Thứ Hai, 20 tháng 7, 2015

Bệnh trĩ: Biến chứng và thuốc trị

Trĩ là một loại bệnh của mạch máu tĩnh mạch. Bệnh rất phổ biến ở cả nam và nữ. Khi các mạch máu tĩnh mạch bị ứ máu thành tĩnh mạch bị giãn ra, sung huyết.

Những tĩnh mạch bị giãn như vậy ở trực tràng và hậu môn tạo thành búi trĩ và gây nên bệnh trĩ.
Đừng xem thường biến chứng của bệnh trĩ
Với những triệu chứng như đi ngoài ra máu, đau rát, luôn có cảm giác vướng, khó chịu, sờ thấy búi trĩ ở hậu môn..., bệnh trĩ làm cho người bệnh đau đớn, khó chịu, tinh thần không thoải mái. Do là bệnh ở vùng kín nên bệnh nhân thường rất ngại đi khám và điều trị, nhất là phụ nữ. Có nhiều người âm thầm chịu đựng "sống chung" với bệnh nhiều năm. 
Chỉ đến khi bệnh đã nặng, chảy máu nhiều hoặc búi trĩ đã bị sa nằm bên ngoài hậu môn không thể co lên, họ mới bắt buộc phải điều trị. Hơn thế, bệnh còn có thể gây những biến chứng nguy hiểm như: tắc mạch, nghẹt, nhiễm khuẩn...
Tắc mạch: trĩ ngoại có thể là do vỡ các tĩnh mạch, tạo nên một bọc máu, hoặc là do hiện tượng đông máu ở trong lòng mạch máu. Việc tăng áp lực khi đi ngoài, khuân vác nặng, hoạt động thể thao, hậu sản... gây sung huyết vùng hậu môn là những yếu tố thuận lợi của tắc mạch trĩ. Khi bị tắc mạch, bệnh nhân rất đau rát, cũng có khi cục máu đông gây hoại tử phía da gây rỉ máu. Tắc mạch trĩ nội ít hơn nhiều so với tắc mạch trĩ ngoại. Bệnh nhân đau ở trong sâu, có cảm giác gợn cộm như có một vật lạ nằm trong lòng ống hậu môn.
Bệnh trĩ: Biến chứng và thuốc trị
Hình ảnh trĩ nội và trĩ ngoại.
Nghẹt: là khi búi trĩ hay vòng trĩ sa ra ngoài, mạch có thể bị tắc gây phù nề và do đó không thể tự thụt lại vào trong lòng trực tràng được. Khi nhìn, thấy mặt ngoài của trĩ sa nghẹt là da màu xám, ở mặt trong là niêm mạc màu nâu đỏ, sưng nề, rải rác có những nốt xám đen là do hiện tượng hoại tử bắt đầu.
Nhiễm khuẩn do trĩ: thường là viêm khe, viêm nhú. Biểu hiện của viêm khe, viêm nhú là cảm giác ngứa ngáy hay nóng rát. Soi hậu môn thấy các nhú phù nề sưng to, màu trắng, các khe nằm giữa các búi trĩ bị loét nông, màu đỏ. Cần đề phòng tình trạng bội nhiễm. Nếu trĩ thòi ra ngoài lâu, chảy máu liên tục thì rất dễ bị bội nhiễm vi khuẩn bởi vì hậu môn là đường ra của phân mà trong phân có vô số vi khuẩn gây bệnh.
Để bệnh không diễn tiến đến giai đoạn nặng hay xảy ra biến chứng nguy hiểm, bệnh nhân trĩ nên chữa trị càng sớm càng tốt.
Thuốc điều trị
Thuốc điều trị bệnh trĩ chủ yếu gồm hai loại: Loại để uống (viên nén, viên nang) và loại thuốc dùng để bôi hoặc đặt trong hậu môn như thuốc mỡ, thuốc viên đạn. Dùng thuốc có thể giúp giảm các triệu chứng của bệnh trĩ.
Thuốc uống (có dạng viên nang hoặc viên nén): thường có tác dụng điều hòa tính thẩm thấu và tăng sức bền chắc thành của các tĩnh mạch, do đó làm giảm phù nề, giảm sung huyết các tĩnh mạch ở vùng trĩ, cầm máu đối với trĩ chảy máu, co búi trĩ. Đây là thuốc chứa các hoạt chất rutin (còn gọi là vitamin P). Do tác động đến tĩnh mạch nên thuốc ngoài tác dụng chữa trĩ còn dùng để trị chứng suy, giãn tĩnh mạch, đặc biệt bị ở chi dưới như tê chân, nổi gân xanh.
Trong điều trị trĩ ngoại, bác sĩ sẽ tùy theo tình trạng bệnh cho liều điều trị tấn công và liều điều trị củng cố. Ngoài thuốc tác động chính trên tĩnh mạch trĩ, bác sĩ có thể chỉ định thêm các thuốc khác như: kháng sinh ( nhóm penicillin, cephalosporin...), thuốc chống viêm (ibuprofen, naproxen...), thuốc giảm đau (paracetamol), thuốc trị táo bón... Người bệnh cần sử dụng thuốc theo đúng chỉ định, đặc biệt phải kiên trì dùng thuốc kéo dài đủ thời gian.
Thuốc đặt hoặc thuốc bôi: Sử dụng thuốc mỡ bôi lên vùng bị tổn thương để có tác dụng tại chỗ. Các loại thuốc dạng bôi này có chứa hoạt chất giảm đau, ngứa, rát, giúp sát khuẩn, chống nhiễm khuẩn song chỉ có tác dụng giảm bớt các triệu chứng chứ không thể điều trị triệt để. Thuốc mỡ có thể ngăn ngừa tổn thương thêm và làm giảm ngứa bằng cách hình thành một rào cản trên bệnh trĩ. Bôi thuốc mỡ có chứa hydrocortisone 1%, một loại thuốc steroid có thể làm giảm viêm và ngứa. 
Nhưng các thuốc này không nên sử dụng quá 2 tuần vì chúng có thể làm mỏng da. Người bệnh cũng có thể dùng thuốc đạn đặt vào trong hậu môn (trong trường hợp bị trĩ nội). Thuốc cho tác dụng tại chỗ (cả bôi và đặt) thường chứa nhiều hoạt chất như: làm giảm đau, chống viêm, kháng sinh, bảo vệ và làm bền chắc tĩnh mạch (bismuth subgallate, resorcinol, tannic acid, zinc oxide), sát trùng (boric acid, neomycin, phenylmercuric nitrate và oxyquinlone), ngoài ra còn chứa các vitamin, chất bổ dưỡng giúp tổn thương mau lành.
Lời khuyên dành cho người bệnh
Trĩ là bệnh rất khó chữa khỏi hoàn toàn bằng thuốc, trừ khi có ngoại khoa can thiệp. Để hạn chế biến chứng, người bệnh cần vệ sinh sạch sẽ vùng kín bằng phương pháp ngâm nước ấm 2 - 3 lần/ngày, mỗi lần 15 phút. 
Dinh dưỡng cũng là yếu tố quan trọng giúp điều trị bệnh. Nên ăn thức ăn mềm, lỏng, nhiều rau xanh, uống nhiều nước trong ngày để nhuận tràng, không ăn nhiều gia vị cay nóng, hạn chế các chất kích thích (rượu, bia,...). Người bệnh trĩ cần tránh tình trạng táo bón làm gia tăng áp lực lên đại trực tràng, sẽ khiến bệnh trĩ ngày càng nặng hơn.


Lưu ý khi dùng cinnarizin trị rối loạn tiền đình

Để điều trị rối loạn tiền đình, một trong những thuốc thường được sử dụng là cinnarizin. Đây là loại thuốc kháng histamin H1.

Thuốc được dùng theo đường uống. Ngoài ra, cinnarizin còn được dùng để phòng say tàu xe (uống trước khi đi tàu, xe).
Tiền đình là một hệ thống thuộc hệ thần kinh nằm ở phía sai ốc tai (hai bên), có vai trò quan trọng trong duy trì tư thế, dáng bộ, phối hợp cử động mắt, đầu và thân mình. 
Nhiệm vụ chính của tiền đình là giữ thăng bằng cho cơ thể. Khi chúng ta di chuyển, cúi xoay… hệ thống tiền đình cũng nghiêng lắc theo các động tác này và giúp cơ thể có được tư thế thăng bằng. 
Khi bị rối loạn, người bệnh thường có biểu hiện chóng mặt, quay cuồng, hoa mắt, ù tai, buồn nôn. Nặng hơn người bệnh sẽ mất thăng bằng, không giữ được tư thế, không thể bước đi và dễ ngã…
Lưu ý khi dùng cinnarizin trị rối loạn tiền đình
Dùng cinnarizin trị rối loạn tiền đình có thể gây ra một số tác dụng phụ
Trong cộng đồng, ngoài được kê đơn thì cinnarizin cũng là một trong những thuốc hay được người dân tự mua về sử dụng để điều trị rối loạn tiền đình hay phòng say tàu xe.
Tuy nhiên khi dùng thuốc này cần lưu ý, cinnarizin có thể gây đau vùng thượng vị, bởi vậy mà thời điểm dùng thuốc nên là sau bữa ăn để giảm kích ứng dạ dày.
Thuốc có thể gây ngủ gà (do tác dụng an thần của thuốc), đặc biệt lúc khởi đầu điều trị nên khi uống thuốc người dùng phải tránh làm những công việc đòi hỏi sự tỉnh táo như lái xe, làm việc trên cao, vận hành máy móc… 
Phải tránh dùng thuốc dài ngày ở người cao tuổi vì có thể gây tăng hoặc xuất hiện những triệu chứng ngoại tháp (gồm các rối loạn giảm động như co cứng, động tác chậm cháp và các rối loạn tăng động như múa giật, rung giật cơ, chứng nằm ngồi không yên), đôi khi kết hợp với cảm giác trầm cảm trong điều trị kéo dài. 
Ngoài ra, thuốc có thể gây rối loạn tiêu hóa (thường có tính chất tạm thời), nhức đầu, khô miệng, tăng cân, ra mồ hôi, phản ứng dị ứng và giảm huyết áp (khi dùng liều cao)...
Có thể phòng tình trạng ngủ gà và rối loạn tiêu hóa bằng cách tăng dần liều tới mức tối ưu và ngưng dùng thuốc khi bệnh nặng hơn hoặc xuất hiện những triệu chứng ngoại tháp khi điều trị dài ngày cho người cao tuổi.
Không dùng thuốc cùng với các chất ức chế thần kinh trung ương như rượu, thuốc chống trầm cảm ba vòng (vì có thể làm tăng tác dụng an thần của mỗi thuốc nêu trên hoặc của cinarizin).



Phê duyệt thuốc kháng tiểu cầu mới

Cục Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) vừa thông qua thuốc kengreal (cangrelor), một loại thuốc kháng tiểu cầu tiêm tĩnh mạch có thể ngăn chặn sự hình thành các cục máu đông gây hại trong động mạch vành, mạch máu cung cấp máu cho tim. Bằng cách ngăn chặn này, kengreal làm giảm nguy cơ biến chứng đông máu nghiêm trọng liên quan đến thủ thuật, bao gồm đau tim và đông máu của các stent (stent huyết khối). Thuốc được chấp thuận dùng cho bệnh nhân người lớn đã trải qua can thiệp mạch vành qua da (thủ thuật mở một động mạch vành bị tắc hoặc thu hẹp để cải thiện lưu lượng máu đến cơ tim).
Đối với những bệnh nhân can thiệp mạch vành qua da, quá trình đông máu có thể gây ra vấn đề nghiêm trọng. Việc phê duyệt kengreal cung cấp một lựa chọn trong việc điều trị cho những bệnh nhân này.


Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

Pyridoxine có thể gây tê cóng và vụng về bàn tay

Pyridoxine tôi là loại thuốc vitamin thuộc nhóm B. Tôi được dùng trong phòng và điều trị thiếu hụt vitamin B6.

Khi thiếu hụt do dinh dưỡng, ít gặp trường hợp thiếu đơn độc một vitamin nhóm B, vì vậy bổ sung vitamin dưới dạng hỗn hợp có hiệu quả hơn dùng đơn lẻ. Tốt nhất vẫn là cải thiện chế độ ăn.
Thiếu hụt pyridoxin có thể dẫn đến thiếu máu, viêm dây thần kinh ngoại vi, viêm da tăng bã nhờn, khô nứt môi. Nhu cầu cơ thể tăng và việc bổ sung vitamin B6 có thể cần thiết trong các trường hợp nghiện rượu, bỏng, suy tim sung huyết, sốt kéo dài, cắt bỏ dạ dày, lọc máu, cường tuyến giáp, nhiễm khuẩn, bệnh đường ruột (như tiêu chảy, viêm ruột), kém hấp thu liên quan đến bệnh về gan - mật.
Người mang thai có nhu cầu tăng về mọi vitamin. Nên bổ sung bằng chế độ ăn. Nhiều thầy thuốc vẫn khuyên dùng thêm hỗn hợp các vitamin và muối khoáng, nhất là với người mang thai kém ăn hoặc có nguy cơ thiếu hụt cao (đa thai, nghiện hút thuốc lá, rượu, ma túy). Dùng với lượng quá thừa hỗn hợp các vitamin và muối khoáng có thể có hại cho mẹ và thai nhi, cần phải tránh. Nhu cầu về mọi vitamin và muối khoáng tăng trong thời kỳ cho con bú.
Tôi cũng được dùng để điều trị nhiễm độc isoniazid hoặc cycloserin, một số trẻ sơ sinh biểu hiện hội chứng lệ thuộc pyridoxin có tính di truyền. Cần dùng pyridoxin tôi trong tuần đầu sau đẻ để phòng thiếu máu và chậm phát triển.
Tuyệt đối không dùng tôi cho bệnh nhân quá mẫn với pyridoxin.
Sau thời gian dài dùng pyridoxin với liều 200mg/ngày, có thể đã thấy biểu hiện độc tính thần kinh (như bệnh thần kinh ngoại vi nặng và bệnh thần kinh cảm giác nặng). Dùng liều 200mg mỗi ngày, kéo dài trên 30 ngày có thể gây hội chứng lệ thuộc pyridoxin.
Các bạn nên lưu ý, với liều bổ sung theo nhu cầu hàng ngày không gây hại cho thai nhi, nhưng với liều cao có thể gây hội chứng lệ thuộc thuốc ở trẻ sơ sinh. Tôi không gây ảnh hưởng gì khi dùng theo nhu cầu hàng ngày. Dùng pyridoxin liều cao (600mg/ngày, chia 3 lần) để làm tắt sữa, thường không hiệu quả.
Có nhiều người khi dùng liều 200mg/ngày và dài ngày (trên 2 tháng) đã mắc bệnh thần kinh ngoại vi nặng, tiến triển từ dáng đi không vững và tê cóng bàn chân đến tê cóng và vụng về bàn tay. Tình trạng này có thể hồi phục khi ngừng thuốc, mặc dù vẫn còn để lại ít nhiều di chứng.Hiếm gặp những tác dụng phụ như buồn nôn và nôn khi dùng tôi.
Các bạn nên tuyệt đối tuân thủ hướng dẫn dùng thuốc dù tôi là vitamin, vì rất có thể tôi sẽ gây những ảnh hưởng xấu cho sức khỏe của bạn nếu không được hiểu đúng, dùng đúng.



Aspirin "có thể phòng ung thư da"

Theo BBC, những người sử dụng Aspirin hoặc các loại thuốc giảm đau tương tự một cách thường xuyên sẽ giảm 15% nguy cơ mắc ung thư da - bao gồm cả những chủng bệnh gây chết người, các khối u ác tính. Nghiên cứu được thực hiện trên Tạp chí Ung thư với gần 200.000 người ở Đan Mạch. Tuy nhiên các chuyên gia cho rằng sử dụng các loại kem chống nắng và trắng tiếp xúc quá nhiều với ánh nắng mặt trời vẫn là cách phòng ung thư da hữu hiệu nhất.
Aspirrin - Thuốc chống ung thư?
Trong nghiên cứu này, khoảng 18.000 trong số 200.000 người tham gia đã được chẩn đoán mắc một trong ba loại ung thư da - ung thư biểu mô tế bào đáy, ung thư biểu mô tế bào vảy, hoặc có các khối u ác tính - hiếm gặp nhưng nguy hiểm hơn.
Các nhà nghiên cứu đã xem xét hồ sơ y tế của các cá nhân để tính toán bao nhiêu người đã được kê thuốc chống viêm không chứa steroid (NSAIDs) như Aspirin, Ibuprofen và Naproxen trong khoảng thời gian8 năm. Có những người sử dụng loại thuốc này để điều trị bệnh tim hoặc viêm khớp.
Những người thường sử dụng thuốc chống viêm không chứa steroid ít có khả năng bị ung thư da hơn những người khác. Liều dùng càng cao và thời gian sử dụng thuốc càng lâu thì hiệu quả bảo vệ càng cao.
Những cá nhân có nhiều hơn hai đơn thuốc có các loại NSAIDs giảm 15% nguy cơ phát triển ung thư tế bào vảy và giảm 13% nguy cơ các khối u hắc tố ác tính.
Hạn chế
Các nhà nghiên cứu từ BV Đại học ở Đan Mạch cho biết, họ cần nghiên cứu thêm để xác nhận và giải thích các phát hiện của mình.
Các nghiên cứu ở động vật cho thấy, NSAIDs có thể ngăn chặn sự phát triển của các tổn thương da tiền ung thư nhưng vẫn chưa rõ liệu điều này có tác dụng tương tự đối với con người hay không. Các nhà khoa học cũng hoài nghi về việc loại thuốc này có thể bảo vệ cơ thể khỏi các căn bệnh ung thư khác, bao gồm cả ung thư ruột.
Các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng, mặc dù đã tìm ra sự liên quan giữa việc dùng các loại Aspirin với việc giảm nguy cơ ung thư da song họ lại không thể theo dõi chính xác lượng thuốc mà mỗi người thực sự đã dùng.
Ngoài ra, người dân còn có thể mua các loại thuốc dạng Aspirin ở hiệu thuốc mà không cần kê đơn. Họ đồng thời cũng không nhìn vào nguyên nhân gốc rễ của ung thư da là ánh nắng mặt trời.
Các chuyên gia cũng khuyên rằng, mặc dù NSAIDs có khả năng bảo vệ chúng ta phần nào khỏi ung thư da song vẫn phải có ý thức bảo vệ dưới ánh mặt trời.
TS. Hazel Nunn của Viện Nghiên cứu Ung thư Anh cho biết: "Cách tốt nhất để giảm thiểu nguy cơ ung thư da là tận hưởng ánh nắng mặt trời một cách an toàn và tránh để bị cháy nắng.
Biểu hiện rõ ràng cháy nắng là da bạn bị phá hủy và các tổn thương này có thể tăng lên theo thời gian và dẫn tới ung thư da trong tương lai. Khi ánh sáng mặt trời mạnh, cố gắng tận dụng bóng râm, quần áo và loại kem dưỡng da chứa SPF15 để bảo vệ làn da.
Có những bằng chứng cho thấy, Aspirin làm giảm nguy cơ mắc một số loại ung thư song còn quá sớm để kết luận liệu chúng có tác dụng với ung thư da hay không. Aspirin cũng có một số tác dụng phụ nghiêm trọng. Vì thế, nếu có ý định sử dụng loại thuốc này thường xuyên, bạn cần trao đổi với bác sĩ về những lợi ích và rủi ro khi dùng thuốc."



Bà bầu có cần kiêng thuốc?

Hạn chế không có nghĩa là "kiêng" tuyệt đối
Các bà bầu luôn được khuyên là hạn chế tối đa việc dùng thuốc trong thời kỳ mang thai, nhất là trong ba tháng đầu. Bởi đây là giai đoạn thai nhi hình thành các bộ máy của cơ thể, việc sử dụng thuốc có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của bé.
Ba tháng đầu cũng là thời kỳ nhạy cảm nhất, dễ bị tác động từ các nhân tố bên ngoài, dùng thuốc phải đặc biệt cẩn thận nếu không sẽ dẫn đến sẩy thai hoặc dị tật ở thai nhi.
Nhưng, điều đó không có nghĩa là bà bầu tuyệt đối không được dùng thuốc ngay cả khi ốm đau, mỏi mệt. Cũng như cây chỉ có thể xanh tốt trên mảnh đất màu mỡ, con bạn cũng cần được nuôi dưỡng trong cơ thể khỏe mạnh của mẹ.
Vì vậy, khi người mẹ gặp vấn đề sức khỏe thì cũng có thể cần đến sự trợ giúp của thuốc để bình phục trở lại. Mặt khác, không thể ỷ lại hoàn toàn vào sức đề kháng của cơ thể người mẹ. Nếu cơ thể không thể "tự chữa lành" thì việc dùng thuốc là điều cần thiết để tránh trường hợp bệnh kéo dài và tiến triển xấu càng ảnh hưởng đến thai nhi.
Đông y "lành" hơn Tây y?
Nhiều người thường chọn thuốc Đông y sử dụng khi mang bầu với ý nghĩ giản đơn là "cho nó lành". Tuy nhiên, bạn cần nhớ rằng, dù trong thuốc Đông y và Tây y, thì đều tiềm ẩn những vị thuốc gây hại cho phụ nữ mang thai.
Thuốc Đông y có rất nhiều vị thuốc gây ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển của thai nhi đặc biệt làm gia tăng sự co bóp tử cung dễ gây động thai, sảy thai. Ví dụ: Nhóm thuốc giải biểu có tác dụng hành huyết, giảm đau, dùng trong các chứng bế kinh, ứ huyết, thai chết lưu; Vì vậy tuyệt đối không được dùng cho thai phụ.
Nhóm thuốc Đông y thanh nhiệt có dược chất với mẫu đơn. thông kinh hoạt huyết, rễ cây cỏ tranh có tính giải nhiệt nhưng lại không tốt cho thai nhi.
Hay nhóm thuốcĐông y trịho và nhóm hành khí với những vị thuốc cay, ấm như: bán hạ, hậu phác, chỉ thực; thường sơn vị đắng có tác dụng tiêu đờm, chữa viêm khí quản lại có tính nóng, nhưng lại dễ gây tác động xấu cho bà bầu.
Nhóm bình can tác dụng an thần như toàn yết (bọ cạp), băng phiến (tinh dầu đại bi) tác dụng vào hệ thần kinh nên cũng được khuyến cáo không dành cho những phụ nữ mang thai.
Thuốc Tây y cũng ẩn chứa những hiểm họa mà nếu không lựa chọn sáng suốt, rất dễ ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi.
Ví dụ kháng sinh và Sulffamid có tetracyclin tích lũy ở xương và răng, làm răng bị đổi màu suốt đời, trẻ chậm lớn, có thể dị tật ở chân tay; Steptomycin, Gentamicin, Amikacin, Kanamycin có thể gây điếc không hồi phục; Cloramphenicol gây "hội chứng xám" ở trẻ sơ sơ sinh hoặc Rifampicin: đe dọa chảy máu trong chuyển dạ; Sulfamid: đe dọa vàng da nhân não ở trẻ sơ sinh…
Một số thuốc có lợi và nên dùng cho bà mẹ mang thai là vitamin hỗn hợp (obimin, sắt, acid folic) cũng có thể phản tác dụng nếu dùng thừa. Vì vậy, bạn cần chú ý sử dụng đúng liều lượng và theo sự chỉ dẫn của bác sĩ.
Tóm lại, để hạn chế tối đa những tác động đến thai nhi, thì nói không với thuốc trong mọi hoàn cảnh không phải là lựa chọn thông minh. Điều quan trọng là bạn cần phải biết lựa chọn loại thuốc và phương pháp điều trị thích hợp dưới sự tư vấn của bác sĩ.



Thuốc ho: mua thì dễ, dùng thì khó

Không cứ ho là phải uống thuốc lông đờm
Ho được định nghĩa là động tác thở hắt mạnh làm thanh môn đột ngột mở rộng, tống không khí cùng với những chất không mong muốn (thường là đờm gây vướng mắc khó chịu) ra ngoài khí quản. Chính điều này đã gây nên những ngộ nhận đáng tiếc về cách dùng thuốc ho của một số người hiện nay.
Rất nhiều người đã cho rằng hễ bị ho là phải uống thuốc ho có thành phần lông đờm. Và thuốc ho lành tính nên có thể dùng từ vài ngày đến rất nhiều ngày. Các chuyên gia y tế đã cảnh báo rằng thuốc long đờm có nhiệm vụ làm tăng thể tích các dịch tiết đường hô hấp để chúng dễ bị bật ra ngoài, tránh vướng cổ gây khó chịu.
Tuy nhiên, thuốc ho lôngđờmlại dễ tạo ra các cục đờm, đôi khi làm tắc nghẽn đường thở. Vì vậy, cần tuyệt đối không dùng loại này cho những người suy hô hấp, hen suyễn, trẻ em và phụ nữ nuôi con bú.
Nhận diện cơn ho
Phần lớn các nguyên nhân gây ho là do viêm nhiễm vi khuẩn cấp tính (tai mũi họng, răng hàm mặt, phế quản, phổi...), do kích ứng, dị ứng và cả dị vật. Bên cạnh đó, ho còn do các bệnh lý nguy hiểm gây ra như lao phổi, viêm phổi, hen suyễn, tâm phế mạn, ung thư phổi, phổi tắc nghẽn mạn (COPD), giãn phế quản, áp-xe phổi, tràn khí màng phổi... Điều quan trọng ở đây là bạn cần phải dè chừng khi ho có kèm theo sốt, khó thở, tím tái, ho kéo dài,...
Nếu gặp phải tình trạng này, bạn cần phải được thăm khám cẩn thận bởi các chuyên gia y tế. Phương pháp điều trị và dùng thuốc cho bạn sẽ được các chuyên gia lựa chọn dựa vào đặc điểm ho khan hay ho có đờm.
Ho khan thường do cảm lạnh, cúm, viêm nhiễm đường hô hấp trên, chảy nước mũi vào trong hoặc do kích ứng; có thể dùng codein, pholcodin, dextromethorphan và kháng histamin về đêm. Ho có đờm thường liên quan đến các bệnh đường hô hấp mạn tính. 
Việc dùng các thuốc long đờm, tiêu chất nhày, giãn phế quản kết hợp với corticoid, các enzym (serrapeptase hoặc chymotrypsin) và kháng sinh là khá hữu ích.
Dựatrên các dòng thuốc ho đang có mặt trên thị trường Việt Nam hiện nay thì có thể phân thuốc trị ho thành các nhóm chính như sau:
1. Thuốc lông đờm
Gồm ipecacuanha, muối amoni, muối iod, một số tinh dầu như cajiput, bạc hà, gừng, natri benzoat, terpin. Các biệt dược: Ho long đờm, Acodin, Terpicod, Passedyl, Pulmonal, Terpin...
2. Thuốc tiêu chất nhầy
Làm thay đổi cấu trúc niêm dịch, giảm độ nhớt, dễ đào thải. Đó là các hoạt chất autylcystein, carbocystin, metylcystein, mesna... Các biệt dược: ACC, Acemuc, Turant, Rhinathiol, Mucusan... Nhóm thuốc này có thể gây tràn dịch phổi (ngập) và phá hỏng lớp chất nhày bảo vệ niêm mạc dạ dày. Cần thận trọng với người có tiền sử loét dạ dày - tá tràng. Thuốc cũng không nên dùng cho người có thai 3 tháng đầu thai kỳ và người nuôi con bú.
3. Các thuốc kháng histamin
Có tác dụng làm dịu, trị ho và làm giảm dẫn truyền thần kinh Cholinergic, làm giảm tiết dịch mũi (viêm mũi, chảy nước mũi vào họng khí quản gây ho). Nhóm thuốc này có Diphenhydramin, Chlorpheniramin...
Các biệt dược: Toptusan, Toplexil, Tiffy, Rhumenol... Thuốc có tác dụng phụ là gây ngủ ban ngày, rất bất lợi cho nhiều công việc như vận hành máy, lái tàu xe, làm việc trên cao hoặc nơi nguy hiểm. Tuy nhiên, dùng về đêm lại có lợi. Thuốc không dùng cho người ho có đờm vì có thể gây ra những cục đờm tắc nghẽn, không dùng cho người hen suyễn.
4. Thuốc trị ho có tác dụng trung tâm
Qua hệ thần kinh trung ương, thuốc làm tăng ngưỡng của trung tâm ho ở não đối với phản xạ gây ho; hoặc qua hệ thần kinh ngoại biên làm giảm độ nhạy cảm của các thụ thể ở khí quản. Một số thuốc có tác dụng làm tê hay giảm đau trên thụ thể, bảo vệ thụ thể chống các kích thích hoặc gây giãn phế quản.
Các thuốc đó là: Codein, Pholcodin, Dextromethorphan, Clobutanol, Dropropizin, Eprazinon, với các biệt dược Terpicod, Paderyl, Nospan, Maxcom... Các thuốc nhóm này, nhất là Codein, Pholcodin, Dextromethorphan, không được dùng cho người suy hô hấp, hen suyễn, trẻ em, người nuôi con bú.
5. Thuốc giống giao cảm
Có tác dụng chủ vận alpha, gây nên co mạch niêm mạc mũi, trị sung huyết. Thuốc dùng toàn thân như Phenylephrin, Pseudoephedrin... hoặc tại chỗ như Naphazolin.
6. Các thuốc làm dịu
Có tác dụng ngoại biên gián tiếp, bao lấy các thụ thể thần kinh cảm giác ở họng như cam thảo, mật ong, sucrose sirô. Nói chung các thuốc này dùng an toàn. Tuy nhiên, không nên dùng bất kỳ loại mật ong nào cho trẻ em dưới 1 tuổi.
7. Các thuốc tê
Tác dụng gián tiếp trên các thụ thể cảm giác. Được dùng qua đường hít, ngậm trong trường hợp ho khó chữa như viêm đường hô hấp trên, ung thư. Thuốc có thể làm mất tất cả các phản xạ có tác dụng bảo vệ phổi và gây co thắt phế quản, tạm thời làm mất phản xạ nuốt; vì vậy phải thận trọng khi dùng.
8. Thuốc trị ho phối hợp nhiều thành phần
Đây là vấn đề mà các nhà điều trị học còn nhiều bàn cãi và nhiều người cho là phi lôgic, mang lại nhiều tác dụng phụ. Các chất phối hợp gồm kháng sinh, vitamin, sát khuẩn (guaifenesin), opioid, các chất làm long đờm, tiêu chất nhày, đặc biệt phải kể đến các chất giống giao cảm và kháng histamin. 
Hai thuốc này có rất nhiều tác dụng phụ nặng nề với những người tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh mạch vành, bệnh tuyến giáp, glaucoma, u phì đại tuyến tiền liệt, ho có đờm, người mang thai, trẻ con và người cao tuổi, người suy hô hấp, bệnh tim, bệnh lý đường hô hấp và tai biến mạch máu não.
Mọi người cần cân nhắc và thận trọng với các biệt dược trị ho như Actifed, Actitab, Ameflu, Ametussin, Atussin, Codepect, Contac, Dicolsin, Tiffy, Rhumenol... Chúng đều là những thuốc phối hợp từ 3-5 chất, ngoài tác dụng phụ lại còn tương tác bất lợi với các thuốc khác dùng cùng lúc. Và đặc biệt, khi đang dùng thuốc ho thì người bệnh tuyệt đối không được uống rượu bia để phòng tránh những biến chứng khó lường từ tác dụng phụ của thuốc.
Khi nhiệt độ thay đổi đột ngột từ nóng chuyển sang lạnh hoặc rét chuyển sang rét đậm, người cao tuổi nên hạn chế ra khỏi nhà lúc sáng sớm.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons