Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015

Thuốc điều trị thấp tim

Bệnh thấp tim còn được gọi là bệnh thấp khớp cấp hoặc sốt thấp khớp, là một thể lâm sàng của bệnh tự miễn dịch.

Nghĩa là cơ thể tự sinh ra kháng thể chống lại chính các cơ quan tổ chức của mình. Bệnh thấp tim gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị và dự phòng.
Bệnh thấp tim thường được bắt đầu sau một đợt viêm họng, viêm amidan, viêm xoang hoặc viêm da do nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết nhóm A (streptococus typ A). Bệnh thường gặp ở trẻ em độ tuổi từ 5 - 15, ít khi khởi phát ở người lớn. Đặc biệt, sau nhiều đợt viêm cấp tái phát thì nguy cơ bị thấp tim càng cao. 
Các tổn thương tại khớp thường chỉ thoảng qua và không để lại di chứng gì, nhưng tổn thương tại tim (chủ yếu các van tim) lại gây ra những hậu quả khó lường. Bệnh thấp tim sẽ trở nên nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời. Khi đó, bệnh sẽ gây ra những tổn thương van tim và dẫn đến suy tim sau thời gian dài gây tổn thương đến não, thận…
Thuốc điều trị thấp tim
​Viêm cơ tim là một biểu hiện của thấp tim.
Biểu hiện của bệnh
Dấu hiệu ban đầu của thấp tim là trẻ thường sốt từ 38 - 40oC, có thể họng đỏ, vã mồ hôi, chảy máu cam, đái ít, mệt mỏi, kém ăn, sắc mặt nhợt nhạt. Cũng có trường hợp triệu chứng chỉ thoáng qua nhưng sau đó khoảng 1-5 tuần thì có biểu hiện đau ở khớp. Bệnh nhân bị viêm khớp với các biểu hiện: sưng, nóng đỏ, đau tại khớp… Viêm khớp thường xuất hiện ở các khớp nhỡ và lớn như: khớp gối, cổ chân, cổ tay… 
Biểu hiện khác là trên cơ thể bệnh nhân thấp tim thường xuất hiện các nốt cứng, không đau, di động xung quanh các khớp xương hoặc ngay trên khớp xương. Các dấu hiệu viêm tim (triệu chứng phổ biến với khoảng 41 - 83% bệnh nhân thấp tim): viêm màng ngoài tim, viêm màng trong tim, viêm cơ tim… 
Song có thể toàn bộ tim bị viêm làm trẻ có biểu hiện như: mệt mỏi, tức ngực, hồi hộp, khó thở, loạn nhịp tim hoặc có những tiếng bất thường ở tim. Tình trạng viêm tim nặng có thể dẫn đến suy tim cấp, nếu không được cứu chữa kịp thời có thể tử vong rất nhanh hoặc để lại di chứng ở van tim nặng nề nguy hiểm về sau. Với thể thấp tim đặc biệt thì trẻ có thể kèm theo rối loạn như: múa tay chân bất thường, nói khó, cầm đũa, bút viết hay rơi, viết xấu...
Điều trị thấp tim
Khi bị bệnh thấp tim, cần sử dụng kháng sinh trị viêm do liên cầu khuẩn, tránh tái phát. Bên cạnh đó, phải sử dụng thuốc chống viêm để giảm đau và chống viêm ở khớp và tim. Cần phải tiến hành đồng thời điều trị và dự phòng thấp tim bởi chúng liên quan chặt chẽ với nhau.
Thuốc điều trị:
Trong đợt cấp, cần loại bỏ ngay sự nhiễm liên cầu khuẩn bằng thuốc kinh điển benzathine penicillin G. Penicillin G tiêm bắp thịt trong thời gian 1 - 2 tuần. Hoặc penicillin V uống. Nếu dị ứng penicillin thì dùng thay bằng erythromycin.
Chống viêm khớp phải được bắt đầu càng sớm càng tốt ngay khi có chẩn đoán. Aspirin là thuốc được lựa chọn hàng đầu với viêm khớp đơn thuần, thường dùng kéo dài từ 4 - 6 tuần tùy thuộc vào diễn biến lâm sàng. Có thể giảm liều sau 2 - 3 tuần. Nếu sau khi dùng aspirin từ 24 - 36 giờ mà triệu chứng viêm khớp không thuyên giảm thì cần phải nghĩ đến nguyên nhân khác ngoài thấp tim.
Prednisolon cũng được khuyến cáo dùng cho những trường hợp có kèm viêm tim nặng, thường dùng kéo dài 2 - 6 tuần. Giảm liều dần trước khi dừng thuốc. Khi giảm liều prednisolon có thể dùng bổ sung thêm aspirin (liều lượng dùng theo chỉ định của thầy thuốc) và tiếp tục dùng trong 4 - 6 tuần sau khi đã ngừng prednisolon.
Với thể thấp tim nặng, có thể dùng steroid đường tĩnh mạch liều tấn công trong 2 - 3 ngày, sau đó chuyển uống prednisolon kéo dài trong 3 - 6 tuần. Sau đó, để duy trì thì giảm dần liều prednisolon và phối hợp với aspirin. Nếu bệnh nhân có suy tim cấp hoặc có bệnh van tim phối hợp thì phải dùng bổ sung các thuốc lợi tiểu, thuốc trợ tim.
Điều trị múa giật (sydenham) bao gồm các biện pháp nghỉ ngơi tại giường, tránh các xúc cảm và một số thuốc như: phenobarbital, diazepam, haloperidol hoặc các steroid.
Dự phòng thấp khớp cấp:
Ngăn ngừa các đợt thấp tái phát ở người đã bị thấp khớp cấp hoặc thấp tim. Dùng benzathin penicillin G tiêm bắp hoặc penicilin V uống hàng ngày. Với thấp khớp không có tổn thương tim dự phòng thấp trong 5 năm. Thấp tim có di chứng nhẹ ở một van tim, người lớn dự phòng 5 năm, trẻ em dự phòng cho tới 18 - 20 tuổi. Thấp tim di chứng van tim nặng cần dự phòng thấp tái phát cho tới 40 tuổi hoặc suốt đời.
Lời khuyên của thầy thuốc
Mặc dù bệnh thấp tim rất nguy hiểm nhưng có thể phòng được bằng cách luôn giữ môi trường sống sạch sẽ, vệ sinh cơ thể và vùng mũi họng thường xuyên, sạch sẽ, giữ ấm cổ, ngực, mũi họng về mùa đông, ăn uống đủ chất dinh dưỡng để nâng cao sức đề kháng. 
Khi thấy trẻ ở lứa tuổi từ 5 - 15 bị viêm họng nhiều lần có đau mỏi, sưng, nóng đỏ ở các khớp, mệt mỏi, tức ngực, khó thở hoặc hồi hộp, đau vùng tim hoặc có những biểu hiện bất thường về tâm thần vận động, tay múa vờn không tự chủ thì cần phải cho trẻ đi khám để phát hiện và điều trị thấp tim ngay. Không nên chữa bằng các biện pháp dân gian sẽ rất nguy hiểm cho trẻ về sau.



Tự ý dùng thuốc coi chừng hội chứng Lyell chết người

Rất nhiều người tự ý dùng thuốc để chữa bệnh cho mình mà không biết rằng họ có nguy cơ mắc hội chứng lyell.

Anh N.H.M, 25 tuổi, ngụ tại Cần Thơ đã tự ý dùng thuốc và sau đó được xe cấp cứu đưa đến BV da liễu TP.HCM trong tình trạng nguy cấp, da toàn thân bị tuột hết. Sau vài giờ nhập viện, bệnh nhân tử vong. Các bác sĩ cho biết anh bị hội chứng lyell do dị ứng thuốc.
Rất nhiều người tự ý dùng thuốc để chữa bệnh cho mình mà không biết rằng họ có nguy cơ mắc hội chứng lyell. Hội chứng lyell còn được gọi là hoại tử thượng bì nhiễm độc, là thể bệnh đặc biệt nặng của nhiễm độc da do dị ứng thuốc. Bệnh gây ra tình trạng tổn thương niêm mạc của toàn cơ thể như: Mắt, mũi, miệng, kèm theo sốt và tuột da từ đầu đến chân, tổn thương nội tạng. Bệnh rất khó trị nếu được phát hiện và điều trị kịp thời.
Tự ý dùng thuốc và chỉ vài viên thuốc nhỏ có thể gây chết người
Tự ý dùng thuốc và chỉ vài viên thuốc nhỏ có thể gây chết người

Trên thực tế, tỉ lệ bệnh nhân gặp phải hội chứng Lyell không cao như nguy cơ lại luôn tiềm tàng vì đôi khi nguyên nhân gây khởi phát tình trạng nguy kịch này chỉ là vài viên thuốc trị bệnh thông thường hoặc thuốc chống dị ứng, không cần kê đơn.
Nên uống thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ để tránh Hội chứng lyell do dị ứng thuốc
Nên uống thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ để tránh Hội chứng lyell do dị ứng thuốc

Cộng với thói quen mua và sử dụng thuốc tùy tiện, tự ý dùng thuốc của nhiều người thì nguy cơ gặp phải tình trạng dị ứng thuốc lại càng cao và việc xác định thủ phạm khi bị dị ứng lại càng khó.
Không hiếm những trường hợp dị ứng do uống thuốc như bà Nguyễn Thị Tư, 50 tuổi, nhà ngụ quận 6, TP.HCM. Vì thấy mắt đau xốn, khó chịu và đến ngay hiệu thuốc tây gần nhà để mua lọ thuốc nhỏ mắt về dùng.
Sau vài lần nhỏ, khỏi đau không thấy mà giác mạc mắt của bà bị loét, da phần mặt bị tuột. Và nguy hiểm hơn nữa là bà còn bị suy thận do hậu quả củ hội chứng lyell. Sau khi qua cơn nguy kịch, BV Da Liễu phải chuyển bà sang BV Chợ Rẫy để tiếp tục điều trị mắt và tình trạng suy thận. 
Nếu ngay từ đầu bà Tư chịu đi khám mắt để sử dụng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa mắt thì giờ đây chi phí điều trị có thể chỉ khoảng vài trăm nghìn đồng thay chi phí điều trị hiện tại đang lên đến con số vài chục triệu đồng.
Câu chuyện của bà Cao Thanh Hà, ngụ tại Phú Nhuận, từng điều trị tại Khoa Lâm Sàng 2, BV Da Liễu TP.HCM lại càng đáng sợ hơn. Bà bị ung thư vú, có người khuyên bà nên dùng thêm các loại thuốc từ lá cây. Chẳng ngờ, chỉ sau khi uống thang thuốc sắc đầu tiên, cơ thể bà nhanh chóng xuất hiện mảng đỏ, nổi bóng nước. Nhưng vì nhầm tưởng cơ thể bị tác dụng phụ do hóa trị nên bà lơ là. Mãi đến khi da bị tuột như người vừa bị xối nước sôi từ trên đầu xuống, bà mới hốt hoảng nhập viện.
Một bệnh nhân bị tuột da của hội chứng lyell do dị ứng thuốc
Một bệnh nhân bị tuột da của hội chứng lyell do dị ứng thuốc
Đa số không được phát hiện sớm
Theo nghiên cứu của khoa Lâm Sàng 2, BV Da Liễu TP.HCM, số người mắc hội chứng lyell ở tỉnh lân cận đến điều trị chiếm khoảng 70%. Không đơn tuần như các loại dị ứng thường gặp khác (nổi mề đay, chàm…) dị ứng thuốc vô cùng nguy hiểm. Đa phần bệnh nhân vào đến bệnh viện đã ở trong tình trạng rất nặng, sốt cao, người đỏ bóng, đau đớn vì da tuột từ phần đầu đi xuống.
Cũng là mất đi lớp da, cơ quan bảo vệ của cơ thể nhưng để điều trị một bệnh nhân gặp phải hội chứng lyell khó hơn rất nhiều so với bệnh nhân bỏng. Vì vết bỏng sẽ không lan khắp người như những mảng tuột da của bệnh nhân lyell. Nếu không phát hiện và điều trị kịp thời khả năng tử vong ở bệnh nhân lyell rất cao.
Tiếp tục câu chuyện của bà Hà, khi được gia đình đưa đến bệnh viện, bà đã đặt một chân mình vào cửa tử. Bà không chỉ sốt cao mà toàn thân còn bị tuột da, đỏ hỏn, miệng và đường tiêu hóa đã bị lở loét khiến việc ăn uống cực kỳ khó khăn. Rồi thêm cơ thể bị đau rát khắp nơi khiến cho cơ thể bà bị suy kiệt. Nhưng nhờ vào sự điều trị tích cực của các bác sĩ cùng mới sự may mắn của bản thân, cuối cùng bà cũng thoát khỏi bàn tay tử thần.
Tránh rước họa vào thân
Theo BS Trần Thị Thanh Thủy, Nguyên Trưởng Khoa Khám BV Da Liễu, TP.HCM: Bệnh nhân mắc hội chứng lyell sẽ được chăm sóc cách ly để hạn chế tối đa bị nhiễm trùng da, máu. Có thể nói đây là nguyên nhân chính khiến cho bệnh nhân tử vong.
Hội chứng này khiến cho bệnh nhân bị thiếu máu. Vì cơ thể huy động bạch cầu tăng lên để chống lại vi trùng, máu có nhiệm vụ dọn dẹp xác của bạch càu, điều này khiến cho bệnh nhân bị thiếu máu, giảm lympho (một loại tế bào trong máu), hạ albumin máu (đạm trong máu) do mất chất từ các vùng da bị tuột, mất nước, rối loạn điện giải.
Hệ tiêu hóa cũng bị ảnh hưởng với triệu chứng tăng men gan thoáng qua. Thông thường, quá trình tái tạo thượng bì bắt đầu trong vòng ba đến bốn ngày sau điều trị.
Không nên uống thuốc khi chưa được thăm khám, tư vấn từ bác sĩ
Không nên uống thuốc khi chưa được thăm khám, tư vấn từ bác sĩ

Đặc biệt, khi bệnh nhân bị hội chứng lyell có kèm theo các bệnh nan y như: Bệnh ung thư, việc điều trị sẽ càng khó khăn hơn vì cơ thể người bệnh có thể gặp phải tình trạng tăng đường huyết, tăng ure và bị giảm carbonat. Bệnh nhân sẽ được các bác sĩ đặt khuôn chóng dính ở mắt (giúp mắt mở ra được).
Đây là điều rất quan trọng, nếu không được đặt khuôn chống dinh mắt, khi điều trị thành công, da, niêm mạc đã liền nhưng mắt sẽ bị mù.
Cũng theo một nghiên cứu của bệnh viện Da liễu, TP. HCM, tác nhân gây gây dị ứng thuốc cao thường là thuốc giảm đau, đau khớp, đau mắt. Đây chỉ là nghiên cứu trên số ít bệnh nhân biết được mình dùng loại thuốc nào trước đó. Số đông còn lại không xác định và không nhớ được mình đã dùng thuốc gì. Tốt nhất bạn nên uống thuốc theo tao bác sĩ và luôn giữ lại toa thuốc để đề phòng những trường hợp không hay xảy ra.


Đau đầu do lạm dụng thuốc giảm đau

Bệnh nhân với các bệnh lý đau đầu từ trước, có lạm dụng thuốc điều trị, nếu xuất hiện dạng đau đầu mới hoặc tình trạng nặng lên thì cần cân nhắc chẩn đoán đau đầu do lạm dụng thuốc.

Đau đầu do thuốc nếu cơn đau đầu tiên xảy ra ngay sau thời điểm dùng thuốc và giảm dần hoặc biến mất sau khi ngưng dùng thuốc, bất chấp đặc điểm của cơn đau có thể giống với các thể đau đầu khác như đau đầu Migraine, đau đầu vận mạch...
Đau đầu cũng có thể được quy là do thuốc nếu tình trạng đau đầu đã có từ trước nhưng nặng lên ngay sau khi dùng thuốc. Có 2 thể đau đầu do thuốc thường gặp nhất là đau đầu do tác dụng phụ không mong muốn của thuốc và đau đầu do lạm dụng thuốc.
 Lạm dụng thuốc giảm đau có thể gây đau đầu.
Lạm dụng thuốc giảm đau có thể gây đau đầu.
Đau đầu do tác dụng không mong muốn của thuốc
Có thể xảy ra với nhiều loại thuốc khác nhau. Các dẫn xuất của nitơ oxit (NO) như amyl nitrate, erythrityl tetranitrate, isosorbide mono hoặc dinitrate, natri nitroprusside, nitroglycerin, mannitol hexanitrate, pentaerythritol tetranitrate và trinitrate phosphate đều có thể gây các cơn đau đầu cấp hoặc khá muộn sau dùng thuốc.
Đau đầu cấp do nhóm thuốc này thường ở vùng thái dương - đỉnh, đối xứng 2 bên, dao động theo nhịp mạch và bị khởi phát bởi hoạt động thể lực. Với thuốc tiêm truyền, đau đầu thường xảy ra sau tiêm thuốc 2-5 phút và kéo dài khoảng 10 phút sau khi ngưng tiêm truyền.
Đau đầu muộn do nhóm thuốc này ít khi xuất hiện ở người khỏe mạnh mà thường gặp ở những người có bệnh đau đầu từ trước như đau đầu Migraine. Các cơn đau đầu muộn này thường gặp ở vùng thái dương đỉnh, xuất hiện từ 1-5h sau khi thuốc đã được thải trừ khỏi máu.
Đau đầu do nitroglycerin có thể giảm dần nếu thuốc được sử dụng liên tục trong ít nhất 1 tuần. Isosorbide mononitrate thường gây đau đầu kéo dài hơn so với nitroglycerin do thuốc được thải trừ chậm hơn.
Các thuốc ức chế men phosphodiesterase như sildenafil (viagra) và dipyridamole cũng có thể gây đau đầu. Nghiên cứu cho thấy, sildenafil có thể gây ra các cơn đau đầu một pha ở phần lớn những người trẻ tuổi dùng thuốc, đặc biệt là phụ nữ và những người có bệnh đau đầu Migraine.
Đặc điểm của đau đầu do sidenafil tương tự như đau đầu do các dẫn xuất NO, nhưng thường xuất hiện tương đối muộn (trong vòng 5 giờ sau dùng thuốc) và kéo dài trong khoảng 3 ngày, có thể xảy ra chỉ sau một liều đơn lẻ của thuốc.
Một số thuốc khác có thể gây đau đầu với các mức độ khác nhau như nifedipine, thuốc hạ mỡ máu statin (simvastatin, atorvastatin…), viên tránh thai, các thuốc chống viêm giảm đau (meloxicam, diclofenac…).
Đau đầu do lạm dụng thuốc:
Bệnh nhân có các bệnh lý đau đầu mạn tính như đau đầu Migraine thường có xu hướng lạm dụng các thuốc giảm đau, ergotamine hoặc nhóm triptan. Bản thân sự lạm dụng này có thể gây ra các cơn đau đầu mạn tính hằng ngày, điều này làm người bệnh bị lệ thuộc vào các thuốc cắt triệu chứng và giảm hiệu quả của điều trị dự phòng.
Ngưng dùng các thuốc này có thể gây ra hội chứng cai thuốc với biểu hiện buồn nôn, đau đầu tăng dần trong một thời gian, sau đó, tình trạng sẽ có thể được cải thiện.
Ở những bệnh nhân với các bệnh lý đau đầu từ trước và có lạm dụng các thuốc điều trị, nếu xuất hiện các dạng đau đầu mới hoặc tình trạng đau đầu nặng lên thì cần được cân nhắc chẩn đoán đau đầu do lạm dụng thuốc.
Các nhóm thuốc được chứng minh là có thể gây ra đau đầu do lạm dụng thuốc là ergotamine, nhóm triptan, các thuốc chống viêm giảm đau, các dẫn xuất thuốc phiện và thuốc phối hợp của các nhóm này
Đau đầu do lạm dụng thuốc xảy ra ở nữ giới nhiều gấp 3 - 4 lần so với nam giới. Trong điều trị, người bệnh cần có chế độ sinh hoạt điều độ, giảm bớt các sang chấn tâm lý và tập luyện thể dục thể thao.
Đau đầu do thuốc, cảnh báo việc lạm dụng thuốc chữa đau đầu
Đối với bệnh nhân điều trị ngoại trú tại nhà, có 2 chiến lược điều trị cơ bản được áp dụng:
+ Giảm dần liều dùng của các thuốc đang bị lạm dụng và thay thế dần bằng một thuốc chống viêm giảm đau tác dụng kéo dài;
+ Ngừng ngay lập tức các thuốc đang bị lạm dụng và thay thế bằng một thuốc trung gian như các thuốc chống viêm giảm đau (như naproxen), dihydroergotamine, methylergonovine hoặc corticosteroid.
+ Khi ngưng đột ngột các thuốc đang bị lạm dụng, cần lưu ý phòng ngừa hội chứng cai thuốc.
Ví dụ như hội chứng cai thuốc do ngưng dùng đột ngột butalbital có thể được dự phòng bằng phenobarbital liều thấp. Nếu điều trị ngoại trú thất bại hoặc không an toàn, người bệnh cần được điều trị tại bệnh viện.
Các vấn đề cơ bản của điều trị nội trú đối với đau đầu do lạm dụng thuốc bao gồm: khử độc, bù dịch, giảm đau bằng các thuốc tiêm truyền, dự phòng có hiệu quả đau đầu, cắt chu kỳ đau đầu, giáo dục người bệnh và tìm kiếm phương pháp kiểm soát đau đầu sau khi xuất viện


Lưu ý khi sử dụng thuốc ở người cao tuổi

Người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh hơn, phải dùng nhiều thuốc hơn và thường là bệnh mạn tính. Một bệnh đã phải dùng vài ba thuốc nhân lên với vài ba bệnh.

Vì thế người cao tuổi là đối tượng tiêu thụ thuốc nhiều nhất nên khi sử dụng cần cảnh giác với các tác dụng phụ không mong muốn (ADR) ở đối tượng này. Tỷ lệ ADR ở lứa tuổi 60-70 có thể gấp đôi tỷ lệ ở người 30-40 tuổi.. .
Một số nguy cơ do thuốc
- Rối loạn giấc ngủ: Khi điều trị bệnh cho người cao tuổi một số thuốc gây nên sự rối loạn này như thuốc giãn phế quản (gây khó ngủ), thuốc lợi tiểu (gây mất ngủ do tiểu tiện đêm), thuốc corticoid (dùng lâu ngày có thể gây chứng ngừng thở khi ngủ)…
- Tụt huyết áp tư thế đứng: (rất hay xảy ra với người cao tuổi), đó là các thuốc an thần, gây ngủ; các thuốc chống parkingson, các thuốc hạ huyết áp, thuốc kháng histamin H1 (chlopheniramin, các thuốc cảm cúm). Người cao tuổi khi uống thuốc này nên thận trọng trong việc đổi tư thế. Ví dụ, khi uống thuốc đang ngồi đứng dậy phải từ từ. Nếu đứng bật dậy rất dễ gây tụt huyết áp tư thế đứng (thấy choáng váng) rất nguy hiểm.
- Rối loạn nhận thức: có một số thuốc có tác dụng phụ gây lú lẫn, hay quên, mất trí nhớ như thuốc chống trầm cảm, thuốc chống co giật (phenytoin hay barbiturat), thuốc trị tăng huyết áp… Thậm chí một số kháng sinh cũng có những tác dụng phụ này. Ở người cao tuổi, đây là rối loạn rất dễ nhầm với hiện tượng lão suy làm sút giảm trí tuệ.
- Mất thăng bằng tư thế, gây ngã ở người cao tuổi: cùng với tuổi tác khả năng giữ thăng bằng của cơ thể giảm kết hợp với tác dụng phụ của thuốc (làm cho cơ thể mất khả năng điều hoà tư thế) rất dễ gây ngã. Ngã của người cao tuổi rất nguy hiểm vì lúc này xương đã bị loãng (mất can-xi trong xương, mất cả độ mềm dẻo của xương) nên xương giòn rất dễ gãy và khó liền. Một số thuốc cần lưu ý như thuốc trị tăng huyết áp (dễ gây hạ huyết áp tư thế đứng), thuốc an thần nhóm benzodiazepin, thuốc chống trầm cảm (làm rối loạn sự giữ thăng bằng làm người cao tuổi dễ ngã )…
- Giảm điều hoà thân nhiệt: ở người cao tuổi khả năng điều hoà thân nhiệt giảm. Một số thuốc: nhóm phenothiazin, benzodiazepin, opid (codein, proprapamin)... rất dễ gây hạ thân nhiệt ở người cao tuổi. Nếu hạ quá không biết để cấp cứu kịp thời rất dễ gây tử vong.
- Rối loạn hoạt động tình dục: Không chỉ do quá trình tuổi tác mà có nhiều loại thuốc trong thời gian sử dụng ảnh hưởng đến hoạt động tình dục ở người cao tuổi. Ví dụ, các thuốc tác động trên hệ thần kinh trung ương (thuốc chống trầm cảm, thuốc trị tăng huyết áp như methyldopa, chẹn beta, reserpin…) có thể làm giảm ham muốn, gây "bất lực" ở nam giới.
Người cao tuổi không nên tự ý sử dụng thuốc.
Và lưu ý khi sử dụng
Người cao tuổi do giảm nhu động ruột, giảm tiết dịch nên hay bị táo bón. Do vậy tỷ lệ người cao tuổi dùng thuốc nhuận tràng cũng nhiều hơn. Khi dùng một thuốc nào đó cùng với thuốc nhuận tràng rất có thể thuốc đó sẽ bị tống ra ngoài sớm (do thuốc nhuận tràng làm tăng nhu động ruột) sẽ làm giảm hấp thu làm cho tác dụng của thuốc dùng đồng thời với thuốc nhuận tràng giảm hoặc mất tác dụng. Khi bán thuốc cho người cao tuổi nên hỏi xem họ có đang dùng thuốc nhuận tràng hay không (có thể tự dùng hoặc bác sĩ kê dùng).
Cùng với tuổi tác càng cao thì trí nhớ của người cao tuổi sẽ giảm nên khi dùng thuốc người cao tuổi có thể quên tên thuốc, liều dùng hoặc nhầm lẫn thuốc, liều dùng... Điều này sẽ rất nguy hiểm nên khi dùng thuốc cần có sự trợ giúp của người thân (con, cháu..)
Đau xương khớp, loãng xương ở người cao tuổi khiến họ ngại vận động nên uống thuốc ở tư thế nằm làm cho thuốc không xuống tới dạ dày kết hợp với lượng nước uống ít nên thuốc đọng lại ở thực quản (gây loét với một số thuốc), gây sỏi thận (như sulffamid) nếu uống ít nước. Vì thế, khi uống thuốc nên ở tư thế đứng, và uống với nhiều nước.
Song song với việc lựa chọn những thuốc đặc hiệu trong điều trị thì việc lựa chọn những thuốc có dạng dễ sử dụng là một việc làm cần lưu tâm.
Độ tinh tường của mắt người cao tuổi bị giảm sút nên cần ưu tiên những thuốc có nhãn to rõ để người già dễ đọc, dễ lấy chính xác. Trong các loại thuốc uống, thì có lẽ những thuốc dạng viên là gây khó chịu nhất với người cao tuổi, nhất là những viên thuốc đóng kích cỡ quá to vì chúng rất khó nuốt. Hãy ưu tiên sử dụng những thuốc dạng viên nhỏ hay dạng nước trong kê đơn điều trị.
Để phát huy cao nhất hiệu quả điều trị của thuốc và hạn chế thấp nhất các tai biến do thuốc gây nên người cao tuổi không nên tự ý sử dụng thuốc. Khi đang sử dụng thuốc nếu thấy có biểu hiện bất thường, không nên tự ý bỏ hoặc ngừng thuốc hay thay thế thuốc khác mà phải báo cho bác sĩ biết để có cách xử lý phù hợp.


Thuốc giảm đau nhóm Opioid và các nguy cơ khi sử dụng

Nhóm thuốc opioid là nhóm thuốc mang lại hiệu quả cao trong điều trị giảm đau, đặc biệt là giảm đau do ung thư.

Tuy nhiên, việc sử dụng nhóm thuốc opioid trong một thời gian dài, cần phải hết sức thận trọng.
Nhóm thuốc opioid
Các thuốc opioid thuộc nhóm thuốc kê đơn và thường được các thầy thuốc chỉ định trong điều trị giảm đau do chấn thương hay do phẫu thuật và trong các bệnh lý mạn tính như: ung thư… Ngoài ra, trong thành phần một số loại thuốc ho cũng có chứa thuốc opioid.
Cơ chế tác động
Khi vào cơ thể, thuốc opioid sẽ liên kết với các thụ thể opioid tập trung nhiều ở hệ thống thần kinh trung ương, ngoại biên và đường tiêu hóa… Tác động giảm đau của thuốc opioid là làm giảm phản ứng đau của cơ thể do giảm truyền các tín hiệu đau đến não và tăng ngưỡng chịu đau của cơ thể.
Phân loại
Thuốc opioid được chia làm 2 nhóm: nhóm có nguồn gốc tự nhiên chiết xuất từ thuốc phiện (opium, morphin, codein) và nhóm có nguồn gốc tổng hợp (hydrocodon, heroin, fentanyl, tramadol…).
Tác dụng phụ
Khi sử dụng nhóm thuốc opioid, cần lưu ý một số tác dụng phụ có thể xảy ra:
- Buồn ngủ (tránh sử dụng cho người lái xe, vận hành máy móc…).
- Chóng mặt, buồn nôn.
- Suy hô hấp.
- Táo bón.
- Gây hưng phấn, ảo giác…
Thuốc giảm đau nhóm Opioid và các nguy cơ khi sử dụng
Opioid làm giảm phản ứng đau của cơ thể do giảm truyền các tín hiệu đau đến não và tăng ngưỡng chịu đau của cơ thê
Các nguy cơ khi sử dụng nhóm thuốc opioid
Thuốc opioid tương đối an toàn khi sử dụng trong thời gian ngắn, với liều lượng chính xác theo chỉ định của thầy thuốc. Tuy nhiên, khi sử dụng thuốc opioid trong một thời gian dài, có thể gây ra các nguy cơ sau:
Nguy cơ dung nạp thuốc (drug tolerance):
Nguy cơ dung nạp thuốc xảy ra khi liều đáp ứng điều trị ban đầu của thuốc opioid, mất dần tác dụng theo thời gian. Muốn đạt hiệu quả điều trị, cần phải tăng liều dùng thuốc opioid.
Nguy cơ lệ thuộc thuốc (drug dependence):
Nguy cơ lệ thuộc thuốc xảy ra khi sử dụng thuốc opioid trong một thời gian dài, cơ thể dần thay đổi và lệ thuốc vào thuốc. Khi ngưng sử dụng thuốc, cơ thể sẽ xuất hiện các triệu chứng "cai thuốc" như run rẩy, nôn ói, tiêu chảy, mất ngủ, trầm cảm…
Để phòng tránh nguy cơ lệ thuộc thuốc, các thầy thuốc sẽ thay thế bằng một loại thuốc giảm đau khác và đồng thời giảm dần liều dùng thuốc opioid cho đến khi cơ thể không còn lệ thuộc vào thuốc và các triệu chứng cai thuốc biến mất!
Nguy cơ nghiện thuốc (Addiction):
Thuốc opioid mang lại ảo giác khoái cảm cho người sử dụng. Khi lạm dụng thuốc opioid trong một thời gian dài để tìm ảo giác khoái cảm, sẽ đưa đến nguy cơ nghiện thuốc!
Khác với hai nguy cơ trên là những phản ứng không mong muốn của thuốc gây ra cho cơ thể người sử dụng, nguy cơ nghiện thuốc được xem là một dạng bệnh lý!
Người nghiện thuốc không cưỡng lại được sự thôi thúc sử dụng thuốc để thỏa mãn con thèm thuốc, bất chấp các tác hại do thuốc gây ra.
Khi ngừng sử dụng thuốc, ở người nghiện thuốc cũng sẽ xuất hiện các triệu chứng cai thuốc.
Nguy cơ nghiện thuốc còn xảy ra ở các đối tượng sử dụng các thuốc opioid không phải để điều trị giảm đau, mà như là một chất ma túy để tìm ảo giác.
Hiện nay để điều trị nghiện heroin (một opioid được xếp vào nhóm chất ma túy gây ảo giác), methadon đã được sử dụng làm chất thay thế do an toàn và ít gây tác hại hơn heroin.
Trong quá trình điều trị giảm đau với thuốc opioid, người bệnh cần tránh lạm dụng thuốc, tuân theo các chỉ định của thầy thuốc về liều lượng và thời gian sử dụng một cách chặt chẽ, sẽ giúp phòng tránh các nguy cơ có thể xảy ra!


Doanh nhân dùng thuốc: Có tiền chưa chắc là tốt!

Thuốc chữa bệnh hoặc bồi bổ nâng cao sức khỏe bây giờ có khá nhiều loại, với nhiều nhóm thuốc có cùng tác dụng nhưng giá tiền khác nhau. Phải lưu ý thuốc đắt tiền chưa chắc đã là thuốc tốt.
Muốn có sức khỏe tốt, có thể là chung sống với một số bệnh mạn tính, bạn phải quan tâm đến những điều sau đây khi dùng thuốc.
Thuốc là gì?
Phần lớn các thuốc đang dùng hiện nay đều có nguồn gốc hóa học hoặc là sản phẩm của công nghệ sinh học. Những chất này được đưa vào cơ thể để phát huy tác dụng chữa bệnh nhưng đồng thời dù ít hay nhiều đều gây nên một số tác dụng không mong muốn, trong đó có những phản ứng có hại, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cơ thể, từ các cơ quan nội tạng cũng như bên ngoài. 
Khoa học đã chứng minh: những chất hóa học tạo ra trong quá trình chuyển hóa thuốc trong cơ thể, tuy có một số bị đào thải ra ngoài, song cũng có chất đã tích tụ dần dần qua ngày tháng và gây nên tình trạng lão hóa.
Một số thuốc nội tiết tố có thể gây ra hiện tượng rối loạn hoóc-môn và suy giảm hoóc-môn nếu sử dụng không đúng quy định. Những thuốc có chất cồn, caffein cũng có thể ảnh hưởng đến sự suy giảm nội tiết sớm. Hầu hết các thuốc kháng sinh, giảm đau, thuốc điều trị tim mạch, đái tháo đường, béo phì, loãng xương, hội chứng suy giảm trí nhớ đều có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới gan và thận. 
Nên nhớ rằng, thuốc không phải lúc nào cũng là người bạn tốt đối với trao đổi chất trong cơ thể. Không dùng thuốc nếu không thực sự cần thiết. Nên hạn chế những thức ăn nhiều chất béo, tập thể thao, ngủ đủ giấc, hạn chế rượu bia, thuốc lá và những thức uống có caffein sẽ giúp bạn duy trì được vẻ tươi trẻ.
Khi doanh nhân dùng thuốc
Những doanh nhân có bệnh mạn tính như: tăng huyết áp, đái tháo đường, viêm loét dạ dày tá tràng, hen… phải dùng thuốc liên tục trong một thời gian dài cần có sự hướng dẫn đặc biệt phù hợp với tình trạng bệnh của người dùng thuốc. Lựa chọn dạng thuốc, loại thuốc phù hợp với người bệnh là điều kiện đầu tiên để người bệnh xác định mình phải dùng loại thuốc này trong bao lâu, mỗi ngày dùng liều như thế nào. 
Thuốc chữa bệnh cũng như những hoạt chất ngoại lai khác, nếu cơ thể người bệnh tích tụ lâu dần mỗi ngày một ít thì những phản ứng có hại ảnh hưởng đến cơ thể sẽ đến. Vì vậy, cần cân nhắc kỹ trước khi chọn sử dụng bất cứ một loại thuốc nào dài ngày.
Bạn phải là những người thông thái khi dùng thuốc để nó giúp bạn duy trì sức khỏe
Bạn phải là những người thông thái khi dùng thuốc để nó giúp bạn duy trì sức khỏe
Việc dùng thêm các thuốc bổ trợ trong quá trình dùng thuốc dài ngày là điều cần thiết. Tuy nhiên, dùng thuốc nào và dùng như thế nào cần phải theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Tuyệt đối không tự ý mua thêm các thuốc bổ sung vitamin, thực phẩm chức năng, thuốc Đông y để dùng đồng thời khi chưa có ý kiến của chuyên gia. 
Đối với một số bệnh mạn tính như: tim mạch, đái tháo đường, việc dùng thuốc bổ sung phải lựa chọn hết sức thận trọng. Tình trạng huyết áp, đường huyết có thể thay đổi theo hướng xấu đi nếu lựa chọn thuốc phối hợp không đúng và gây ra những tương tác bất lợi. Nếu đang dùng thuốc điều trị tăng huyết áp cần tuyệt đối tránh các thuốc làm huyết áp lại tăng lên như các chất phối hợp kháng dị ứng, trị sổ mũi, nghẹt mũi có trong thành phần của nhiều loại thuốc trị cảm sốt. 
Với các thuốc điều trị bệnh tim mạch nói chung và thuốc điều trị tăng huyết áp nói riêng, cần phải theo dõi chặt chẽ tình trạng cơ thể của người bệnh, đặc biệt là phải đo huyết áp hàng ngày để có hướng dùng thuốc thích hợp. Với các thuốc được quảng cáo như là thực phẩm chức năng hoặc thuốc bán trên thị trường không cần kê đơn phải hết sức thận trọng để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra khi huyết áp tăng, giảm đột ngột vì không được duy trì ở tình trạng ổn định với các thuốc đã quen dùng.
Doanh nhân là những người có thể mua được nhiều loại thuốc đắt tiền, song bạn phải là những người thông thái khi dùng thuốc để nó có thể giúp bạn duy trì sức khỏe xứng với đồng tiền bát gạo bạn đã chi vào đó. Đừng để lãng phí một khoản tiền lớn vào thuốc men mà nhiều khi lại mua rắc rối vào công việc của bạn.
Miếng phomát không mất tiền chỉ có trong bẫy chuột mà thôi. Vì vậy cái gì cũng phải học, phải tích lũy kinh nghiệm. Đối với việc dùng thuốc cũng thế.


Thuốc điều trị chứng ngứa dương vật

Ngứa dương vật, còn ảnh hưởng đến quan hệ tình dục và những sinh hoạt hàng ngày, khi cơn ngứa xảy ra vào ban đêm thường gây ra mất ngủ.
Nguyên nhân và triệu chứng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngứa dương vật như:
- Do ẩm ướt, vệ sinh kém.
- Dị ứng hoặc kích ứng với các thành phần của xà phòng, chất tẩy rửa, chất liệu của quần lót hay mặc quần lót quá chật…
- Các bệnh lý gây ra do virút (mụn rộp sinh dục), vi khuẩn (viêm bao quy đầu, bệnh lậu…), ký sinh trùng (bệnh ghẻ, rận mu, nhiễm trichomonas…) hay do nhiễm nấm (nấm bẹn).
Ngoài những nguyên nhân đã xác định trên, còn có dạng không xác định được nguyên nhân, được gọi là vô căn.
Triệu chứng: ngứa; đỏ da; sưng; đau; bỏng rát; nổi mụn nước.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngứa dương vật
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngứa dương vật
Nhiễm khuẩn: tiết dịch, có mùi hôi.
Các triệu chứng có thể biểu hiện với mức độ nặng nhẹ khác nhau và xảy ra trong một thời ngắn hay kéo dài tùy theo nguyên nhân gây bệnh.
Thuốc điều trị ngứa dương vật
Thuốc được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật tùy theo nguyên nhân gây ra bệnh. Sau đây là các nhóm thuốc thường được sử dụng:
Nhóm thuốc kháng histamin H1:
Nhóm thuốc kháng histamin H1 thường được dùng ở dạng thuốc viên, có tác dụng ngăn chặn sự hoạt động của histamin gây ngứa, nên thường được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật.
Thuốc kháng histamin H1 được chia làm 2 loại:
Loại thế hệ cũ (chlorpheniramin, dexchlorpheniramin…) tác động ức chế lên hệ thần kinh trung ương nên gây buồn ngủ (cần tránh sử dụng khi lái xe, vận hành máy móc..). Các thuốc này sử dụng thích hợp khi NAD gây mất ngủ.
Loại thế hệ mới (Loratadin, cetirizin…) do không tác động lên hệ thần kinh trung ương nên không gây buồn ngủ.
Nhóm thuốc corticosteroid:
Nhóm thuốc corticosteroid (hydrocortison, betamethason, prednisolon..) thường được dùng ở dạng thuốc viên, thuốc mỡ, kem…, có tác dụng kháng viêm, kháng dị ứng chống ngứa, nên được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật.
Hai nhóm thuốc trên thường được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do dị ứng.
Nhóm thuốc bảo vệ da:
Nhóm thuốc bảo vệ da (glycerin, bơ ca cao, mỡ cừu…) được dùng ở dạng thuốc dùng ngoài như: thuốc mỡ, kem… tạo thành một lớp bảo vệ da ngăn chặn các mô bị khô, giúp giảm ngứa, bỏng rát… do ngứa dương vật gây ra.
Nhóm thuốc làm se da:
Nhóm thuốc làm se da (calamin, oxid kẽm…) được dùng ở dạng thuốc dùng ngoài như: thuốc mỡ, kem… có tác dụng làm đông tụ protein tại chỗ nên làm se da, bảo vệ da khỏi bị ngứa, bỏng rát… do ngứa dương vật gây ra.
Hai nhóm thuốc trên thường được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do kích ứng.
Nhóm thuốc kháng virút:
Nhóm thuốc kháng virút thường dùng ở dạng thuốc dùng ngoài, thuốc viên có chứa hoạt chất kháng virút như: acyclovir, famciclovir, valacyclovir… được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do bệnh mụn rộp sinh dục (còn gọi herpes sinh dục). Bệnh mụn rộp sinh dục do virút HSV2 (Herpes simplex virút 2) gây ra.
Nhóm thuốc kháng nấm:
Nhóm thuốc kháng nấm thường dùng ở dạng thuốc dùng ngoài, thuốc viên có chứa hoạt chất kháng nấm như: nystatin, clotrimazol, miconazol… được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do nấm bẹn. Nấm bẹn (tinea cruris) do một loại nấm da gây ra, xuất hiện ở bẹn và quanh cơ quan sinh dục, với những mảng đỏ nâu, có vảy và bờ viền, gây ngứa.
Nhóm thuốc kháng Trichomonas:
Nhóm thuốc kháng Trichomonas thường dùng ở dạng thuốc viên, thuốc dùng ngoài có chứa hoạt chất như: metronidazol, ternidazol… được sử dụng trong điều trị do nhiễm Trichomonas.
Nhóm thuốc kháng sinh:
Nhóm thuốc kháng sinh thường dùng ở dạng thuốc viên, thuốc dùng ngoài có chứa kháng sinh phổ rộng như neomycin, polymycin, chloramphenicol… được sử dụng trong điều trị do vi khuẩn.
Nhóm thuốc trị rận mu:
Rận mu (pubic lice) là một loại ký sinh trùng nhỏ sống ký sinh và đẻ trứng ở lông mu của bộ phận sinh dục nam gây ra ngứa dương vật. Rận mu được lây truyền khi tiếp xúc khăn tắm, áo quần… hay quan hệ tình dục với người bị nhiễm rận mu.
Nhóm thuốc trị rận mu thường ở dạng thuốc dùng ngoài (dầu gội đầu, kem) có chứa hoạt chất pyrethrins hay permethrin 1%... được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do rận mu.
Nhóm thuốc trị bệnh ghẻ:
Bệnh ghẻ do một loại ký sinh trùng rất nhỏ gọi là con mạt (mite) sống ký sinh ở quanh bộ phận sinh dục nam gây ra ngứa dương vật. Bệnh ghẻ lây truyền nhanh khi giữ vệ sinh kém hay có sự tiếp xúc với áo quần, khăn tắm… hay quan hệ tình dục với người bị nhiễm bệnh ghẻ.
Nhóm thuốc trị bệnh ghẻ thường ở dạng thuốc dùng ngoài (kem, lotion) có chứa hoạt chất Permethrin 5% hay Crotamiton 10% được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do bệnh ghẻ.
Bên cạnh việc sử dụng thuốc, việc phòng tránh là rất quan trọng như: thường xuyên tắm rửa vệ sinh thân thể, giữ khô vùng sinh dục, tránh sử dụng các chất gây kích ứng hay dị ứng, không dùng chung khăn tắm, áo quần hay quan hệ tình dục với người nhiễm bệnh, không mặc quần lót bó sát…



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons