Thứ Hai, 20 tháng 7, 2015

Khi người viêm gan dùng thuốc

Người bị bệnh viêm gan dùng các thuốc chữa bệnh khác rất khó, nếu tự ý dùng sẽ bị sai sót, dẫn đến tai biến.

Thuốc có tính độc với gan và không có tính độc với gan
Về tổng thể, có thể chia (một cách tương đối) toàn bộ thuốc ra làm 2 nhóm:
Những thuốc mà người bình thường khỏe mạnh vốn không bị bệnh gan nhưng khi dùng chúng đúng chỉ định, đúng liều lại bị tổn thương gan, được xếp vào nhóm thuốc có tính độc với gan hay còn gọi thuốc gây viêm gan. Những thuốc mà người bình thường khỏe mạnh, trước đó không bị bệnh gan, dùng đúng chỉ định, đúng liều, sẽ không gây tổn thương gan được xếp vào nhóm thuốc không có tính độc với gan hay còn gọi là thuốc không gây viêm gan.
Trong hai định nghĩa này không bao gồm trường hợp người dùng trước đó đã bị bệnh gan hoặc dùng không đúng chỉ định, không đúng liều. Nếu không tuân theo điều kiện giới hạn này, có khi xếp nhóm này vào nhóm khác. Có thể nêu một số thí dụ:
Paracetamol khi uống sẽ chuyển thành chất trung gian có độc cho gan.Nếu dùng đúng chỉ định là để làm giảm đau và đúng liều (mỗi ngày 2 - 4 viên tương đương 1 - 2g) thì chất trung gian ấy sinh ra ít, gan sản xuất đủ glutathion để hóa giải nên không bị hại. Tuy nhiên, khi dùng liều quá cao (mỗi ngày 16 - 24 viên tương đương 8 - 12g) thì chất trung gian gây độc cho gan sinh ra quá nhiều, gan không thể sản xuất đủ glutathion để hóa giải nên bị viêm gan cấp (hoại tử gan, tử vong).
Đây không phải lỗi do bản chất thuốc mà là lỗi do người dùng (dùng liều quá cao) Vì thế, paracetamol vẫn được coi là thuốc hiền lành (tuổi nào cũng dùng được, kể cả trẻ sơ sinh), bán không cần đơn (thuốc OTC) mà không xếp vào nhóm thuốc có tính độc với gan.
Corticoid vốn không có tính độc với gan. Tuy nhiên, khi dùng cho người viêm gan bị phù, cổ trướng thì do corticoid giữ nước nên làm nặng thêm bệnh này. Các thuốc an thần lợi tiểu táo bón… cũng không có tính độc với gan nhưng khi dùng cho người bệnh não do gan thì làm cho bệnh này nặng thêm. Cần tuân theo các "điều kiện giới hạn" đã nêu trong định nghĩa để khỏi xếp nhầm nhóm.
Người viêm gan dùng thuốc chữa bệnh khác thế nào?
Với nhóm không có tính độc với gan:
Người viêm gan dùng nhóm thuốc này cũng có thể bị tác hại:
Người bị viêm gan, chức năng gan suy giảm, sẽ ảnh hưởng đến dược động học của thuốc, làm thay đổi hoạt tính, tác dụng phụ nên có thể gây ra các tại biến khác nhau, kể cả tai biến về gan. Một số thí dụ:
Thông thường, thuốc vào máu sẽ gắn kết với protein của huyết tương thành dạng phức hợp, sau đó dưới tác động của gan mới giải phóng trở lại thành dạng tự do, rồi chuyển hóa thành các chất trung gian có hoạt tính, hoặc các chất trung gian không độc thải ra khỏi cơ thể qua đường phân hay nước tiểu. 
Người bị viêm gan nặng, chức năng sản xuất albumin của gan suy giảm, sự gắn kết giữa thuốc với protein với huyết tương bị giảm, do đó thuốc tồn tại dưới dạng tự do trong máu với tỉ lệ cao, làm tăng độ độc như các thuốc phenytoin, prednisolon.
Khi người viêm gan dùng thuốc
Gan có chức năng sản xuất các yếu tố đông máu. Khi viêm gan, chức năng gan suy giảm, các yếu tố đông máu bị thiếu. Do đó, thời gian đông máu kéo dài ra, thậm chí không đông. Lúc này, nếu bị chấn thương chảy máu, dùng thuốc cầm máu (gây đông máu) thì hiệu lực thuốc cầm máu bị gảm, sự cầm máu sẽ bị chậm trễ hay không cầm máu được. 
Ngược lại khi bị bệnh làm đông máu (tạo ra cục máu đông làm nghẽn mạch), cần dùng một thuốc chống đông (để làm tan cục máu đông ra, trả lại sự thống thoáng mạch) thì hiệu lực thuốc chống đông tăng quá mức, có thể gây ra tác dụng phụ chảy máu.
Người bị viêm gan ứ mật, chức năng sản xuất lẫn tiết mật bị đình trệ. Do thế, sự chuyển hóa thuốc lần đầu bị giảm, thuốc không bị mất đi nhiều, từ đó sinh khả dụng của thuốc tăng; ngược lại cũng do thiếu mật, các chất mỡ không được nhũ hóa để hấp thu, các thuốc tan trong mỡ sẽ hấp thu ít, từ đó sinh khả dụng của thuốc bị giảm.
Người viêm gan dùng nhóm thuốc này thế nào?
Trước hết vì các thuốc này không có tính độc với gan nên người viêm gan vẫn có thể dùng; tuy nhiên cần thận trọng chủ yếu là phải điều chỉnh liều lượng cho phù hợp. Có thể trở lại ví dụ đã nếu ở trên: người bị viêm gan, gan không sản xuất đủ các yếu tố đông máu nên thời gian đông máu kéo dài ra làm cho hoạt tính của thuốc chống đông máu bị tăng lên; nếu cần dùng thuốc chống đông máu thì cần giảm liều dùng để tránh tác dụng phụ gây chảy máu.
Với nhóm có tính độc với gan:
Có rất nhiều nhóm thuốc có tính độc với gan, trong đó có các nhóm chính sau:
Nhóm kháng sinh: gây độc cho gan bằng nhiều cách, với các mức khác nhau. Một số thí dụ: ngay trong nhóm kháng sinh macrolid thì clarithromycin, azithromycin chủ yếu chỉ làm tăng enzyme AST (aminostranferase), bilirubin trong máu kèm theo vàng da tăng bạch cầu ưa eosin; trong khi đó, tellimycin không chỉ gây độc cho gan theo cơ chế này mà còn làm tổn thương tế bào gan với tần suất vượt hẳn hai thuốc trên, còn treoandomycin lại gây độc cho gan theo cách hỗn hợp rất nguy hiểm. 
Tettracyclin dạng uống có thể gây thâm nhiễm mỡ gan bọng nhỏ, song không gây hậu quả về lâm sàng; tuy nhiên khi dùng dạng tiêm tĩnh mạch cho nữ mang thai lại có nguy cơ cao gây suy gan. Kháng nấm griseopulvin gây ứ mật.
Nhóm thuốc chống lao: tạo ra các chất độc, tác động lên protein của tế bào, làm hoại tử tế bào gan, hoặc tạo ra các phức hợp kháng nguyên kích thích tế bào lympho T đưa đến phản ứng miễn dịch gây nhiễm độc gan. Tỉ lệ mắc khoảng 0,6 - 3% trên số người dùng. Trong số đó, đa số do pyrazinamid (82%) thứ đến do isoniazid chiếm (9%), ít nhất do rifampicin (1%). 
Trong điều trị lao, thường dùng nhiều thuốc. Phải dò tìm "thủ phạm" bằng cách: cho ngừng dùng thuốc; điều trị cho enzyme gan trở lại bình thường; sau đó, cho dùng thử từng loại, đủ liều trong khoảng một tuần, thuốc nào làm tăng enzyme gan sẽ được xem là "thủ phạm". Thầy thuốc sẽ loại bỏ thuốc "thủ phạm" này, thay bằng một thuốc khác, rối tiếp tục điều trị lao theo nguyên tắc "đa hóa trị liệu" .
Nhóm diệt ký sinh trùng: thuốc sốt rét (amiodiaquin, mepraquin) gây rối loạn chức năng gan; thuốc giun (thiabenzol) vừa gây rối loạn chức năng gan, vừa gây ứ mật
Nhóm thuốc tim mạch: đa số chỉ gây ứ mật như: thuốc loạn nhịp (quinidin, ajmalin), thuốc mạch vành (verapamil, diltiazem), thuốc huyết áp (catopril, nifedipin). Chỉ một ít thuốc gây hoại tử gan hay hỗn hợp (vừa ứ mật, vừa thoái hóa mỡ, vừa hoại tử) rất nguy hiểm như: thuốc huyết áp (hydralazin, enalapril), thuốc mạch vành (herhexilin). Theo yêu cầu điều trị, nhóm thuốc này thường dùng dài ngày. Khi dùng nhóm thuốc này, phải khám định kỳ, nếu phát hiện thuốc gây độc cho gan, phải đổi thuốc.
Nhóm hoóc-môn: có thuốc gây ứ mật song tự hồi phục như testosteron, thuốc tránh thai nữ (với tỉ lệ thấp). Có thuốc gây ra hoại tử gan như kháng giáp tổng hợp (thiouracin). Theo yêu cầu điều trị thường dùng lâu dài song có thể nghỉ từng đợt khi bệnh ổn định (ví dụ: khi tình trạng cường giáp đã cải thiên, ngừng dùng kháng giáp tổng hợp) hay thay bằng phương pháp khác (ví dụ: thay thuốc tránh thai bằng các cách khác).
Nhóm thuốc trị ung thư: methotrexat gây nhiễm mỡ gan có thể xơ gan. 5- fluorouraci gây viêm gan.
Nhóm thuốc điều trị tâm - thần kinh: thuốc chống động kinh valproic có thể gây bất thường gan sau 2 - 4 tháng dùng; phenytoin có thể gây viêm gan cấp.
Nhóm kháng viêm không steroid: tỉ lệ người dùng các thuốc này bị viêm gan thấp (1 - 10 người trong 100.000 người dùng). Tuy nhiên, do nhóm thuốc này được dùng quá rộng rãi nên chúng vẫn được xếp vào nhóm thuốc chính gây viêm gan.
Người viêm gan có dùng nhóm thuốc này không?
Người viêm gan, chức năng gan bị suy giảm, khả năng hóa giải chất độc bị giảm sút, hoặc không thể hóa giải được chất độc, do thế, không được dùng loại thuốc có tính độc với gan. Một bệnh thường có nhiều thuốc điều trị. Khi điều trị cho người viêm gan thì chỉ chọn loại thuốc không có tính độc với gan. Có thể nêu ra hai ví dụ sau:
Bị viêm phổi, không nhất thiết phải dùng các kháng sinh thuộc nhóm macrolic: clarithromycin, azithromycin, telimycin (những thuốc gây độc cho gan) mà có thể dùng nhóm kháng sinh betalactam: penicillin, khi nặng penicillin không đáp ứng có thể dùng thế hệ mới như: cefuroxim (những thuốc không độc với gan).
Người viêm gan do rượu có thể bị cả viêm gan do virút, nhất thiết phải bỏ rượu. Thuốc cai rượu disulfiram làm gián đoạn quá trình chuyển hóa rượu thành nước và carbonic thải ra ngoài, chỉ cho quá trình này ngừng lại ở giai đoạn tạo thành acetaldehyt, làm cho người nghiện rượu bị khó chịu khi uống mà phải bỏ rượu. 
Người bị viêm gan, chức năng chuyển hóa của gan suy giảm, nếu dùng thuốc này thì quá trình chuyển hóa rượu bị ngừng trệ mạnh hơn, sinh ra quá nhiều acetaldehyt gây độc cho gan, nên không thể dùng được. Trong lúc đó thuốc acamprosat (biệt dược: campral) cai rượu bằng cơ chế lập lại hệ cân bằng GABA- glutamic, không bị chuyển hóa ở gan, không gây hại gan. Thầy thuốc có thể chọn thuốc này cố nhiên acamprosat có một số tác dụng phụ khác cần thận trọng.
Lời kết
Người viêm gan rất khó dùng thuốc chữa bệnh khác. Việc chọn thuốc, điều chỉnh liều (bao gồm kể cả thuốc thuộc nhóm không yêu cầu kê đơn - OTC). Với những thuốc dùng lâu dài, biểu hiên "viêm gan do thuốc" có thể không rõ, cần khám lâm sàng xét nghiệm gan định kỳ theo chỉ dẫn của thầy thuốc. 
Trong quá trình dùng, nếu thấy có một số bất thường (mệt, chán ăn, buồn nôn, nôn, vàng da, nước tiểu sậm, ngứa, phân nhạt màu, rối loạn dạ dày ruột, nổi ban da, sốt, tăng nhạy cảm hạ sườn phải, gan to, lách to, cổ trướng, lú lẫn, hôn mê), cần báo cáo với thầy thuốc (kể cả khi các hiện tượng này không đủ, chưa rõ). 
Nếu khám xác nhận có các triệu chứng trên, kết hợp xét nghiệm thấy enzyme gan tăng (thường tăng gấp 2,5 - 5 lần so với mức bình thường) thì xác định "bị viêm gan do thuốc", xử lý bằng cách ngừng hay đổi thuốc (tùy trường hợp). Người viêm gan khi cần chữa các bệnh khác thì không tự ý dùng hay kéo dài thời gian dùng thuốc.
Người viêm gan, chức năng gan bị suy giảm, khả năng hóa giải chất độc bị giảm sút, hoặc không thể hóa giải được chất độc, do thế, không được dùng loại thuốc có tính độc với gan.


Ứng dụng của doxycycline trong điều trị nhãn khoa

Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia.

Mới đây, thuốc này còn được dùng để dự phòng sốt rét. Với chuyên ngành nhãn khoa dược phẩm này vẫn được sử dụng rộng rãi cả đường tại chỗ dưới dạng thuốc mỡ hay đường uống cho dù đã có thêm nhiều dòng kháng sinh mới. 
Doxycyline được cho là hấp thu tốt hơn, độc tính với gan thận ít hơn, đặc biệt là hạn chế được tác dụng phụ trên phát triển xương và răng của trẻ. Tuy nhiên, người ta khuyên các bà mẹ có thai nên thận trọng dùng thuốc này hoặc phải tham khảo kỹ dược sĩ khi có chỉ định điều trị bằng doxycycline.
Viêm kết mạc cấp do Chlamydia (viêm kết mạc thể vùi ở trẻ em và viêm kết mạc bể bơi ở người lớn) vẫn rất nhạy cảm với doxycycline đường uống và tra nhỏ tại chỗ. Tuy nhiên, trên thị trường Việt Nam không có dạng thuốc mỡ mà chỉ có mỡ tetracycline, một sản phẩm cùng nhóm nhưng kích thích mạnh nếu dùng tra nhỏ tại mắt. Bệnh mắt hột, cho dù đã gần như bị xóa sổ tại nước ta, nếu mắc lại lẻ tẻ vẫn có thể dùng doxycycline đường uống trong vài tuần. 
Bác sĩ mắt yêu thích dược phẩm này còn vì tác dụng chống viêm và hoại tử của nó. Do tác dụng ức chế men tiêu tổ chức protease và collagenase, thuốc có thể dùng đường uống hoặc tại chỗ (nếu nghi ngại tác dụng phụ trên toàn thân). Các loại bỏng mắt có hoại tử đều nên dùng doxycycline để chống lại việc tiêu tổ chức, mất chất dẫn đến loét nhuyễn và thủng nhãn cầu.
Tạp chí Archives Ophthalmology mới đây còn đưa ra kết quả nghiên cứu ứng dụng doxycycline điều trị bệnh võng mạc do đái tháo đường mức độ nhẹ và trung bình khá ấn tượng. Với lý luận thuốc có thể chống viêm, hạn chế hoạt hóa các thành phần vi đệm của võng mạc, góp phần bảo vệ lớp trong của võng mạc trên bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ). 
Hai nghiên cứu liên tiếp đã cho ra những kết quả đáng khích lệ. Nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi trên 33 bệnh nhân trong 24 tháng. Nhóm 1 dùng doxcycline liều 50mg, nhóm 2 dùng giả dược. Ở thời điểm 12 và 24 tháng đã cho thấy khác biệt về thị lực, cảm nhận độ tương phản, độ nhạy sáng của vùng hoàng điểm khi đo thị trường bằng phương pháp PDF với ưu thế thuộc về nhóm bệnh nhân dùng doxycycline.
Cho dù số lượng bệnh nhân tham gia nghiên cứu còn nhỏ, chưa đánh giá đầy đủ các yếu tố giải phẫu: độ dày võng mạc, đường kính mạch máu... và vẫn cần thêm những nghiên cứu bổ sung khác, nhưng loại thuốc này nhất định sẽ góp thêm vào lựa chọn cho các bác sĩ mắt trong việc điều trị bệnh võng mạc ĐTĐ mức độ nhẹ và trung bình chưa có tăng sinh.


Dùng ibuprofen giảm đau, chống viêm

Là thuốc có tác dụng giảm đau, hạ sốt và chống viêm nên ibuprofen được dùng trong rất nhiều trường hợp như thống kinh, nhức đầu, làm các thủ thuật về răng, viêm khớp dạng thấp...




Thuốc chỉ sử dụng chống đau và viêm mức độ từ nhẹ đến vừa. Trên thị trường hiện nay thuốc có nhiều dạng bào chế, thuận tiện cho việc sử dụng như viên nén, viên nang (để uống), kem dùng ngoài (dùng tại chỗ, bôi ngoài da), đạn đặt trực tràng (phù hợp với người bệnh không uống được, ví dụ người lớn bị suy hô hấp và cũng tác dụng như uống) và nhũ tương (uống)…

Dùng ibuprofen giảm đau, chống viêm
Khi dùng thuốc này cần lưu ý, rất nhiều tác dụng phụ của thuốc có thể xảy ra. Thường gặp là các biểu hiện mỏi mệt, sốt (do thuốc), chướng bụng, buồn nôn, nôn; nhức đầu, hoa mắt chóng mặt, bồn chồn; mẩn ngứa, ngoại ban. 
Các phản ứng dị ứng (đặc biệt co thắt phế quản ở người bệnh bị hen), viêm mũi, nổi mày đay; đau bụng, chảy máu dạ dày - ruột, làm loét dạ dày tiến triển; lơ mơ, mất ngủ, ù tai; rối loạn thị giác; thính lực giảm… ít gặp hơn song cũng nặng hơn. 
Trường hợp người bệnh thấy nhìn mờ, giảm thị lực, hoặc rối loạn nhận cảm màu sắc thì phải ngừng dùng ibuprofen. Nếu có rối loạn nhẹ về tiêu hóa có thể khắc phục bằng cách uống thuốc lúc ăn hay uống với sữa.
Các trường hợp không được dùng ibuprofen bao gồm: mẫn cảm với thuốc hoặc từng bị dị ứng với thuốc này trước đó, loét dạ dày tá tràng tiến triển, người bệnh bị hen hoặc bị co thắt phế quản, rối loạn chảy máu, bệnh tim mạch, tiền sử loét dạ dày tá tràng, suy gan hoặc suy thận, 3 tháng cuối của thai kỳ. 
Thời kỳ mang thai, các thuốc chống viêm nói chung và ibuprofen nói riêng có thể ức chế co bóp tử cung và làm chậm đẻ hoặc có thể gây tăng áp lực phổi nặng và suy hô hấp nặng ở trẻ sơ sinh do đóng sớm ống động mạch trong tử cung. 
Sau khi uống các thuốc chống viêm không steroid cũng có nguy cơ ít nước ối và vô niệu ở trẻ sơ sinh. Trong 3 tháng cuối thai kỳ, phải hết sức hạn chế sử dụng đối với bất cứ thuốc chống viêm nào. Các thuốc này cũng có chống chỉ định tuyệt đối trong vài ngày trước khi sinh.
Cần thận trọng dùng thuốc đối với người cao tuổi. Ibuprofen có thể làm tăng tác dụng phụ của các kháng sinh nhóm quinolon lên hệ thần kinh trung ương và có thể dẫn đến co giật (không dùng ibuprofen đồng thời với các thuốc kháng sinh này) và tăng nguy cơ chảy máu, gây loét khi dùng ibuprofen với các thuốc giảm đau chống viêm không steroid khác (nên tránh dùng ibuprofen kết hợp với các thuốc chống viêm không steroid khác).


Chữa viêm gan virut C, khó nhất là gì?

Có khoảng 200 triệu người nhiễm virut viêm gan C (HCV) trên thế giới và mỗi năm có thêm 3 - 4 triệu người mắc mới.

Có khoảng 200 triệu người nhiễm virut viêm gan C (HCV) trên thế giới và mỗi năm có thêm 3 - 4 triệu người mắc mới. Tuy nhiễm HCV là một bệnh có thể điều trị khỏi hoàn toàn, nhưng có tới 50 - 80% trường hợp trở thành mạn tính và 50 - 70% các trường hợp ung thư gan là có sự liên quan tới virut viêm gan C. 
Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về các loại thuốc điều trị HCV và lý do vì sao bệnh trở thành mạn tính và khó điều trị.
Các thuốc hiện nay trong điều trị bệnh
Những người mắc viêm gan C không điều trị hiếm khi thanh thải virut tự nhiên trừ khi tình trạng miễn dịch bị thay đổi. Ở các bệnh nhân nhiễm virut viêm gan C mạn, mục tiêu điều trị là diệt trừ virut, ức chế virut sao chép lâu dài và giảm tình trạng viêm gan. Điều trị viêm gan C mạn đã có nhiều tiến triển trong thập niên vừa qua, đầu tiên các liệu trình interferon ngắn hạn đã làm giảm nồng độ men ALT trong huyết thanh, giảm nồng độ HCV và làm giảm tình trạng viêm gan. 
Tuy nhiên diệt trừ virut không xảy ra và phần lớn bệnh nhân tái phát sau khi ngừng thuốc. Sau này liệu trình phối hợp interferon và ribavirin có khả năng diệt trừ virut ở 40% các bệnh nhân. Kể từ năm 2002, liệu pháp Peg - Interferon kết hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng virut học kéo dài trên 50% các bệnh nhân đã dần thay thế các chế độ điều trị cũ.
Chữa viêm gan virut C, khó nhất là gì?
​Hình ảnh virut viêm gan C.
Peg - interferon
Peg - interferon là sự phối hợp giữa interferon với polyethylen glycol, còn gọi là pegylate hóa, làm thanh thải thuốc chậm đi và do đó phơi nhiễm kéo dài với nồng độ thuốc cao hơn, nên chỉ dùng 1 tuần một lần.
Có hai loại peg - interferon là peg - interferon α - 2a và peg - interferon α - 2b có tỷ lệ đáp ứng virut duy trì dao động trên 36% tùy theo genotype. Điều trị phối hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng cao hơn, trên 50%. Trường hợp bệnh nhân chống chỉ định dùng ribavirin có thể được điều trị bằng peg - interferon. Hai loại peg - interferon khác nhau ở trọng lượng phân tử nên việc tính liều điều trị sẽ khác nhau trên từng bệnh nhân.
Các tác dụng phụ: phần lớn các tác dụng ngoại ý là ở mức độ nhẹ và trung bình không cần hạn chế điều trị. Các tác dụng phụ hay gặp là đau nơi tiêm, mệt, ớn lạnh, sốt, đau khớp, triệu chứng giống cúm, trầm cảm..., ngoài ra có thể gặp giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, phát ban, tăng cảm giác, nhìn mờ, lú lẫn, rong kinh, táo bón, rối loạn tâm thần...
Ribavirin
Ribavirin được phát hiện vào năm 1972, là một chất tương tự guanosine có phổ hoạt tính rộng chống lại các virut RNA và DNA gồm cả các flaviviridae như virut viêm gan C. Ribavirin có vai trò quan trọng trong phác đồ phối hợp với peg - interferon trong suốt quá trình điều trị.
Ribavirin có tác dụng làm tăng đáp ứng cytokin kiểu 1 và đáp ứng tăng sinh tế bào T gây độc tế bào. Ribavirin có thời gian bán thải 44 - 49 giờ sau liều duy nhất và sẽ tăng cao sau khi dùng lâu dài, bởi thế sự thanh thải ribavirin cần nhiều tuần sau khi ngừng thuốc. Thanh thải ribavirin giảm nhiều ở bệnh nhân suy thận nên không dùng ở bệnh nhân có độ thành thải creatinin < 50ml/phút.
Các tác dụng phụ hay gặp là gây tan máu, ngoài ra còn gây quái thai do đó không được dùng cho phụ nữ mang thai.
Không dùng peg - interferon và hoặc ribavirin ở bệnh nhân viêm gan virut C mạn tính.
Chống chỉ định tuyệt đối với bệnh nhân xơ gan mất bù, bệnh tự miễn, rối loạn nhịp tim, bệnh thiếu máu và thiếu máu cục bộ, suy thận, phụ nữ có thai và cho con bú, trẻ em dưới 18 tuổi.
Cần thận trọng khi dùng cho các tương đối: thiếu máu 3 dòng, bệnh nhân có các rối loạn tâm thần, các rối loạn co giật.
Hướng điều trị mới
Kết hợp nhiều loại thuốc và nhiều cơ chế tác dụng để có hiệu quả chéo với nhiều loại genotype, cải tiến đáp ứng, giảm thời gian điều trị, cải thiện tính dung nạp, giảm sự đề kháng, có thể áp dụng được với những đối tượng khó điều trị.
Các thuốc mới sẽ được đưa vào sử dụng là thuốc ức chế men protease (telaprevir kết hợp với peg - interferon hoặc ribavirin), thuốc ức chế polymerase (valopicitabine), thuốc interferon mới (albinterferon α - 2b phối hợp với ribavirin), interferon tái tổ hợp omega, taribavirin.
Vì sao bệnh khó điều trị?
Có khoảng 60% nhiễm HCV không có triệu chứng, 39% cảm thấy mệt (giống như cảm cúm, chán ăn, buồn nôn, có thể đau khớp, đau bụng nhẹ), ít khi có biểu hiện vàng da, nước tiểu sậm màu, chỉ 1% có các biểu hiện nặng.
Trong tổng số nhiễm HCV có khoảng 15% tự hồi phục, 85% chuyển qua thể mạn. Thể mạn thường âm thầm kéo dài hàng chục năm và chỉ phát hiện được khi đã có diễn biến nghiêm trọng (xơ gan, cổ trướng, giãn mạch máu đường tiêu hóa, vỡ mạch gây chảy máu ồ ạt, tử vong). Trong số 85% chuyển qua mạn tính thì có 20% bị xơ gan và có khoảng 3% trong số xơ gan bị ung thư gan.
Do nhiễm HCV ở các týp gen khác nhau, khả năng đáp ứng thuốc của các quần thể dân cư khác nhau nên hiệu quả điều trị khá dao động. Một khó khăn trong điều trị bệnh là người bệnh khó nhận biết mình bị mắc bệnh, thường đến bệnh viện muộn có khi đã xơ gan; kết quả điều trị dao động, chi phí điều trị cao nên có người bỏ dở, thậm chí không muốn điều trị.
Tóm lại, sự phát tán của HCV ngày càng có khuynh hướng tăng lên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Điều quan trọng là phát động chiến dịch về tác hại của việc dùng ma túy, làm giảm tác hại bằng chương trình sử dụng bơm kim tiêm một lần, giáo dục cho những người làm nghề xăm và nghề y học cổ truyền cách lựa chọn phương pháp điều trị để giảm thiểu việc lây bệnh qua đường máu.


Trường hợp tiêu chảy nào không được dùng loperamid?

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tiêu chảy cấp tính như virut (Rotavirus thường là nguyên nhân tiêu chảy ở trẻ em, Adenovirus...), vi khuẩn (E.coli), ký sinh trùng, do thuốc men và rối loạn đường ruột...

Vì vậy, trong điều trị tiêu chảy, ngoài việc điều trị nguyên nhân, vấn đề ưu tiên trong mọi trường hợp là đánh giá và xử lý đúng những rối loạn nước và điện giải (bù nước và điện giải). Vậy thuốc trị tiêu chảy loperamid được dùng trong trường hợp nào?
Loperamid là một dạng opiat tổng hợp có tác dụng làm giảm nhu động ruột, giảm tiết dịch đường tiêu hóa và tăng trương lực cơ thắt hậu môn. Thuốc còn có tác dụng kéo dài thời gian vận chuyển thức ăn qua ruột, tăng vận chuyển dịch và chất điện giải qua niêm mạc ruột, do đó làm giảm sự mất nước và điện giải, giảm lượng phân. Chính vì vậy, thuốc được dùng để điều trị triệu chứng tiêu chảy cấp không có biến chứng hoặc tiêu chảy mạn ở người lớn.
Không dùng loperamid trong các trường hợp như mẫn cảm với thuốc, khi cần tránh ức chế nhu động ruột, có tổn thương gan, viêm đại tràng nặng, viêm đại tràng màng giả (có thể gây đại tràng to nhiễm độc), hội chứng lỵ, bụng trướng. Thuốc cũng không được khuyến cáo dùng cho trẻ em một cách thường quy trong tiêu chảy cấp. 
Trong quá trình dùng thuốc cần theo dõi nhu động ruột và lượng phân, nhiệt độ cơ thể, theo dõi trướng bụng. Với những người bệnh giảm chức năng gan hoặc viêm loét đại tràng cần dùng thuốc một cách thận trọng. Ngừng thuốc nếu không thấy có kết quả trong vòng 48 giờ.
Không nên dùng cho phụ nữ có thai (vì chưa có đủ các nghiên cứu để đánh giá dùng thuốc ở đối tượng này). Loperamid bài tiết ra sữa rất ít, có thể dùng thuốc cho bà mẹ đang cho con bú nhưng chỉ với liều thấp.
Hầu hết các tác dụng phụ thường gặp khi dùng thuốc là phản ứng ở đường tiêu hóa. Thường gặp các triệu chứng như táo bón, đau bụng, buồn nôn, nôn, tắc ruột do liệt (hiếm gặp hơn). Các tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương như ngủ gật, trầm cảm, hôn mê, thường hay gặp với trẻ em dưới 6 tháng tuổi.
Vì vậy loperamid không được dùng trong điều trị tiêu chảy cho trẻ nhỏ. Chỉ dùng cho trẻ em trên 6 tuổi khi thật cần thiết. Ngoài ra, một số người còn thấy mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, dị ứng... khi dùng thuốc này.
Tình trạng quá liều thường xảy ra khi liều dùng hàng ngày khoảng 60mg loperamid với các triệu chứng suy hô hấp và hệ thần kinh trung ương, co cứng bụng, táo bón, kích ứng đường tiêu hóa, buồn nôn và nôn. Người bệnh cần được đưa tới cơ sở y tế để được cấp cứu xử lý ngộ độc thuốc.


Chữa viêm gan virut C, khó nhất là gì?

Có khoảng 200 triệu người nhiễm virut viêm gan C (HCV) trên thế giới và mỗi năm có thêm 3 - 4 triệu người mắc mới.

Có khoảng 200 triệu người nhiễm virut viêm gan C (HCV) trên thế giới và mỗi năm có thêm 3 - 4 triệu người mắc mới. Tuy nhiễm HCV là một bệnh có thể điều trị khỏi hoàn toàn, nhưng có tới 50 - 80% trường hợp trở thành mạn tính và 50 - 70% các trường hợp ung thư gan là có sự liên quan tới virut viêm gan C. 
Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về các loại thuốc điều trị HCV và lý do vì sao bệnh trở thành mạn tính và khó điều trị.
Các thuốc hiện nay trong điều trị bệnh
Những người mắc viêm gan C không điều trị hiếm khi thanh thải virut tự nhiên trừ khi tình trạng miễn dịch bị thay đổi. Ở các bệnh nhân nhiễm virut viêm gan C mạn, mục tiêu điều trị là diệt trừ virut, ức chế virut sao chép lâu dài và giảm tình trạng viêm gan. Điều trị viêm gan C mạn đã có nhiều tiến triển trong thập niên vừa qua, đầu tiên các liệu trình interferon ngắn hạn đã làm giảm nồng độ men ALT trong huyết thanh, giảm nồng độ HCV và làm giảm tình trạng viêm gan. 
Tuy nhiên diệt trừ virut không xảy ra và phần lớn bệnh nhân tái phát sau khi ngừng thuốc. Sau này liệu trình phối hợp interferon và ribavirin có khả năng diệt trừ virut ở 40% các bệnh nhân. Kể từ năm 2002, liệu pháp Peg - Interferon kết hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng virut học kéo dài trên 50% các bệnh nhân đã dần thay thế các chế độ điều trị cũ.
Chữa viêm gan virut C, khó nhất là gì?
​Hình ảnh virut viêm gan C.
Peg - interferon
Peg - interferon là sự phối hợp giữa interferon với polyethylen glycol, còn gọi là pegylate hóa, làm thanh thải thuốc chậm đi và do đó phơi nhiễm kéo dài với nồng độ thuốc cao hơn, nên chỉ dùng 1 tuần một lần.
Có hai loại peg - interferon là peg - interferon α - 2a và peg - interferon α - 2b có tỷ lệ đáp ứng virut duy trì dao động trên 36% tùy theo genotype. Điều trị phối hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng cao hơn, trên 50%. Trường hợp bệnh nhân chống chỉ định dùng ribavirin có thể được điều trị bằng peg - interferon. Hai loại peg - interferon khác nhau ở trọng lượng phân tử nên việc tính liều điều trị sẽ khác nhau trên từng bệnh nhân.
Các tác dụng phụ: phần lớn các tác dụng ngoại ý là ở mức độ nhẹ và trung bình không cần hạn chế điều trị. Các tác dụng phụ hay gặp là đau nơi tiêm, mệt, ớn lạnh, sốt, đau khớp, triệu chứng giống cúm, trầm cảm..., ngoài ra có thể gặp giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, phát ban, tăng cảm giác, nhìn mờ, lú lẫn, rong kinh, táo bón, rối loạn tâm thần...
Ribavirin
Ribavirin được phát hiện vào năm 1972, là một chất tương tự guanosine có phổ hoạt tính rộng chống lại các virut RNA và DNA gồm cả các flaviviridae như virut viêm gan C. Ribavirin có vai trò quan trọng trong phác đồ phối hợp với peg - interferon trong suốt quá trình điều trị.
Ribavirin có tác dụng làm tăng đáp ứng cytokin kiểu 1 và đáp ứng tăng sinh tế bào T gây độc tế bào. Ribavirin có thời gian bán thải 44 - 49 giờ sau liều duy nhất và sẽ tăng cao sau khi dùng lâu dài, bởi thế sự thanh thải ribavirin cần nhiều tuần sau khi ngừng thuốc. Thanh thải ribavirin giảm nhiều ở bệnh nhân suy thận nên không dùng ở bệnh nhân có độ thành thải creatinin < 50ml/phút.
Các tác dụng phụ hay gặp là gây tan máu, ngoài ra còn gây quái thai do đó không được dùng cho phụ nữ mang thai.
Không dùng peg - interferon và hoặc ribavirin ở bệnh nhân viêm gan virut C mạn tính.
Chống chỉ định tuyệt đối với bệnh nhân xơ gan mất bù, bệnh tự miễn, rối loạn nhịp tim, bệnh thiếu máu và thiếu máu cục bộ, suy thận, phụ nữ có thai và cho con bú, trẻ em dưới 18 tuổi.
Cần thận trọng khi dùng cho các tương đối: thiếu máu 3 dòng, bệnh nhân có các rối loạn tâm thần, các rối loạn co giật.
Hướng điều trị mới
Kết hợp nhiều loại thuốc và nhiều cơ chế tác dụng để có hiệu quả chéo với nhiều loại genotype, cải tiến đáp ứng, giảm thời gian điều trị, cải thiện tính dung nạp, giảm sự đề kháng, có thể áp dụng được với những đối tượng khó điều trị.
Các thuốc mới sẽ được đưa vào sử dụng là thuốc ức chế men protease (telaprevir kết hợp với peg - interferon hoặc ribavirin), thuốc ức chế polymerase (valopicitabine), thuốc interferon mới (albinterferon α - 2b phối hợp với ribavirin), interferon tái tổ hợp omega, taribavirin.
Vì sao bệnh khó điều trị?
Có khoảng 60% nhiễm HCV không có triệu chứng, 39% cảm thấy mệt (giống như cảm cúm, chán ăn, buồn nôn, có thể đau khớp, đau bụng nhẹ), ít khi có biểu hiện vàng da, nước tiểu sậm màu, chỉ 1% có các biểu hiện nặng.
Trong tổng số nhiễm HCV có khoảng 15% tự hồi phục, 85% chuyển qua thể mạn. Thể mạn thường âm thầm kéo dài hàng chục năm và chỉ phát hiện được khi đã có diễn biến nghiêm trọng (xơ gan, cổ trướng, giãn mạch máu đường tiêu hóa, vỡ mạch gây chảy máu ồ ạt, tử vong). Trong số 85% chuyển qua mạn tính thì có 20% bị xơ gan và có khoảng 3% trong số xơ gan bị ung thư gan.
Do nhiễm HCV ở các týp gen khác nhau, khả năng đáp ứng thuốc của các quần thể dân cư khác nhau nên hiệu quả điều trị khá dao động. Một khó khăn trong điều trị bệnh là người bệnh khó nhận biết mình bị mắc bệnh, thường đến bệnh viện muộn có khi đã xơ gan; kết quả điều trị dao động, chi phí điều trị cao nên có người bỏ dở, thậm chí không muốn điều trị.
Tóm lại, sự phát tán của HCV ngày càng có khuynh hướng tăng lên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Điều quan trọng là phát động chiến dịch về tác hại của việc dùng ma túy, làm giảm tác hại bằng chương trình sử dụng bơm kim tiêm một lần, giáo dục cho những người làm nghề xăm và nghề y học cổ truyền cách lựa chọn phương pháp điều trị để giảm thiểu việc lây bệnh qua đường máu.


Bị thiểu năng tuần hoàn não có thể dùng thuốc Piracetam?

Bệnh thiểu năng tuần hoàn não là trạng thái nhất thời, xảy ra đột ngột do các thiếu sót về chức năng thần kinh, thường hồi phục hoàn toàn sau 24 giờ và có xu hướng lặp lại nhiều lần.

Bệnh thiểu năng tuần hoàn não (thiếu máu não) là trạng thái nhất thời, xảy ra đột ngột do các thiếu sót về chức năng thần kinh, thường hồi phục hoàn toàn sau 24 giờ và có xu hướng lặp lại nhiều lần, thường gặp ở những người đứng tuổi, đặc biệt ở người lao động trí óc. 
Một số biểu hiện thiểu năng tuần hoàn não: nhức lan tỏa khắp đầu, có cảm giác căng nặng trong đầu, nhất là mỗi khi phải suy nghĩ nhiều, đây là triệu chứng hay gặp nhất; đau sau gáy, vùng chẩm, đôi khi đau âm ỉ hoặc từng cơn lan lên nửa bên đầu; chóng mặt và rối loạn thăng bằng, cảm giác lảo đảo thoáng qua hoặc xoay tròn.  
Ở cấp độ mạn tính, các triệu chứng bệnh như tê mỏi chân tay, đau đầu, hoa mắt, mất ngủ, rối loạn cảm xúc, sa sút trí tuệ, … sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống và công việc. Thiểu năng tuần hoàn não có thể diễn tiến lâu ngày và gây biến chứng cấp tính nặng nề như nhồi máu não gây nguy hiểm đến tính mạng. Điều quan trọng là tìm được các nguyên nhân gây thiểu năng tuần hoàn não để điều trị tận gốc.
Piracetam là thuốc được chỉ định trong điều trị triệu chứng chóng mặt, nhức đầu, mê sảng nặng; cải thiện một số triệu chứng ở người lớn tuổi như: suy giảm trí nhớ, kém tập trung, thiếu tỉnh táo, rối loạn hành vi, sa sút trí tuệ; hỗ trợ trong điều trị giật rung cơ có nguồn gốc vỏ não. Piracetam không phải là thuốc dùng để tăng trí nhớ. Thuốc có thể gây ra một số tác dụng không mong muốn như: mệt mỏi, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, bồn chồn, dễ bị kích động, nhức đầu, mất ngủ.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons