Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015

Magiê quan trọng như thế nào với cơ thể?

Nó tham gia vào hơn 300 phản ứng hóa học giúp cho cơ thể hoạt động bình thường như tổng hợp protein, cơ bắp và chức năng thần kinh, kiểm soát đường (glucos) máu, và quy định huyết áp. 
Bên cạnh đó magiê còn góp phần vào sự phát triển cấu trúc của xương, tổng hợp DNA, RNA, và các chất chống ôxy hóa glutathione, đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển của các ion canxi và kali qua màng tế bào. Quá trình này là rất quan trọng để dẫn truyền thần kinh xung động, co cơ, và nhịp tim bình thường.
Magiê quan trọng như thế nào với cơ thể?Các loại đậu, loại hạt là thực phẩm chứa nhiều magiê.
Dấu hiệu ban đầu của sự thiếu hụt magiê, người bệnh sẽ có cảm giác chán ăn, buồn nôn, nôn, mệt mỏi và suy nhược. 
Khi thiếu hụt magiê nặng hơn người bệnh có cảm giác tê, ngứa ran, co thắt cơ và chuột rút, co giật, thay đổi nhân cách, nhịp tim bất thường, và co thắt mạch vành có thể xảy ra. Nặng hơn nữa có thể dẫn đến giảm canxi máu hoặc hạ kali máu… Vì vậy, khi xảy ra các triệu chứng trên có thể nghĩ tới cơ thể bị thiếu hụt magiê.
Magiê có nhiều trong thực phẩm cả thực vật và động vật và đồ uống như các loại rau lá xanh (rau chân vịt, bông cải xanh), các loại đậu (đậu đen, đậu phộng), các loại hạt (hạt điều, hạnh nhân), thịt bò, thịt gà… Nói chung, các loại thực phẩm có chứa chất xơ là nguồn cung cấp magiê dồi dào.
Những người dễ bị thiếu hụt magiê như chế độ ăn uống không cung cấp đủ (ăn nghèo nàn các thực phẩm có chứa khoáng chất này), người có bệnh đường tiêu hóa (tiêu chảy, viêm ruột), người bệnh đái tháo đường typ 2, người nghiện rượu, người cao tuổi (người cao tuổi có chế độ ăn uống thấp hơn khi còn trẻ, nguy cơ mắc các bệnh mạn tính cao…) và việc dùng một số thuốc trong điều trị bệnh cũng có thể dẫn đến sự thiếu hụt magiê trong cơ thể…
Hầu hết mọi người có thể dung nạp magiê thông qua chế độ ăn uống, nhưng đôi khi việc bổ sung magiê bằng thuốc lại là cần thiết nếu nồng độ magiê trong cơ thể quá thấp.
Khi bổ sung magiê bằng thuốc cần lưu ý để tránh dùng quá liều, dùng thừa. Việc dùng quá nhiều magiê từ thực phẩm không gây hại cho sức khỏe ở người khỏe mạnh vì thận loại bỏ lượng dư thừa trong nước tiểu. 
Tuy nhiên, liều cao từ thuốc thường gây tiêu chảy có thể đi kèm với buồn nôn và đau bụng quặn. Các triệu chứng của ngộ độc magiê bao gồm buồn nôn, nôn, hạ huyết áp, đỏ bừng mặt, bí tiểu, tắc ruột, trầm cảm, yếu cơ, khó thở, nhịp tim không đều, và ngừng tim…
Theo DS Hoàng Thu - Sức khỏe và Đời sống


Các thuốc "cứu sống" tạng sau ghép

Ngày nay, nhờ những thành công của ngành ghép tạng đã cứu sống được nhiều người bệnh mà trước đó được cho là "vô phương cứu chữa". 
Song song với sự thành công của các kỹ thuật ghép tạng, thuốc chống thải ghép cũng đạt được những thành tựu đáng kể nhờ vào sự phát triển của miễn dịch, sinh lý bệnh và công nghiệp dược.
Vì sao phải dùng thuốc chống thải ghép?
Những thành công ban đầu của y học thế giới về ghép thận ở người từ những năm giữa thế kỷ XX đánh dấu một bước phát triển mới của kỹ thuật ghép tạng. Sau ghép thận là ghép tim, ghép gan, ghép tụy đã mở ra ngành ghép tạng. 
Nhưng sau ghép tạng, thải ghép là nguy cơ hàng đầu cho người được ghép - đó là nguyên nhân lớn nhất khiến các ca ghép tạng thất bại. Để khống chế quá trình này, bệnh nhân cần dùng thuốc chống thải ghép.
Thuốc azathiopurin - một dòng thuốc ức chế miễn dịch đầu tiên được dùng để chống thải ghép được sử dụng năm 1957. Cyclosporin được sử dụng trên lâm sàng như thuốc ức chế miễn dịch từ năm 1978 và từ đó ngành ghép tạng trên thế giới bước sang một trang sử mới.
Các thuốc Thuốc chống thải ghép đóng vai trò vô cùng quan trọng vào thành công của ca ghép tạng
Hai nhóm thuốc đầu tiên được sử dụng trong lĩnh vực này là corticoid và azathioprine (thường được phối hợp với nhau). Từ lâu, người ta đã biết corticoid là chất kháng viêm mạnh, đồng thời cũng có tác dụng loại bỏ phản ứng miễn dịch (IMS). Điều bất lợi là việc dùng nhóm corticoid lâu dài sẽ dẫn đến các tác dụng phụ bất lợi cho người bệnh.
Từ thập niên 80 thế kỷ 20, thuốc ciclosporine A bắt đầu được sử dụng để phòng ngừa sự đào thải trong các ca ghép thận, kết hợp với corticoid hoặc azathioprine. Chất này được ly trích từ một vi nấm, cho phép giảm bớt liều dùng corticoid, kéo dài sự sống của mô ghép trong cơ thể. 
Nhưng ciclosporine cũng có những tác dụng phụ, đặc biệt là trên thận. Độc tính ấy giờ đây đã được kiểm soát bằng cách giảm liều qua theo dõi định lượng máu 2 giờ sau khi dùng thuốc. Ngoài ra, ciclosporine còn làm tăng huyết áp và sự phát triển nang lông, dẫn đến chứng rậm lông.
Từ những thuốc ức chế miễn dịch không đặc hiệu như glucocorticoid, azathioprine, hiện nay đã có các thuốc ức chế miễn dịch khác đặc hiệu hơn, tăng tỷ lệ thành công, giảm tỷ lệ thải ghép, an toàn và ít tác dụng không mong muốn.
Các thuốc IMS trở nên phong phú và đa dạng ở những năm 1990. Tacrolimus có mặt trên thị trường và trở thành chất dùng xen kẽ với ciclosporine nhờ được trình bày dưới dạng dễ hấp thu hơn. Rồi acide mycophénolique được các nhà chuyên môn sử dụng để tạo nên cơ chế chống đào thải hiệu quả nhất.
Sự kết hợp nhiều loại dược phẩm nhóm này cho phép bệnh nhân theo đuổi việc điều trị chống đào thải mô ghép, đồng thời kéo dài tuổi thọ của mô ghép.
Cuối thập niên 90, những chất kháng thể mới như basiliximab và daclizumab được tung ra thị trường, góp phần hoàn thiện nhóm thuốc IMS, đạt được tác dụng chống đào thải mô ghép thật hiệu quả trong những ngày đầu sau khi mổ.
Từ năm 2000, nhiều thuốc mới đã xuất hiện như sirolimus, éverolimus, góp phần mang lại hiệu quả trong việc ghép tim.
Hiện nay, các viện nghiên cứu dược phẩm đang tiến hành tìm kiếm những phân tử mới thật đặc biệt, vừa tăng tác dụng chống đào thải vừa làm giảm độc tính của thuốc IMS. 
Mục tiêu của các cuộc nghiên cứu là tìm ra những phương pháp mới cho phép đạt được sự cân bằng tối ưu giữa hiệu quả điều trị và khả năng dung nạp của bệnh nhân, giúp họ có thể theo đuổi lâu dài liệu pháp cấy ghép và nâng cao chất lượng sống của mình.
Lựa chọn thuốc như thế nào?
Không thể áp dụng chung một phác đồ thuốc cho tất cả bệnh nhân ghép thận, bởi các bệnh nhân ghép thận không những khác nhau về nguy cơ thải ghép mà còn khác nhau về khả năng đáp ứng thuốc ức chế miễn dịch.
Nguy cơ về thải ghép cấp thường xảy ra trong vòng 3 tháng đầu sau khi ghép, tỷ lệ cao nhất thường gặp trong tháng đầu tiên, có thể do hiện tượng viêm tiếp theo thời gian thiếu máu trước và trong khi ghép của tạng ghép làm tăng tính miễn dịch của nó. Thuốc ức chế miễn dịch thường được dùng với liều cao trong thời điểm này và sau đó có thể giảm liều từ từ.
Tất cả bệnh nhân được ghép khi nào cũng có nguy cơ thải ghép mặc dầu đã được ghép tạng nhiều năm nếu trong trường hợp thuốc ức chế miễn dịch được giảm liều hoặc ngưng dùng thuốc. Điều này xảy ra khi bệnh nhân tự động ngưng thuốc hay đôi khi do bác sĩ nghĩ rằng cần thiết giảm liều thuốc ức chế miễn dịch và cho chỉ định.
Theo ThS Nguyễn Bạch Đằng - Sức khỏe và Đời sống




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317


Dùng kem chăm sóc da sao cho an toàn?

Trong da liễu hiện nay, dược mỹ phẩm ngày càng đóng vai trò quan trọng và được sử dụng rộng rãi mang lại hiệu quả hỗ trợ điều trị cao trong một số bệnh như viêm da cơ địa (eczema), bệnh vảy nến, các bệnh lý trứng cá, nám da mặt, tăng sắc tố sau viêm, các viêm da kích ứng ở mặt. 
Nếu như thiếu dược mỹ phẩm phối hợp điều trị và chăm sóc thì hiệu quả điều trị sẽ kém đi rất nhiều, cả thầy thuốc và người bệnh sẽ mất đi cơ hội để đạt được hiệu quả cao trong điều trị bệnh.
Ví dụ, vai trò giữ ẩm da trong viêm da cơ địa là rất quan trọng thì dược mỹ phẩm là sản phẩm giúp làm điều đó hay đánh giá vai trò của kem chống nắng trong điều trị nám da. 
Theo công bố kết quả nghiên cứu của các bệnh viện da liễu trên thế giới, nếu không có biện pháp chống nắng và sử dụng kem chống nắng đúng cách triệt để kèm theo sẽ dẫn đến thất bại trong điều trị nám da.
Dùng kem chăm sóc da sao cho an toàn?
Để đảm bảo an toàn, tránh tác dụng phụ không mong muốn, trước khi bôi lên da vùng định điều trị (đặc biệt vùng mặt) thì nên bôi vào mặt trong cánh tay để sau 24 - 72 giờ nếu không có phản ứng gì thì mới dùng và tốt nhất là làm test da bằng phương pháp PUT (Provocative Use Test) hay phương pháp ROAT (Repeat Open Application Test): là phương pháp xác định phản ứng với mỹ phẩm chậm.
Thoa mỹ phẩm lên vùng da mặt trong cánh tay 2 lần một ngày (trong 2 tuần) với diện rộng khoảng 5cm để xác định phản ứng. Nếu vượt quá thời gian trên, vùng da thoa thuốc không có biểu hiện gì (như ngứa, hồng ban, nổi mụn nước...) thì chứng tỏ da không bị dị ứng với mỹ phẩm đó.
Sau khi bôi bất kỳ loại mỹ phẩm nào, nếu thấy da bị nổi sẩn, ngứa, đỏ thì phải ngừng ngay lập tức. Dùng vòi nước rửa mạnh để làm trôi đi mỹ phẩm. Thông thường, sau khi ngưng dùng mỹ phẩm thì các triệu chứng trên sẽ giảm dần và hết hẳn. 
Tuy nhiên, một số người cũng có thể bị dị ứng ngày càng nặng hơn và cần được điều trị. Khi đó cần đến cơ sở y tế để có lời khuyên của nhân viên y tế.
Theo BS Lê Đức - Sức khỏe và Đời sống




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317


Lưu ý khi dùng thuốc trị viêm mũi xoang cấp

Viêm mũi xoang cấp là một bệnh thường gặp với các triệu chứng như sốt cao trên 39 độ C, ho nhiều về đêm, mũi có mủ vàng hay xanh, đau họng, có thể kèm theo viêm tai giữa cấp.


Viêm mũi xoang cấp là một bệnh thường gặp với các triệu chứng như sốt cao trên 39 độ C, ho nhiều về đêm, sổ mũi, mũi có mủ vàng hay xanh, đau họng, có thể kèm theo viêm tai giữa cấp... Khi có các triệu chứng trên cần đi khám để được dùng đúng thuốc.
Dùng thuốc kháng sinh
Kháng sinh thường dùng là amoxicillin. Đây là kháng sinh có tác dụng tốt điều trị các nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, viêm xoang, viêm tai giữa… Nhưng khi dùng thuốc này cần lưu ý, thuốc có thể gây ngoại ban (thường xuất hiện chậm sau 7 ngày điều trị); buồn nôn, nôn, tiêu chảy (ở trẻ em dưới 8 tháng tuổi thường có biểu hiện đi phân lỏng). 
Một số tác dụng phụ ít gặp hơn nhưng cũng trầm trọng và nguy hiểm hơn như ban đỏ, ban dát sần và mày đay, đặc biệt là hội chứng Stevens - Johnson. 
Những phản ứng không mong muốn của amoxicilin ở đường tiêu hóa thường mất đi khi ngừng điều trị. Đối với mày đay, các dạng ban khác nếu xảy ra, phải ngừng dùng amoxicillin, trừ khi có ý kiến của thầy thuốc trong những trường hợp đặc biệt, nguy hiểm đến tính mạng mà chỉ có amoxicilin mới giải quyết được. 
Nếu phản ứng dị ứng xảy ra như ban đỏ, phù Quincke, sốc phản vệ, hội chứng Stevens - Johnson, phải ngừng dùng thuốc và phải được điều trị cấp cứu kịp thời.
Lưu ý khi dùng thuốc trị viêm mũi xoang cấpCần tuân thủ đúng chỉ định của bác sĩ khi dùng thuốc
Trường hợp bệnh nhân dị ứng với amoxicillin có thể dùng erythromycin để thay thế. Đối với viên nén bao phim nên uống lúc đói, nhưng nếu bị kích ứng tiêu hóa thì nên uống cùng với thức ăn. Viên bao tan trong ruột erythromycin có thể uống bất cứ lúc nào. 
Khi dùng thuốc này hiếm khi có các phản ứng không mong muốn nặng. Các tác dụng phụ xảy ra phổ biến nhất là các vấn đề tiêu hóa, đặc biệt với liều cao và sự kích ứng tại chỗ. Thường gặp như đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy; ngoại ban… 
Lưu ý, các dung dịch tiêm có chứa cồn benzylic làm chất bảo quản gây độc cho hệ thần kinh, nên không được dùng cho trẻ nhỏ.
Bactrim cũng là một thuốc kháng sinh có thể thay thế khi dị ứng với amoxicillin. Tuy nhiên không nên sử dụng bactrim nếu bị dị ứng sulfamethoxazol hoặc trimethoprim (hai thành phần có trong thuốc này). 
Trước khi sử dụng bactrim, hãy nói cho bác sĩ nếu bệnh nhân có bệnh thận hoặc bệnh gan, thiếu hụt axit folic, hen suyễn hoặc dị ứng nặng, rối loạn tuyến giáp, HIV hoặc AIDS, rối loạn chuyển hóa porphyrin, thiếu hụt G6PD, hoặc nếu bị suy dinh dưỡng… 
Cần dùng thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ, các triệu chứng của bệnh có thể cải thiện trước khi nhiễm trùng đã được xóa bỏ hoàn toàn. Bactrim không thể điều trị nhiễm virut như cảm lạnh thông thường hoặc cúm.
Chống sung huyết, nghẹt mũi
Việc dùng thuốc chống sung huyết mũi, nghẹt mũi sẽ giúp sự dẫn lưu xoang tốt hơn. Thuốc hay dùng là nhóm co mạch như oxymethazolin 0,05% vì ít tai biến, ở trẻ chỉ nên dùng trong vòng 7 ngày.
Thuốc có tác dụng làm giảm tạm thời sung huyết mũi trong các trường hợp do cảm lạnh, viêm mũi, viêm xoang, hoặc dị ứng đường hô hấp trên; Giảm sung huyết ở xoang… 
Nhưng không được dùng thuốc cho những bệnh nhân mẫn cảm với thuốc hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc. Không dùng thuốc nhỏ mũi oxymetazolin hydroclorid 0,05% cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Dùng oxymetazolin quá liều, kéo dài hoặc quá thường xuyên có thể kích ứng niêm mạc mũi, đặc biệt ở trẻ em; có thể gây tác dụng phụ toàn thân như tăng huyết áp, hồi hộp lo lắng, buồn nôn, chóng mặt, đau đầu, đánh trống ngực hoặc nhịp tim chậm phản xạ. 
Các phản ứng bất lợi thường không phổ biến. Tuy nhiên, nói chung không nên dùng thuốc quá 1 tuần, vì dùng thuốc dài ngày có thể gây viêm mũi do thuốc. Cần ngừng thuốc nếu có phản ứng phụ xảy ra.
Chống phù nề trong mũi
Mục đích của chống phù nề để giúp cho sự dẫn lưu xoang và hoạt động của lông chuyển tốt hơn, nên dùng corticoid tại chỗ vì ít tác dụng phụ hơn đường uống.
Khi dùng các corticoid tại chỗ (dạng nhỏ hoặc dạng xịt) cần lưu ý: Đối với dạng dung dịch nhỏ, tính liều theo giọt (như các dung dịch nhỏ mũi). 
Dùng hai ngón tay kẹp nhẹ, cho thuốc chảy ra theo giọt, chứ không dùng cả tay hay nhiều ngón bóp mạnh làm thuốc chảy thành dòng, không đếm được, sẽ dẫn đến quá liều. Trẻ dưới 12 tuổi khó thực hiện đúng kỹ thuật nói trên dù rất đơn giản vì vậy cần sự trợ giúp của người lớn. 
Dùng không đúng kỹ thuật sẽ không đảm bảo được liều dùng hoặc quá liều, khó đạt hiệu quả, dễ bị ngộ độc. 
Đối với dạng xịt, liều được tính theo nhát xịt. Không đưa đầu ống xịt vào sâu trong mũi mà chỉ đặt đầu ống xịt ngay đầu mũi để xịt thuốc (dạng giọt, hay phun sương) vào đúng niêm mạc mũi.
Ngoài ra, cần hút mũi, rửa mũi bằng nước muối sinh lý 0,9% để tránh tình trạng ứ đọng trong mũi giúp mũi thông thoáng. Việc tránh sự lan rộng của dịch tiết cũng có tác dụng hỗ trợ tốt trong điều trị bệnh.
Theo DS Hoàng Thu Thủy - Sức khỏe và Đời sống




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317



Bí kíp dùng thuốc an toàn cho bà bầu

Đương nhiên chẳng có bác sĩ nào khuyên bà bầu dùng thuốc nhưng thực tế ít có bà bầu nào tránh được việc phải dùng thuốc.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Tháng nào trong thai kỳ dùng thuốc đáng ngại?
Đáng ngại nhất là 3 tháng đầu thai kỳ bởi đây là giai đoạn hình thành các cơ quan (tim, thần kinh trung ương, tay, chân...) của thai nhi. Một số thuốc cản trở sai lệch quá trình này gây ra dị tật, quái thai.
Dễ thở nhất là 3 tháng giữa thai kỳ. Đây là giai đoạn thai nhi trưởng thành, hoàn thiện và ít nhạy cảm với thuốc. Tuy nhiên vẫn có những bộ phận tiếp tục biệt hóa như hệ thần kinh và sinh dục bên ngoài nên thuốc có thể gây hại cho các bộ phận này.
Đừng lầm tưởng rằng 3 tháng cuối dùng thuốc là vô hại. Thực tế, tuy lúc này các bộ phận của thai đã hình thành đầy đủ nhưng chưa hoàn thiện như gan, thận… hơn nữa, nhau thai đã mỏng đi nên nhiều thuốc có thể thẩm thấu vào thai.
Cực chẳng đã mới phải dùng thuốc
Có những trường hợp bà bầu bắt buộc phải dùng thuốc nếu không muốn nhận được những "báo động đỏ" về sức khỏe:
1. Sốt cao (>38 độ C): Sốt cao không chỉ ảnh hưởng đến thai phụ mà còn nguy hiểm cho thai nhi, vì vậy bắt buộc phải dùng thuốc hạ sốt.
=> Những thuốc hạ sốt chứa paracetamol thường được bác sỹ chỉ định.
2. Viêm thận: Bệnh nhân bị sốt cao và đau vùng bụng. Nếu để lâu có thể gây hôn mê, trẻ sinh non hoặc nhẹ cân.
=> Kháng sinh với những chế phẩm đặc biệt dành cho thai phụ là sự lựa chọn không thể thay thế. Ngoài ra, thai phụ cần kiểm soát huyết áp, phòng suy tim, truyền nước và chất điện giải.
3. Nấm âm đạo: Sự thay đổi của các hormone trong cơ thể, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các vi khuẩn yếm khí là nguyên nhân dẫn đến nhiễm nấm âm đạo ở bà bầu. Tuy không gây hại cho mẹ và thai nhi nhưng có thể khiến trẻ bị bệnh tưa lưỡi sau này.
=> Uống bổ sung men vi sinh. Trong trường hợp cần thiết có thể dùng viên đặt clotrimazol, miconidazol… là những thuốc ít khi gây tác dụng phụ.
Đề phòng tác dụng phụ của thuốc
Khi nôn, buồn nôn: Bà bầu không được tự ý dùng thuốc chống nôn domperidon bởi thuốc có thể làm tim đập nhanh, nguy hiểm đến tính mạng. Nếu nôn nhiều có thể dùng thuốc chống dị ứng nhóm kháng histamin.
Khi bị cảm: Bà bầu thường e ngại nhất khi bị cảm cúm, nhất là trong 3 tháng đầu của thai kì. Nhiều nghiên cứu khoa học đã minh chứng những thuốc cảm thông thường như: Chất kháng histamine; Chất guaifenesin; Chất giảm đau benzocaine; Paracetamol; Dextromethorphan… có tần số rủi ro thấp đối với thai phụ.
Tuy nhiên, họ cũng cảnh báo: hai độc chất là pseudoephedrine và phenylephrine có thể gây khuyết tật cho thai nhi (vì làm hạn chế lưu lượng máu nuôi nhau thai), nhất là trong 13 tuần đầu của thai kỳ. Đặc biệt, tần số rủi ro sẽ cao hơn nếu thai phụ sử dụng thuốc lá.
Thuốc giảm đau: Bà bầu nên tránh xa các loại thuốc giảm đau gồm: Aspirin, Ibuprofen, Naproxen, Sodium Salicylate và các loại thuốc kháng viêm không seroidal. Việc sử dụng chúng có thể gây sẩy thai, gây khuyết tật và nhiễm độc cho em bé sắp chào đời.
Ngoài ra, việc sử dụng Aspirin trong tuần cuối cùng của thai kỳ còn khiến thai phụ mất nhiều máu trong khi sinh nở.
Theo Thiên Ngân - Sức khỏe gia đình



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317



Sự thật về công dụng của collagen với bệnh khớp

Nghiên cứu mới nhất của InterHealth (Mỹ) cho thấy chỉ có UC-II mới đem lại lợi ích thiết yếu cho khớp nhờ điều hòa hệ miễn dịch, tạo thuận lợi cho sự tái tạo sụn khớp.

Gối là khớp dễ bị thoái hóa nhất
Mối nguy tàn phế từ bệnh khớp

Số liệu từ Nghiên cứu gánh nặng bệnh tật toàn cầu mới nhất cho thấy, các bệnh cơ xương khớp đang là mối nguy lớn với thoái hóa khớp háng và khớp gối xếp thứ 11, viêm khớp dạng thấp xếp thứ 42 trong nhóm gây tàn phế hàng đầu...

Riêng tại Việt Nam, một nghiên cứu mới đây ở TPHCM còn cho thấy có đến 30% người trên 40 tuổi bị thoái hóa khớp gối (khớp thường bị thoái hóa nhất). Điều đó lý giải vì sao giới chuyên môn và cả cộng đồng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc điều trị căn bệnh mạn tính này.

Y học nhìn nhận thoái hóa khớp là quá trình hư hại sụn khớp, cụ thể là hư hại các sợi collagen và chất nền có trong sụn khớp. Chính vì vậy, rất nhiều người bệnh không ngừng tìm kiếm, bổ sung các sản phẩm chứa thành phần collagen với hi vọng giúp khớp của mình được chắc khỏe.

Tuy nhiên, TS.BS Tăng Hà Nam Anh (Trưởng khoa Ngoại Chấn thương Chỉnh hình - BV Nguyễn Tri Phương) cho biết: "Có đến 29 loại collagen trong cơ thể người, loại có mặt tại sụn khớp nhiều nhất là collagen type 2, nên nếu sử dụng các loại collagen khác thì không hề có tác động gì đến sụn".

Cũng theo TS Nam Anh, ngay cả khi sử dụng collagen type 2 thông thường (loại dễ bị biến tính khi tinh chiết hoặc dễ dàng bị biến đổi cấu trúc và đặc tính sinh học khi hấp thụ vào cơ thể người) theo đường uống thì cũng không có tác dụng với sụn khớp, vì sau khi vào trong cơ thể, loại collagen này sẽ bị cắt nhỏ và chỉ có vai trò như các acid amin thông thường, phân bố khắp cơ thể mà không tập hợp được để trở thành nguyên liệu tập trung nuôi dưỡng khớp.
Trong khi đó, sụn khớp nhận dinh dưỡng qua dịch khớp chứ không được nuôi bởi máu nên hệ miễn dịch không nhận biết được sụn khớp chính là một thành phần của cơ thể.

Khi sụn khớp hư tổn, quá trình viêm diễn ra, một phần các mảnh sụn và sợi collagen đứt gãy thâm nhập vào trong mạch máu, lúc này hệ miễn dịch được kích hoạt để tiến hành dọn dẹp những sợi collagen đứt, vỡ dưới sự chỉ huy của tế bào T-Killer (tế bào dọn dẹp những thành phần bị hư hỏng trong cơ thể).

Đồng thời, hệ miễn dịch sẽ vô tình tấn công tất cả các collagen tương tự - bao gồm cả các collagen còn lành lặn tại sụn khớp. Chính việc "tự hủy hoại" này đã đẩy quá trình thoái hóa sụn khớp diễn ra ngày càng nhanh hơn - TS Nam Anh cho biết thêm.

Phát hiện mới về hoạt chất sinh học UC-II
Dưỡng chất sinh học UC-II giúp cơ thể làm chậm quá trình thoái hóa khớp, đồng thời cung cấp nguyên liệu tái tạo sụn khớp
Những nghiên cứu miễn dịch học phân tử của InterHealth (Mỹ) đã khẳng định việc sử dụng hoạt chất sinh học UC-II, được tinh chiết bằng công nghệ cao nhằm giữ nguyên cấu trúc phân tử và đặc tính sinh học, sẽ giúp chủ động sửa chữa, tái tạo các tổn hại của sụn khớp và hạn chế tối đa quá trình tự hủy hoại của sụn khớp.

UC-II khi được uống vào cơ thể, 53% sẽ được hấp thu vào máu, trở thành nguồn nguyên liệu quan trọng cho quá trình tái tạo, nuôi dưỡng sụn khớp. 
Phần còn lại (47%) không bị phân hủy mà đi đến ruột non để tương tác với cơ quan kiểm dịch của cơ thể là mảng Peyer, giúp cơ thể nhận diện collagen như một "người quen", giảm hoạt tính của tế bào T-Killer để không phá hủy các collagen được hấp thụ, đồng thời ngăn chặn quá trình phá huỷ tự nhiên sụn khớp đang diễn ra, từ đó hỗ trợ làm chậm quá trình thoái hóa khớp.

"Việc cung cấp UC-II cho cơ thể sẽ có tác dụng như "1 mũi tên trúng 2 đích", vừa giúp cơ thể bảo vệ, tái tạo sụn khớp từ nguyên liệu mới là UC-II vừa có tác dụng điều hòa miễn dịch, làm chậm quá trình viêm sụn và ngăn chặn sụn khớp hư hại lan rộng", TS Nam Anh khẳng định.

Các nhà khoa học từ Đại học Havard cũng đã tiến hành nghiên cứu về tác dụng của UC-II bằng phương pháp mù đôi, ngẫu nhiên cho dùng UC-II và đối chứng. Kết quả cho thấy nhóm dùng UC-II có nhiều cải thiện đáng kể như ít đau khớp, khớp trơn tru, vận động dễ dàng hơn, tăng gấp đôi sự dẻo dai của khớp...

Tuy nhiên, nếu chỉ với UC-II thì vẫn chưa đủ để cải thiện triệu chứng thoái hóa khớp vì quá trình thoái hóa bao gồm hiện tượng hủy sụn khớp, viêm... 
Việc phối hợp nhiều hoạt chất tự nhiên như vỏ cây liễu (White Willow Bark) có tính chất kháng viêm tự nhiên giúp giảm cơn đau do viêm, bột nghệ (Curcumin) giúp giảm tình trạng viêm dạ dày kích ứng do uống thuốc... 
Tuy nhiên sự kết hợp các hoạt chất sinh học thiên nhiên này cần được thực hiện với công nghệ hiện đại đáp ứng các tiêu chuẩn đặc biệt khi phối hợp các hoạt chất nhằm làm tăng tác dụng hỗ trợ nhưng không gây tác dụng phụ cho người sử dụng. 
Điều này thường chỉ được đáp ứng với các sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ các nước có nền dược phẩm cao như Mỹ, Pháp, Canada...

Chính vì vậy, việc phân biệt rõ vai trò, chức năng và đặc tính để lựa chọn đúng loại collagen chuyên biệt dành cho khớp như UC-II là một điều hết sức thiết yếu giúp người tiêu dung tránh khỏi việc tiền mất mà tật vẫn mang.
Theo Minh Phi - An ninh Thế giới




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317



Thuốc giảm đau: hung thần của dạ dày

Thuốc giảm đau thường chứa morphin. Chất này thường giúp người bệnh giảm đau nhanh chóng, nhưng nó cũng dễ gây nghiện và ảnh hưởng trực tiếp tới niêm mạc dạ dày của người dùng.

Bệnh nhân Lê Văn Dân (61 tuổi Thanh Oai, Hà Nội) đã phải tiến hành phẫu thuật cắt 3/4 dạ dày vì mắc phải bệnh ung thư. Sau ca mổ, ông Dân dần bình phục nhưng vẫn phải truyền máu và tiếp đạm. Trên khuôn mặt khắc khổ của người đàn ông này, không che giấu được những tiếc nuối.
Ung thư dạ dày vì thuốc giảm đau
Theo lời ông Dân, năm 2010, ông bị đau lưng, đau hông, lan dần xuống chân. Lúc bị đau, ông chỉ nghĩ rằng vì mình làm nhiều nên bị đau vớ vẩn. Ông ra hiệu thuốc gần nhà kể bệnh, người của hiệu thuốc đó tiêm cho ông một mũi gọi là thuốc giảm đau. 
Sau khi tiêm, quả thật ông thấy hết đau nên rất vui mừng. Và cứ thế, sau đó, cứ mỗi lần bị đau ông lại ra hiệu thuốc quen nọ để được tiêm một liều thuốc giảm đau.
Nhưng có một điều mà ông không chú ý là khoảng cách các lần phải tiêm thuốc của ông cứ rút ngắn dần dần từ 7 ngày/ lần, xuống còn 4-5 ngày/lần. Mãi về sau ông mới để ý vì thấy tốn kém tiền bạc quá mà bệnh không khỏi. Nên sau đó, một lần vì đau quá, ông Dân quyết định xuống Hà Nội chữa bệnh.
Tại bệnh viện huyện, các bác sĩ cho biết ông Dân bị thoát vị đĩa đệm và cho thuốc về uống. Căn bệnh thoát vị đĩa đệm của ông Dân dần dần đỡ. 
Nhưng cùng lúc đó ông thấy dạ dày bắt đầu đau âm ỉ, vì nghĩ bệnh đau lưng quan trọng hơn nên ông Dân và gia đình chỉ chú tâm chữa thoát vị đĩa đệm, còn để chữa dạ dày, ông chỉ uống thuốc Nam, thuốc Bắc nhì nhằng qua ngày.
Sau đó một thời gian, bụng ông Dân lên cơn đau dữ dội, mỗi lần đi đại tiện lại ra lẫn phân đen như hắc ín. Gia đình đã đưa ông vào bệnh viện huyện. Các bác sĩ cho ông thử máu, tiếp máu và nội soi ổ bụng nhưng vẫn không ra kết quả chính xác bệnh. Ông được cho về nhà nhưng được 1 - 2 ngày dạ dày lại lên cơn đau.
Ông Dân được đưa lên bệnh viện tuyến trên ở Hà Nội để điều trị. Tại BV Bưu Điện, Hà Nội, các bác sĩ đã tiến hành truyền máu, dịch và đạm cho ông vì ông bị thiếu máu trầm trọng. Các bác sĩ tiến hành nội soi dạ dày cho ông Dân. Kết quả là trong dạ dày ông có tế bào ung thư nên phải cắt bỏ phần dạ dày bị nhiễm ung thư đi thì mới có cơ hội sống sót.
Cùng hoàng cảnh với ông Dân, anh Nguyễn Văn Kiên (40 tuổi, Tây Hồ, Hà Nội) mới theo bạn bè đi học đánh tennis để cải thiện sức khỏe, tăng độ dẻo dai cho cơ thể. Nhưng sau một thời gian vận động, anh Kiên thấy đau ở khớp gối, nhất là khi cử động. Nghĩ chỉ bị đau phần mềm nên anh mua loại cao dán làm từ thảo dược, cùng một số thuốc giảm đau về tự chữa trị.
Hôm sau, đầu gối của anh hết đau cử động nhẹ nhàng hơn không nhức mỏi như trước, thấy thuốc hay lại hiệu quả nên từ đó, mỗi lần khớp gối đau vì vận động mạnh hoặc khi thời tiết thay đổi, anh Kiên lại dùng cao dán và uống thuốc giảm đau.
Chỉ tới khi các thuốc này không còn tác dụng giúp giảm đau, anh Kiên mới chịu đi khám thì được biết khớp gối của anh khó có thể phục hồi vì biến chứng nhiễm trùng ổ khớp lâu ngày.
Trong quá trình điều trị bệnh khớp anh Kiên thường cảm thấy buồn nôn, đau vùng thượng vị, người mệt mỏi sụt cân nhanh. Các bác sỹ đã tiến hành xét nghiệm và phát hiện anh Kiên mắc bệnh viêm loét dạ dày, do dùng thuốc giảm đau lâu ngày. "Đúng là già rồi còn dại"anh Kiên ngậm ngùi chia sẻ.
Cẩn trọng khi dùng thuốc
BS Nguyễn Đức Trung (Trưởng khoa Dược, BV TW 108 Quân đội, Hà Nội) chia sẻ: bên cạnh những nguyên nhân phổ biến gây ra ung thư dạ dày như bị nhiễm khuẩn helicobacter pylori, do di truyền, dạ dày bị viêm đi viêm lại, do chế độ ăn uống, sinh hoạt không hợp lý… thì việc lạm dụng thuốc giảm đau cũng là nguyên nhân cao gây nên ung thư dạ dày trong những năm gần đây. 
Rất nhiều bệnh nhân để giảm đau lưng, đau hông… thường tiêm thuốc giảm đau loại non- steroid hay các loại thuốc giảm đau khác có trên thị trường.
Thành phần chủ yếu của các loại thuốc giảm đau thường chứa morphin (thường gây buồn ngủ, giảm đau nhanh), acetaminophen (thuốc giảm đau không gây buồn ngủ), thuốc kháng viêm steroid như ibuprofen… Các loại thuốc này đều gây kích thích niêm mạc dạ dày và gây buồn nôn, khó thở, đau bụng, loét và xuất huyết dạ dày dẫn đến ung thư.
Thường thì triệu chứng ban đầu của bệnh không rõ rệt, nhiều người dễ lầm tưởng bị rối loạn tiêu hóa, nên thường coi nhẹ bệnh, không quan tâm chữa trị ngay từ đầu, chỉ đến khi bệnh đã phát triển nặng rồi thì mới biết, gây khó khăn cho bác sĩ trong điều trị và tốn kém tiền bạc gia đình người bệnh.
Nguyên tắc dùng thuốc giảm đau
Bệnh nhân nên dùng thuốc theo một số nguyên tắc sau:
- Đau nhẹ: Dùng thuốc giảm đau không phải opioid là paracetamol, aspirin, ibuprofen... Việc chọn lựa tùy theo sự nhạy cảm của từng người, những chống chỉ định khác nhau và sự tương tác của chúng với những thuốc khác.
- Đau vừa: Phối hợp thuốc loại opioid yếu (codein, oxycodon) với paracetamol, thuốc giảm đau, chống viêm không chứa thành phần steroid. Có thể dùng các thuốc giảm đau mạnh hơn như codein hoặc dextropropoxyphen.
- Đau nặng: Dùng thuốc giảm đau loại opioid mạnh: morphin, hydromorphon, methadon, phối hợp với thuốc chống viêm không steroid. Thường gặp trong các trường hợp đau do ung thư, hoặc chấn thương nặng thì phải dùng đến morphin và các dẫn chất của nó.
Vì dễ gây ra hiện tượng quen thuốc, nghiện thuốc, chỉ sử dụng khi có sự chỉ định của thầy thuốc, dùng đúng liều lượng và không nên dùng thuốc quá 2 tuần liên tiếp. Không dùng thuốc khi đang lái xe vì thuốc giảm đau thường gây buồn ngủ khiến cho người bệnh rơi vào trạng thái mơ màng không kiểm soát được hành vi.
Theo Thảo Đan - Sức khỏe gia đình





NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons