Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Không phải ai cũng xịt mũi đúng cách

Ngày nay bệnh mũi xoang rất phổ biến, một trong những thuốc điều trị viêm mũi xoang là thuốc xịt mũi.

 
Các loại thuốc này có thể là thuốc co mạch xịt trong những giai đoạn viêm cấp hoặc thuốc kháng viêm xịt để chống dị ứng và điều trị viêm mũi xoang mãn tính. 
Tuy nhiên nhiều người bệnh chưa được hướng dẫn cụ thể cách xịt mũi đúng cách, điều này góp phần làm cho kết quả điều trị không như mong muốn.
Các bước sử dụng thuốc xịt mũi đúng cách hiệu quả như sau:
Bước thứ nhất là rửa tay sạch, khô ráo, sau đó lắc đều chai thuốc nhiều lần trước khi xịt.
Bước thứ hai là có thể đứng hoặc ngồi rồi hơi cúi người về phía trước và nhìn xuống, đồng thời hỉ nhẹ dịch mũi trong hố mũi ra ngoài nếu có.
Bước thứ ba là cầm bình xịt mũi bằng tay phải khi xịt vào mũi trái và cầm bình xịt mũi bằng tay trái nếu xịt vào hố mũi bên phải, để đảm bảo hướng bình xịt mũi là hướng vào thành ngoài của hố mũi và lên trên.
Chú ý đầu của chai thuốc phải lọt vào trong lỗ mũi. Không nên hít mạnh khi xịt và sau khi xịt, vì làm như thế có thể khiến thuốc chạy thẳng xuống họng, không đọng lại trong mũi để phát huy tác dụng như mong muốn.


Thuốc mới điều trị ung thư da giai đoạn cuối

Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ mới đây đã phê chuẩn Odomzo (sonidegib) để điều trị cho bệnh nhân ung thư tế bào biểu mô giai đoạn cuối cục bộ đã tái phát sau phẫu thuật hoặc xạ trị, hoặc các bệnh nhân không thể làm phẫu thuật hoặc xạ trị.
Ung thư da là dạng ung thư phổ biến nhất và ung thư tế bào biểu mô chiếm khoảng 80% trong tổng số các loại ung thư không phải là u hắc tố (non-melanoma). Ung thư tế bào biểu mô bắt đầu từ tầng da đầu tiên (gọi là lớp biểu bì) và thường phát triển ở những vùng đã từng thường xuyên tiếp xúc với ánh mặt trời và các dạng tia cực tím khác. 

Theo Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ, số lượng ca mắc mới ung thư da không phải u hắc tố có vẻ như đang tăng theo từng năm. Ung thư tế bào biểu mô giai đoạn cuối cục bộ là ung thư tế bào biểu mô chưa lan ra các phần khác của cơ thể, nhưng không thể được chữa trị bằng phẫu thuật và xạ trị.
Odomzo là thuốc viên dùng một lần mỗi ngày có tác dụng ngừng hoặc làm chậm lại sự phát triển của các tổn thương do ung thư. Tuy nhiên, thuốc cần được cảnh báo có nguy cơ gây chết thai hoặc dị tật bẩm sinh nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh nếu người mẹ sử dụng khi mang thai. 

Các bệnh nhân nên kiểm tra tình trạng mang thai của mình trước khi điều trị bằng Odomzo và cả bệnh nhân nam lẫn bệnh nhân nữ nên được cảnh báo về các nguy cơ của thuốc và được khuyên sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả.
Một số tác dụng phụ của thuốc có thể xảy ra như co cơ, rụng tóc, rối loạn vị giác, mệt mỏi, buồn nôn, đau cơ xương, tiêu chảy, sút cân, chán ăn, đau cơ, đau bụng, đau đầu, nôn mửa và ngứa. 

Odomzo cũng có khả năng gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng trên cơ xương, bao gồm tăng creatine kinase huyết thanh (với các báo cáo hiếm gặp về sự tiêu cơ vân, co thắt cơ, và nhức gân).

Những loại thuốc gây "hỏng" thận

PGS.TS Nguyễn Hữu Đức cho biết, thận tiếp xúc và bài tiết thuốc ra khỏi cơ thể thì chính nó cũng bị thuốc gây những tổn thương hoặc làm suy giảm chức năng và nói tắt là "thuốc hại thận".

Có rất nhiều thuốc có thể làm hại thận cấp tính hoặc mạn tính. Nguy hiểm ở chỗ là nhiều khi thuốc làm hại thận từ từ, không dễ gì phát hiện từ lúc đầu và đến khi phát hiện thì thận đã bị thuốc làm suy ở mức độ rất nặng, thậm chí phải chạy thận nhân tạo.
Thông thường để phát hiện thận bị suy, người ta làm xét nghiệm đo creatinin máu. Nhiều thuốc chỉ mới ảnh hưởng nhẹ đến chức năng thận đã làm tăng creatinin máu, nhưng có nhiều thuốc gây hại thận dần dần mà chẳng có triệu chứng gì, đến khi làm tăng creatinin máu thì đã làm thận suy rất nặng.
Ảnh minh họaThuốc gây hại thận. Ảnh minh họa.
Các thuốc gây hại thận :

Thuốc kháng sinh:
- Aminoglycosid như neomycin, gentamycin, amikacin, tobramycin, streptomycin là nguyên nhân hàng đầu gây creatinin máu tăng, dấu hiệu quan trọng của suy thận.
- Cephalosporin thế hệ 1 như cefadroxyl, cefalexin, cefalotin, cefazolin gây nhiễm độc ống thận.
- Polypeptid như polymixin, colistin có độc tính cao với thận.
- Quinolon: Các fluoroquinolon như ofloxacin, ciprofloxacin, norfloxacin đều gây tăng creatinin máu. Khi sử dụng cần dựa vào mức lọc cầu thận để chọn liều.
- Amphotericin B là thuốc kháng nấm tác động lên lipid ở màng tế bào biểu mô ống thận gây độc thận, nhiễm toan ống thận, đái tháo nhạt do thận.
- Ức chế men chuyển (captopril, ednyt, renitec…) và kháng thụ thể AT1 (aprovel, micardis, cozaar…) gây tăng creatinin máu. Chống chỉ định trong hẹp động mạch thận.
Thuốc hóa trị liệu chống ung thư:
- Cisplatin gây suy thận cấp và hạ magnesi máu.
- Methotrexat gây kết tủa, tắc lòng ống thận.
- Sulfamid gây kết tủa các tinh thể trong lòng ống thận.

Thuốc cản quang iod hóa trị 2, hóa trị 3 (urographin, telebrex…) gây sốc phản vệ, tắc mạch vì gây độc trực tiếp lên nhu mô thận hoặc co động mạch thận.
Thuốc ức chế miễn dịch: Cyclosporin A, azathioprin, mycophenolat mofetil… cần chỉ định đúng, theo dõi cẩn thận.
Thuốc giảm đau, thuốc kháng viêm không steroid:
-Indometacin, phenylbutazon, naproxen gây viêm kẽ thận mạn.
-Paracetamol ngoài suy gan có thể gây hoại tử ống thận cấp, suy thận cấp.
Thuốc điều trị bệnh tâm thần Lithium.
Người bệnh đã có tiền sử suy thận thì tuyệt đối không dùng các thuốc độc cho thận khi có thuốc khác thay thế. Ví dụ như: không dùng các aminoglycosid, amphotericin, cisplatin, mesalazin, các NSAID, penicilamin và vancomycin… là các thuốc hại thận rất mạnh.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức, ngoài gây hại thận và chức năng thận, nhiều thuốc gây những rối loạn liên quan gián tiếp đến thận. Một số thuốc trực tiếp gây giữ nước và do đó có thể gây nặng hơn các biến chứng về tim mạch ở người bị suy thận, như: carbenoxolon, indomethacin. 
Ở người bệnh suy tim sung huyết, việc tưới máu thận phụ thuộc vào lượng prostaglandin được sản xuất tại thận, dùng thuốc NSAID sẽ ức chế tác dụng tại chỗ của prostaglandin đối với thận gây giảm dòng máu qua thận, giữ nước và làm xấu thêm tình trạng suy tim. 
Dùng digoxin ở người suy thận nặng sẽ làm tăng canxi huyết và/hoặc giảm kali huyết. Dùng các thuốc lợi tiểu giữ kali như: amilorid, spironolacton có thể gây tăng kali huyết nặng ở người suy thận. 
Dùng thuốc kháng tiết cholin như: atropin, scopolamin có thể gây rối loạn chức năng bàng quang và đái không tự chủ đối với người có chức năng thận bình thường. Dùng acetazolamid, vitamin D liều cao, vitamin C liều cao dễ gây đọng tạo sỏi thận - tiết niệu.
Thuốc hại thận ở đây còn có thể hiểu là thuốc có thể làm thay đổi kết quả xét nghiệm chức năng thận, như: có thuốc gây dương tính giả xét nghiệm độ đục nước tiểu (turbidimetric test): tolbutamid, kháng sinh penicillin, cephalosporin (liều cao), sulfisoxazol...; có thuốc làm tăng creatinin máu do cạnh tranh bài tiết ở niệu quản: triamteren, amilorid, trimethoprim, cimetidin, hoặc làm tăng creatinin máu trong xét nghiệm theo phương pháp Jaffe: vitamin C, kháng sinh cephalosporin.
Doluôn luôn có nguy cơ "thuốc hại thận", nên phải xem việc dùng thuốc là rất hệ trọng. Chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết và có sự hiểu biết tối thiểu về các dùng, liều lượng, tính năng, tác dụng phụ có hại của thuốc (trong đó có tác dụng hại thận). 
Nếu có gì nghi ngờ về bệnh của mình thì cách tốt nhất đến bác sĩ khám để có cách xử trí đúng đắn, không được tự ý dùng thuốc bừa bãi, tốt nhất nên dùng thuốc theo sự chỉ định và hướng dẫn của thầy thuốc.

Thuốc gì chữa đau răng?

Đau răng không phải là bệnh riêng của người già (đầu bạc răng long) mà là của mọi lứa tuổi kể từ 2 tuổi trở đi. Sâu răng bắt đầu từ 7 - 8 tuổi, cao nhất vào 12 tuổi sau đó giảm dần.

Theo thống kê của Bệnh viện Răng Hàm Mặt trung ương năm 2011 thì Việt Nam là nước có tỉ lệ người mắc bệnh về răng miệng cao trên thế giới với 90% dân số.
Nguyên nhân gây đau răng

Có rất nhiều nguyên nhân như:

Do vi khuẩn có sẵn trong miệng: trong miệng mỗi người có nhiều loại vi khuẩn cả gram âm và gram dương; ưa khí, kỵ khí; xoắn khuẩn, phẩy khuẩn, thoi khuẩn. Loại gây bệnh về răng chủ yếu là Actinomyces vicosus, Streptococus Mutans gây sâu răng, nha chu viêm. Streptococcus viridians gây áp-xe răng…

Do màng bám trên mặt răng: được tạo thành trong thời gian ngắn ngay sau khi ăn các thức ăngiàu chất đường, bột (bánh, mứt, kẹo, kem, sirô, nước ngọt, sữa có đường; trái cây khô…) phối hợp với các vi khuẩn sinh acid phá men răng, gây sún răng sữa cho trẻ thiếu canxi và fluor. Mảng bám trên mặt răng có trên tất cả các mặt răng, nhiều nhất ở răng hàm. 
Cao răng là màng bám mặt răng được khoáng hóa bằng chất khoáng trong nước bọt và mùn thức ăn (gọi là bựa răng). Màng bám trên mặt răng là thủ phạm gây các bệnh về răng như: viêm lợi (viêm nướu răng) viêm quanh răng (nha chu viêm). Sâu răng, áp-xe răng…

Do đồ uống có ga, trái cây có vị chua chứa nhiều acid hữu cơ làm mòn men răng.

Do đồ uống có ethanol (bia, rượu, đặc biệt là rượu vang trắng và đỏ) ức chế sản xuất nước bọt là chất sát khuẩn trong miệng và cung cấp các men tiêu hóa thức ăn

Do hình thể răng: răng hàm có nhiều rãnh trên mặt nhai là chỗ đựng mùn thức ăn và màng bám trên mặt răng khó súc rửa, phá men răng gây sâu răng nguồn gốc của các triệu chứng khó chịu như: buốt răng, ê răng, đau nhức răng…

Do thiếu dinh dưỡng:

- Thiếu vitamin C sinh viêm lợi, lợi sưng đỏ, chảy máu chân răng, chảy máu dưới da (biểu hiện của bệnh Scorbut).

- Thiếu canxi, vitamin D3, vitamin A , fluor là những nguyên liệu rất cần thiết cho cấu tạo răng, khoáng hóa răng và giúp răng mọc đúng vị trí.

Do suy yếu sức đề kháng:

- Của trẻ em sau khi mắc các bệnh do siêu vi gây nên (phần lớn do sởi) và không giữ vệ sinh răng miệng tốt, gây viêm loét hoại tử miệng thường gọi là “cam tẩu mã”, gây nhiễm trùng máu và biến chứng phổi cho trẻ 2 - 7 tuổi, có thể chết rất nhanh trong vài ngày nếu không được cứu chữa tích cực kịp thời.

- Của người già: thường viêm lợi, viêm quanh răng.

Do chấn thương răng miệng: ngã, tai nạn giao thông, khi ăn nhai phải sạn, ẩu đả... gây gãy răng, mẻ răng, rạn răng, vi khuẩn theo đó xâm nhập vào tủy răng gây nhiễm trùng.

Do sự cố nha khoa, như: khi nhổ răng hàm bị sâu lâu ngày đã nát thân chỉ còn chân răng, nên phải đục để nhổ chân răng, gây rạn xương hàm...

Do mọc răng khôn còn gọi là răng hàm thứ 3: kéo dài từ 16 - 30 tuổi, đặc biệt tới 45 tuổi. Thường gây đau và viêm nướu lúc mọc, nhất là răng khôn mọc lệch (kéo dài từ 16 - 30 tuổi, trường hợp đặc biệt tới 45 tuổi).

Do rối loạn nội tiết tố như: viêm lợi tuổi dậy thì, viêm lợi khi hành kinh, viêm lợi khi thai nghén, viêm lợi tuổi mãn kinh...

Thuốc chữa đau răng

Tùy thuộc nguyên nhân gây đau răng mà thầy thuốc lựa chọn thuốc và phương pháp chữa phù hợp.

Thông thường nha sĩ cho bệnh nhân 2 loại thuốc để điều trị ngoại trú: thuốc giảm đau: paracetamol, aspirin và thuốc kháng sinh như: amoxicyclin, tetracylin, doxycyclin, spiramycin… phối hợp với metronidazol (rhodogyl phối hợp: metronidazol và spiramicin).

- Phối hợp các kháng sinh họ beta lactam với metronidazol đem lại hiệu quả cao để diệt cả vi khuẩn ái khí và vi khuẩn kỵ khí (người bệnh không được uống bia, rượu trong thời kỳ dùng thuốc có metronidazol tới 72 giờ).

Nhiều người lại quên các vitamin: C, A, D3, B2 là thứ rất cần cho người bệnh đau răng.
Các loại thuốc Nam dễ kiếm để chữa bệnh răng miệng có nhiều thứ, hiệu quả nhất: gừng tươi, nghệ tươi, kha tử… Đặc biệt, gel tươi lô hội là thuốc rất tốt cho phòng bệnh và điều trị các bệnh răng miệng (có tác dụng: giảm đau, kháng sinh, diệt khuẩn, hồi phục tổ chức thương tổn, bồi bổ cơ thể…).

Lấy gel tươi lô hội khoảng 3 - 5g đặt trên mặt răng đau rồi nuốt nước, 15 phút sau là giảm đau. 3 giờ sau nếu chưa khỏi thì ngậm tiếp 1 miếng gel tươi lô hội nữa là khỏi).

Phòng bệnh

Vệ sinh răng miệng thường xuyên sau mỗi khi ăn, cần thực hiện từ khi bắt đầu mọc răng sữa (6 tháng tuổi).

Trẻ còn bú và bé chưa biết chải răng thì mẹ phải nhớ dùng gạc mềm sạch lau lợi, răng cho bé sau mỗi khi ăn, uống nước ngọt. Không cho trẻ bú đêm từ 8 tháng tuổi để tránh hỏng răng sữa.
Cần tập cho trẻ từ 3 tuổi có thói quen chải răng, súc miệng làm sạch răng miệng sau khi ăn. Nên dùng bàn chải lông mềm, kem đánh răng có fluor (F). Sau cùng súc miệng bằng nước chè xanh (trong nước chè xanh có nhiều fluor).

Người già không còn răng thì phải vệ sinh lợi và răng giả (nếu có) sau mỗi khi ăn (hiện nay vẫn còn nhiều người quen thói cũ là chỉ đánh răng sau khi ngủ dậy buổi sáng, mà không biết việc vệ sinh răng miệng sau mỗi khi ăn).

Ăn uống đủ chất dinh dưỡng cho xương, răng: từ khi bắt đầu có mầm răng trong bụng mẹ đến khi già không còn răng (để con có bộ răng tốt đẹp, quan trọng nhất là từ lúc mẹ mang thai đến khi bé 13 tuổi).
Khi mang thai, người mẹ cần ăn uống đủ chất (đạm, canxi, phốt pho, vitamin A, D3...), từ tháng thứ 3 trở đi của thai kỳ không được uống thuốc có tetracylin, doxycyclin (sẽ làm răng bé xỉn màu), từ tháng thứ tư trở đi phải đảm bảo lượng canxi 1.200mg, vitamin A 2.500 - 3.000UI, vitamin D3: 300 - 400UI/ ngày trong khẩu phần của mẹ.

Chống sâu răng: bộ răng sữa của trẻ 20 chiếc (8 răng cửa + 4 răng nanh+ 8 răng cối sữa) mọc từ 6 - 30 tháng tuổi. 6 tuổi - 12 tuổi được thay thế bằng 28 răng vĩnh viễn (8 răng cửa + 4 răng nanh + 8 răng tiền cối + 8 răng cối). Cần trám bịt hố rãnh trên mặt nhai răng cối từ khi mới mọc (kể cả răng cối sữa lúc 1 - 2 tuổi) để chống sâu răng. Định kỳ 6 tháng 1 lần kiểm tra răng, lấy cao răng và trám bịt lại hố rãnh trên mặt nhai răng cối (nhất là răng cuối hàm là răng hàm mọc đầu tiên và dễ sâu nhất).

Tập luyện hàng ngày: buổi tối trước khi ngủ và buổi sáng khi vừa thức dậy cần tập thể dục răng miệng bằng cách: gõ răng 100 cái (hai hàm răng gõ vào nhau như kiểu rét run cầm cập), sau đó đảo lưỡi 20 lần bên phải và 20 lần bên trái, cuối cùng súc miệng để tạo nước bọt rồi nuốt hết nước bọt (gọi là nuốt ngọc dịch) 20 lần.
Tác dụng: làm cho răng bền chắc; kích thích tuyến nước bọt hoạt động tốt, cung cấp đủ nước bọt là chất sát khuẩn ở miệng, hạn chế đến mức thấp nhất các vi khuẩn gây bệnh răng miệng và xâm nhập cơ thể qua đường tiêu hóa.
Nước bọt còn làm sạch các thức ăn bám trong miệng; các protein, bicarbonat của nước bọt sẽ hòa tan, trung hòa, acid hóa mảng bám vi khuẩn giảm tác hại đến răng; các chất canxi, phosphat, fluor trong nước bọt sẽ tăng sự tái tạo và khoáng hóa men răng. 
Nước bọt còn cung cấp nhiều loại men cho quá trình tiêu hóa thức ăn (nên dạy cho trẻ từ 10 tuổi tập và thường xuyên nhắc nhở động viên các cháu để thành thói quen tốt, đến già hàm răng vẫn tốt đẹp không phải đeo răng giả, không bị khô miệng).


Thuốc tăng cơ bắp có thể làm giảm tinh trùng

Việc sử dụng các sản phẩm này phải được chỉ định và giám sát chặt chẽ của bác sĩ chuyên môn. Tuy nhiên ở Việt Nam, các loại thuốc tăng cơ lại có thể mua dễ dàng, đặc biệt tại các phòng tập thể hình với đủ chủng loại tiêm, uống, dán ngoài da...
Phần lớn các loại thuốc làm tăng cơ bắp đang được quảng cáo trên thị trường hiện nay đều chứa các hoạt chất androgen. Đây là thuật ngữ chung được sử dụng để chỉ một nhóm các hormone steroid có tác dụng tương tự như nhóm hormone sinh dục nam - Testosterone (còn được gọi là hormone tăng trọng). Cơ chế hoạt động của loại thuốc này giúp làm đồng hóa protein, tức là giúp cho cơ thể hấp thụ, biến dưỡng tốt protein và vận chuyển các axít amin của chất đạm vào mô cơ làm cho cơ thể tăng khối lượng cơ, tăng cân, tăng cường sức mạnh.
Theo các chuyên gia, lạm dụng thuốc tăng cơ liều cao sẽ dẫn đến những tác hại nghiêm trọng như: gây tổn thương gan, viêm gan tắc mật dẫn đến vàng da, dùng lâu dài có thể suy gan, tăng nguy cơ ung thư gan, rối loạn chức năng thận nghiêm trọng, rụng tóc, tình trạng hói đầu tăng cao, chứng to vú ở đàn ông, tăng huyết áp, xơ cứng mạch máu, rối loạn chuyển hoá nội tiết tố, rối loạn cương dương, teo tinh hoàn, không có tinh trùng, vô sinh ở cả nam và nữ giới…
Nếu là phụ nữ, còn có thể bị triệu chứng nam hoá như lông mọc rậm hơn, giọng nói trầm hơn, xuất hiện râu, tóc rụng nhiều, nổi trứng cá ở mặt, rối loạn rụng trứng thậm chí có thể mất kinh nguyệt. Trẻ vị thành niên nếu dùng các sản phẩm này có thể làm dậy thì sớm, giảm khả năng sinh sản do lúc này cơ quan sinh sản chưa phát triển hoàn thiện.
Thuốc tăng cơ bắp có thể làm giảm tinh trùng
Theo GS.TS Trần Quán Anh (Chủ tịch Hội y học giới tính Việt Nam) thì mặc dù Testosterone ngoại sinh có thể giúp tăng khối lượng và trương lực cơ nhưng nếu hệ gân và dây chằng không phát triển tương xứng thì dễ dẫn đến chấn thương, phát triển lệch lạc hệ cơ - xương - khớp, gây nhiều tác dụng phụ nguy hiểm lên hệ tim mạch, hệ hô hấp...
Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy, nam giới dùng Testosterone ngoại sinh tuy giúp cơ bắp tăng nhưng đồng thời cũng có nguy cơ bị các cơn đau tim cao hơn. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) khuyến cáo, dùngTestosterone ngoại sinh làm tăng 30% nguy cơ đột quỵ, đau tim và tử vong ở nam giới.
Đặc biệt, loại hormone này còn gây ảnh hưởng xấu đến chức năng sinh lý, sinh sản của nam giới. Thống kê cho thấy, 90% nam giới bổ sung Testosterone ngoại sinh làm số lượng tinh trùng giảm nghiêm trọng, do ức chế giải phóng FSH và Luteinizing hormone từ tuyến yên.

Lạm dụng chất này còn dẫn đến tình trạng hormone tăng đột ngột, can thiệp vào hệ thống nội tiết của cơ thể gây phản hồi giả lên não và tuyến yên, làm ngừng quá trình sinh tổng hợp Testosterone nội sinh trong cơ thể. Lâu ngày sẽ làm tê liệt hoàn toàn khả năng tự tổng hợp Testosterone nội sinh của cơ thể, ảnh hướng nặng nề đến toàn bộ sức khoẻ tổng quát và chức năng sinh lý nam giới.

Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2015

Hậu quả khôn lường khi bà bầu lạm dụng canxi và sắt

Sắt và canxi rất cần thiết cho phụ nữ mang thai.

Sắt và canxi rất cần thiết cho phụ nữ mang thai.

Tuy nhiên việc bổ sung hai loại khoáng chất này như thế nào để tốt cho sức khỏe của mẹ và sự phát triển của bào thai là điều không phải chị em nào cũng biết.
Sắt và canxi cho bà bầu - thiếu, thừa đều nguy hiểm
Không muốn đi vào “vết xe đổ” của chị dâu (sinh con thiếu tháng, thằng bé bị còi xương, suy dinh dưỡng, mẹ bị đau lưng), ngay từ những ngày đầu “có tin vui” Mai Lệ (Cầu Giấy, Hà Nội) đã mua sắt và canxi (dạng viên uống) về sử dụng. 
Ngoài ra, Mai Lệ còn ăn nhiều hải sản và dùng thêm một số loại vitamin tổng hợp, thuốc bổ, sữa, thực phẩm chức năng… bổ sung sắt và canxi. Mai Lệ không tiếc tiền đầu tư và gắng gượng nhắm mắt nhắm mũi uống vì nghĩ rằng sau này con sinh ra sẽ thông minh, khỏe mạnh, cao lớn vượt trội.
Vậy nhưng phải nhập viện sau nhiều ngày bị táo bón, người mệt mỏi và đặc biệt là hiện tượng đi tiểu ra máu, Mai Lệ mới nhận ra sai lầm đáng trách của bản thân. Sau khi thăm khám và làm các xét nghiệm, bác sĩ chuyên khoa cho biết Mai Lệ bị thừa sắt và can xi do tự ý bổ sung quá liều.
Cũng giống như Mai Lệ, bà bầu Thúy An (Vũ Thư, Thái Bình) mua liền lúc mấy loại thuốc bổ sung sắt, canxi, vitamin về dùng dù lần khám thai đầu tiên bác sĩ sản khoa bảo cô ăn, ngủ, nghỉ tốt, không bị nghén nên giai đoạn ban đầu chú ý ăn uống những món bổ dưỡng cho thai phụ và dung nạp sắt, canxi cũng như các loại khoáng chất cần thiết qua thực phẩm tự nhiên như: tôm, cua, cá, rau xanh, sữa… là đủ, còn giai đoạn sau, nếu thấy cần bác sĩ sẽ cho chỉ định. 
Vậy nhưng, do hoang mang trước sự tác động của mọi người xung quanh cộng thêm nỗi lo con phát triển chậm, Thúy An vẫn mua viên sắt và ống canxi về uống. Chỉ đến khi cầm trên tay kết quả bị sỏi thận và có nguy cơ bị vôi hóa nhau thai do nguyên nhân thừa canxi, sắt, Thúy An mới thấm thía hậu quả của việc tự ý dùng thuốc khi không có chỉ định của bác sĩ.
Bổ sung sắt và canxi cần phải tuân thủ theo đơn của bác sĩ Bổ sung sắt và canxi cần phải tuân thủ theo đơn của bác sĩ
Theo ThS.BS Lê Thiện Thành - Giám đốc BV Bảo An (Hà Nam thì hiện tượng thai phụ tự mua viên sắt, canxi, vitamin tổng hợp về uống khá phổ biến. Điều này xuất phát từ suy nghĩ phụ nữ chửa đẻ bao giờ cũng thiếu hụt sắt, canxi nên “phòng hơn chống”, uống vào chỉ có tốt chứ chẳng gây hại gì. Sai lầm đó không chỉ tồn tại ở những vùng nông thôn còn lạc hậu mà ngay ở các thành phố lớn, nhiều chị em có trình độ học vấn cao vẫn mắc phải.
Thực tế, sắt và canxi cần bổ sung một cách hợp lý, hiệu quả ngay từ giai đoạn chuẩn bị mang thai, trong suốt thai kì và cả giai đoạn cho con bú. Thiếu sắt, thai nhi có nguy cơ bị dị dạng, suy dinh dưỡng, nhẹ cân, có thể bị sảy thai, sinh non, ảnh hưởng đến thể chất và trí tuệ trẻ sau này. Còn người mẹ có thể bị thiếu máu, mệt mỏi, tăng nguy cơ nhiễm trùng. 
Thiếu canxi, thai nhi rất dễ còi xương, kém phát triển, biến dạng cấu tạo xương. Người mẹ có nguy cơ bị đau mỏi xương khớp, chuột rút, răng dễ vỡ (do cơ thể huy động canxi dự trữ xương và răng của mẹ để đảm bảo lượng canxi cho thai nhi). 
Trường hợp nặng có thể gây co giật do hạ canxi máu. Thiếu máu, thiếu sắt được xem là liên quan đến ¼ trường hợp tử vong ở thai phụ, sản phụ, làm gia tăng các tai biến sản khoa, nhất là tai biến do xuất huyết sau sinh.
Tuy nhiên, nếu tự bổ sung sắt và canxi dạng uống không theo chỉ định của bác sĩ sẽ không kiểm soát được cơ thể đang thừa hay thiếu chất, dẫn đến những hiểm họa khôn lường. Thừa sắt làm tăng nồng độ sắt tự do trong máu thai nhi, tăng nồng độ huyết sắc tố trong máu người mẹ. 
Điều này cản trở quá trình tạo máu bình thường của thai nhi, dẫn đến tình trạng bị sinh non, thiếu cân, tăng nguy cơ tử vong ở sản phụ. Người mẹ có các biểu hiện như: tiêu chảy, đi tiểu ra máu, buồn nôn, đau bụng…vv. 
Thừa canxi, thai nhi có thể bị tăng canxi trong máu, khi ra đời thóp kín quá sớm, xương hàm có thể bị biến dạng, rộng và nhô ra trước, không có lợi cho sức khỏe và ảnh hưởng đến thẩm mĩ. Bánh nhau sẽ bị tăng độ canxi hóa làm giảm trao đổi chất giữa mẹ và thai nhi, làm thai kém phát triển.
Người mẹ bị táo bón, khô miệng, đau đầu, chán ăn, mệt mỏi và nếu như người mẹ uống ít nước, lượng canxi và sắt dư thừa không đào thải được qua nước tiểu có thể bị sỏi đường tiết niệu, đặc biệt là sỏi thận. Một số trường hợp nhiễm độc canxi còn có thể đối mặt với nguy cơ tử vong.
Ngoài việc chú trọng bổ sung sắt, canxi, ThS Lê Thiện Thành còn khuyến cáo thai phụ nên bổ sung magie, kẽm, acid folic và các loại Vitamin A, B, C, D, E một cách hợp lý và hiệu quả. Ông nhấn mạnh rằng việc bổ sung bằng chế độ ăn sẽ dễ kiểm soát và an toàn hơn bổ sung dạng thuốc. Những trường hợp thiếu hụt sắt, canxi cần tuần thủ theo đơn do bác sĩ chuyên khoa kê.
Bổ sung sắt, canxi thế nào cho hiệu quả?
Tùy vào cơ địa, tình trạng sức khỏe, tiền sử bệnh lý của thai phụ, bác sĩ chuyên khoa sẽ đưa ra chỉ định, liều lượng, thời điểm và cách thức bổ sung sắt, canxi hợp lý. Với những mẹ bầu khỏe mạnh, không bị nghén có thể giai đoạn đầu chỉ cần bổ sung sắt và canxi từ nguồn thực phẩm hàng ngày, sang đến giai đoạn sau có thể dùng sắt và canxi dạng nào cũng được. Mẹ bầu bị tăng huyết áp, tiền sản giật cần cẩn trọng khi dùng các loại thuốc canxi có lẫn natri. Mẹ bầu bị tiểu đường thì không sử dụng canxi có chứa hàm lượng đường.
Trong quá trình phát triển, thai nhi thường sử dụng sắt và canxi từ người mẹ để tạo máu và xương cho sự lớn lên. Bởi vậy, ở mỗi giai đoạn thai kì, cơ thể người phụ nữ cần bổ sung lượng sắt và canxi khác nhau. 
Thông thường, trong 3 tháng đầu, nhu cầu canxi cần thiết cho cơ thể người mẹ là 800mg/ngày và nhu cầu sắt là 30mg/ngày. Sang quý 2 như cầu canxi là 1000mg/ngày và nhu cầu sắt là 40mg/ngày. Ở quý 3 nhu cầu canxi có thể lên tới 1500mg/ngày và nhu cầu sắt là 50-  60mg/ngày.
Do đó, khi mua các mẹ đừng quên kiểm tra thông tin sản phẩm: thành phần thiết yếu, hạn sử dụng… để được cung cấp đủ lượng khoáng chất cần thiết cho cơ thể. Nếu thuốc có mùi vị khó uống, gây tác dụng  phụ (nôn, đầy bụng, khó tiêu, táo bón…) thì cần tham khảo ý kiến của bác sĩ để được tư vấn kịp thời hoặc có chỉ định chuyển sang dùng loại khác.
Các mẹ bầu cần sáng suốt thông mình trong việc chăm sóc bản thânCác mẹ bầu cần sáng suốt thông mình trong việc chăm sóc bản thân
Việc bổ sung sắt và canxi cần đúng thời điểm mới phát huy hết được công dụng và có lợi cho mẹ bầu. Để cơ thể hấp thu chất sắt tốt nhất, mẹ bầu nên tuân thủ chế độ ăn dồi dào Vitamin C từ rau quả tươi (cam, chanh, cà chua…) bởi Vitamin C có chức năng giúp cơ thể tổng hợp chất sắt hiệu quả. 
Canxi thường không được tích lũy trong cơ thể mà sẽ tự động bị đào thải ra ngoài nếu dư thừa. Ở mỗi thời điểm, cơ thể chỉ có thể hấp thụ tối đa 500mg canxi nên nếu cần bổ sung một lượng lớn canxi, mẹ bầu hãy uống nhiều làm nhiều lần trong ngày để cơ thể hấp thụ hết. Vitamin D là một nhân tố quan trọng giúp cơ thể hấp thu canxi tốt nhất.
Do đó mẹ bầu cần kết hợp ăn bổ sung các thực phẩm giàu Vitamin D như: sữa, lòng đỏ trứng và tăng cường tắm nắng để hấp thu Vitamin D. Trong khi đó, đồ uống có ga, nước ngọt, cà phê và một số thực phẩm chứa nhiều axit photphoric sẽ thúc đẩy quá trình đào thải canxi của cơ thể. Chế độ ăn uống nhiều muối, nhiều chất béo cũng như các thực phẩm chứa axit phytic, axit oxalic cũng làm giảm sự hấp thụ canxi.
Đáng lưu ý là sắt và canxi là hai dưỡng chất quan trọng song kị nhau nếu uống cùng một thời điểm. Bởi vậy, nếu phải bổ sung đồng thời sắt và canxi, bà bầu nên uống cách quãng. Có thể uống canxi vào buổi sáng kết hợp với tắm nắng để hấp thu dễ hơn, buổi trưa hoặc chiều uống viên sắt. Việc sử dụng viên uống tổng hợp có chung thành phần canxi và sắt được khuyến cáo là làm mất tác dụng của cả hai dưỡng chất này.
Tốt nhất, bà bầu nên bổ sung viên đa vi chất có tách biệt thành phần sắt và canxi. Không nên uống sắt và canxi lúc đói hoặc trước giờ đi ngủ bởi chúng có thể gây nóng người khiến bà bầu khó chịu. Nên tránh xa trà, cà phê, co ca và những đồ uống có ga bởi chúng cản trở sự hấp thụ của sắt và canxi trong cơ thể. Cần tăng cường ăn rau xanh, hoa quả, uống nhiều nước để hạn chế tình trạng táo bón, khó tiêu.
Việc bổ sung sắt và canxi trong giai đoạn mang thai là vô cùng cần thiết, song chị em cần sáng suốt, thông minh trong việc chăm sóc bản thân và bé yêu, để tránh những rủi ro khong đáng có.

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons