung trong dịch não tủy và dự trữ ở gan.
Folic acid trong dược phẩm được giải phóng nhanh ở dạ dày và hấp thu ở đoạn đầu ruột non, được tích trữ chủ yếu ở gan và dịch não tủy.
Tương tác thuốc: cotrimoxazol làm giảm tác dụng điều trị thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ của folic acid, thuốc tránh thai uống làm giảm chuyển hóa của folic acid, thuốc chống co giật: nếu uống cùng lúc với folic acid thì nồng độ thuốc chống co giật bị giảm; sulphasalazin: làm giảm hấp thu folic acid.
Tránh dùng cùng lúc với: trà, cà phê, rượu sẽ giảm khả năng hấp thu folic acid.
Folic acid được chỉ định điều trị thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ và phòng các trường hợp thiếu folic acid.
Folic acid không dùng trong trường hợp mắc bệnh ung thư máu, thiếu máu tán huyết, đa hồng cầu.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons