Thứ Hai, 15 tháng 6, 2015

6 lợi ích không ngờ của Vitamin E

Vitamin E được biết đến như là một chất chống oxy hóa mạnh mẽ và những hiệu ứng tích cực của nó đối với sức khỏe của con người. Vitamin E được sử dụng rộng rãi trong y học và cũng là một chất phụ gia phổ biến đối với các loại mỹ phẩm.
Trong thực phẩm, Vitamin E có nhiều ở các loại: đậu tương, giá đỗ, vừng, lạc, mầm lúa mạch, hạt hướng dương.
Mời bạn tham khảo những lợi ích sau của vitamin E dưới đây:
1. Dưỡng ẩm cho da
Ngoài việc là một thành phần không thể thiếu ở nhiều sản phẩm chăm sóc sắc đẹp, Vitamin E còn được sử dụng trong việc dưỡng ẩm cho làn da của bạn, đặc biệt là ở vùng mắt và môi là hai vùng da nhạy cảm nhất và cải thiện rõ với các nếp nhăn.
2. Bảo vệ da khỏi tia UV
Điều nguy hiểm nhất khi ở một thời gian dài dưới ánh nắng mặt trời là các tia UV có ảnh hưởng tiêu cực đến làn da và là một trong những nguyên nhân gây ung thư da. Vitamin E có thể ngăn tia UV rất tốt và hiệu quả. 
Mặc dù không thể thay thế hoàn toàn kem chống nắng nhưng bạn nên thoa kem có chứa thành phần vitamin E cao trước khi ra nắng để đảm bảo rằng da của bạn vẫn được cung cấp đầy đủ độ ẩm. Đồng thời bạn có thể bảo vệ cơ thể từ bên trong bằng cách dùng các chế phẩm giàu vitamin E.
6 lợi ích không ngờ của Vitamin E
3. Tóc
Vitamin E đã trở thành thành phần không thể thiếu trong dầu gội, dưỡng tóc và mặt nạ nhờ khả năng giữ ẩm cao. Với đặc tính kỳ diệu này, vitamin E rất hữu hiệu trong việc nuôi dưỡng, phục hồi tóc bị hư hỏng, chứng khô da đầu cũng như nang tóc.
4. Não bộ
Các nhà khoa học hiện đại gần đây đã đi đến một kết luận rằng vitamin E- dưới bất kể hình thức nào- đóng một vai trò to lớn trong sức khỏe của não. Nó làm giảm nguy cơ sa sút trí tuệ và suy giảm nhận thức. 
Tuy nhiên, bạn đừng dùng quá nhiều để mong ước có bộ não như Anhxtanh nếu không muốn gặp phiền toái do quá liều.
Giá đỗ rất giàu vitamin EGiá đỗ rất giàu vitamin E
5. Tim
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiêu thụ đủ vitamin E làm giảm nguy cơ đau tim và giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch nói chung. Hãy cung cấp đủ lượng vitamin E hàng ngày để cho tim mạch được khỏe mạnh. Ăn các sản phẩm giàu vitamin E như các loại hạt hướng dương, hạnh nhân, đậu phộng và rau xanh.
6. Tế bào máu
Tác dụng quan trọng nhất của vitamin E trên cơ thể chúng ta cần được nhắc đến là ảnh hưởng của nó đối với các tế bào máu. Đặc tính chống oxy hóa của vitamin E giúp cơ thể bạn sản xuất ra các tế bào máu đỏ mới và làm cho quá trình này diễn ra trôi chảy. 
Như bạn đã biết, chức năng chính của các tế bào màu đỏ là cung cấp oxy khắp cơ thể. Khi các mô có đủ oxy, chúng thực hiện chức năng của mình tốt hơn và trạng thái sức khỏe tổng thể của bạn trở nên tốt hơn.
Với những tác dụng tuyệt vời kể trên hi vọng bạn có chế độ bổ sung vitamin E một cách thường xuyên và hợp lý. Nhưng bạn nhớ tham khảo ý kiến và theo đơn bác sĩ để tránh các tác dụng phụ không mong muốn.

I-ốt sát trùng: Dao sắc dễ đứt tay

Là một dung dịch sát trùng phổ biến và hiệu quả nên cồn i-ốt rất cần thiết trong sát trùng vết thương. Song chúng cũng có thể gây ra những tác dụng phụ nguy hiểm hơn loại sát trùng khác.

sat trung 2
Sạch quá hóa bỏng da
Dung dịch i-ốt có tác dụng giữ sạch da, sát khuẩn vết thương nhưng không phải bôi càng nhiều lần, nồng độc càng đậm càng sạch. I-ốt nguyên chất hoặc cồn i-ốt đậm đặc lại không có tác dụng diệt khuẩn mà ngược lại, còn có thể gây bỏng, càng khiến da nhiễm khuẩn nặng hơn. 
Điều tệ hại là khi bị loét da do i-ốt thì việc liền vết thương rất khó khăn vì vết thương do các tinh thể iốt phá hoại từ trong phá hoại ra.
Mặt khác vì có tính sát trùng cao nên i-ốt tuy chưa gây bỏng thì cũng có thể làm sạm xấu vùng da được sát trùng. Do đó khi dùng trên những vùng da cần thẩm mỹ như mặt, cổ, cánh tay… bạn cần chú ý.
Lời khuyên: Tuyệt đối không được dùng i-ốt đậm đặc hay iốt nguyên chất, chỉ nên dùng dung dịch dưới 10%. Với trẻ em, nếu có ý định dùng dung dịch i-ốt sát trùng thì nên pha loãng thêm 2-3 lần.
Dùng nhiều gây nhiễm độc
Khi dùng i-ốt bôi ngoài trên một diện rộng thì hãy cẩn thận, nồng độ có hấp thu có thể vượt ngưỡng cho phép. Nguyên nhân là khi cùng bôi trên diện rộng, i-ốt được hấp thu quá nhiều, cơ thể sẽ có biểu hiện khó thở, phù nề mặt, môi, lưỡi, miệng, phù nề thanh môn khiến bạn khó nói, phù nề phổi, phù nề đường thở, thậm chí có thể tử vong.
Lời khuyên: Nếu dùng dung dịch i-ốt bôi ngoài ra rộng với diện tích bằng 1/3 diện tích cơ thể thì bắt buộc phải dùng dung dịch i-ốt pha loãng như dùng cho trẻ em. Nếu cơ thể quá nhanh cảm, bạn nên dùng cồn iốt bôi trên cùng da tổn thương nặng,còn những vùng da bị tổn thương nhẹ thì nên dùng nước muối thay thế.
Dùng trên mặt, đe dọa mắt miệng
Khi dùng i-ốt trên vùng mặt, bạn cần chú ý tránh để rơi vào mắt, miệng. Khi vào mắt, chúng có thể khiến nạn nhân bỏng rát, tổn thương giác mác, thậm chí gây mù. Nếu không may bị rơi vào mắt, bạn nên chớp mắt liên tục hoặc cúi mắt sát vào bát nước sạch và chớp cho nước mắt chảy ra để rửa trôi iốt.
Tương tự khi dùng i-ốt trên mặt, bạn có thể bị rơi vào miệng gây ra tê rát lưỡi, lợi. Trong trường hợp này, bạn nên nhổ dung dịch ra và súc miệng (đầu tiên chỉ ngậm rồi nhổ ra để tránh i- ốt lan rộng trong khoang miệng, sau đó mới súc).
Lời khuyên: Với những vết thương gần mắt và miệng, bạn nên tránh dùng dung dịch i-ốt để sát trùng, thay vào đó bạn nên dùng nước muối. Nếu dùng, bạn che chắn mắt cẩn thận bằng một khăn sạch hoặc miếng gạc sạch hoặc nhắm mắt. 
Khi bôi dung dịch i-ốt trên mặt, bạn tránh nói cười để hạn chế chúng rơi vào miệng. Tuyệt đối không được dùng iốt để chấm các vết thương hay các nốt mụn nhọt trong khoang miệng.
Theo An Viên - Sức khỏe gia đình

Đừng để nghiện thuốc xịt mũi

Mỗi khi cảm cúm bị ngạt mũi, viêm mũi, viêm xoang… khiến bạn thật khó chịu, thuốc xịt mũi chính là lựa chọn của bạn khi đó. Nhưng bạn có thể bị nghiện hoặc nhờn thuốc nếu dùng quá nhiều..

Ngạt mũi khiến cho trẻ em khó thở dẫn đến trẻ hay quấy khóc, không chịu ăn uống, còn đối với người lớn thì ảnh hưởng đến công việc và sinh hoạt. Do vậy rất nhiều người đã trữ sẵn loại thuốc này ở nhà để khi cần có thể sử dụng được ngay.
Tuy nhiên, mới đây các nhà khoa học của trường Đại học Boston (Mỹ) đã công bố kết quả nghiên cứu, thực tế đã chứng minh rằng thuốc xịt mũi có thể gây nghiện cho người sử dụng nếu sử dụng thường xuyên và gây ra nhiều nguy hiểm cho những bà mẹ có thai mà vẫn sử dụng loại thuốc này.
Thuốc gây nhiều nguy hại
Rất nhiều loại thuốc xịt mũi được bày bán trên thị trường có cả dạng nhỏ và dạng xịt, nội lẫn ngoại. Có loại chỉ điều trị được bệnh viêm mũi nhưng cũng có loại không có tác dụng chữa khỏi bệnh mà chỉ có thể điều trị được chứng ngạt mũi như bệnh viêm đường hô hấp, viêm mũi. 
Nhưng tất cả các loại thuốc nhỏ mũi đều có tác dụng làm cho mũi thông thoáng, dễ thở bằng cách co mạch máu ở niêm mạc mũi, giảm xung huyết ở mũi.
Thuốc co mạch có hiệu quả trong các trường hợp bị ngạt mũi do lạnh, do cảm cúm. Khi đó, niêm mạc mũi bị xung huyết, dãn mạch, phù nề.
Các loại thuốc này cũng chỉ nên dùng 2 - 3 lần/ngày, đồng thời thường được khuyến cáo không nên dùng quá 7 ngày. Nếu dùng quá nhiều, thuốc co mạch có thể đem lại các hiệu quả ngược như ngạt mũi nhiều hơn, viêm teo mũi, thủng vách ngăn, mất khả năng khứu giác.
Một số thuốc xịt mũi có chứa corticoid có tác dụng chống viêm, chống dị ứng, thường được chỉ định cho người bị hắt hơi, chảy mũi, ngạt mũi do viêm mũi dị ứng, polyp mũi. 
Có tác dụng sau 3-5 ngày sử dụng, nhưng lại gây ra một số tác dụng phụ như rát mũi, khô mũi, chảy máu mũi, thậm chí bị buồn nôn, nôn và kích ứng với dạ dày, do đó, người bệnh cần phải thông báo cho bác sĩ khi thấy các triệu chứng này.
Thuốc có thể gây nghiện
Hiện có rất nhiều người bị sổ mũi kéo dài hơn một tuần, thậm chí hơn một tháng và sử dụng thuốc xịt mũi trong một thời gian dài. Nhiều nghiên cứu cho thấy không nên sử dụng thuốc xịt mũi thường xuyên vì chúng có thể gây nghiện.
Thông thường, mỗi khi nghẹt mũi, chúng ta khó có được giấc ngủ ngon và một giải pháp tức thời là dùng thuốc nhỏ mũi hoặc thuốc xịt mũi để mở rộng đường thở. Thế nhưng sau đó không lâu, mũi lại sẽ bị nghẹt và chúng ta lại tiếp tục sử dụng thuốc nhỏ mũi, cứ như vậy thì người sử dụng thuốc nhỏ mũi sẽ bị tăng liều lượng.
Một số người sử dụng thuốc nhỏ mũi thì bị hồi hộp, kích ứng. Đây chính là do tác động tiết adrenalin được gây ra do ảnh hưởng của các loại thuốc nhỏ mũi. Rất nhiều thuốc nhỏ mũi và xịt mũi có chứa những dược chất có thể gây nghiện như oxymetazoline, phenyleherine, neosynephrine, xylometazoline.
Bất cứ những loại thuốc nhỏ mũi hoặc xịt mũi có chứa các dược chất gây co mạch đều có thể gây nghiện. Khi sử dụng thuốc nhỏ mũi trong một thời gian dài và bị nghiện, hệ thống lông mao mũi sẽ bị "mất phong độ", do đó, mũi vẫn còn cảm giác như bị nghẹt. 
Trong trường hợp này, trà ấm, xúp gà hoặc xoa nắn vùng xoang mũi sẽ giúp cải thiện được bệnh trạng một cách đáng kể và an toàn hơn là tiếp tục sử dụng thuốc nhỏ mũi.
Hại cho thai nhi
Các nhà khoa học đã tiến hành theo dõi số trẻ em bị dị tật bẩm sinh trong giai đoạn 1993 - 2010, trong đó mẹ của các em này được hỏi liệu họ có gặp vấn đề gì liên quan đến nhiễm sắc thể hay không. 
Sau đó, các nhà nghiên cứu đã phân tích thông tin nhận được, đồng thời họ cũng biết được các bà mẹ này đã sử dụng những loại thuốc gì trong thai kỳ, kể cả hai tháng trước khi mang thai.
Từ đó, các nhà khoa học rút ra kết luận việc sử dụng thuốc có hoạt chất phenylephrine, ví dụ như các loại thuốc chống phù nề, trong ba tháng đầu của thai kỳ khiến trẻ sinh ra có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch cao gấp tám lần. Còn hoạt chất phenylpropanolamin có trong các loại thuốc xịt mũi có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến thính giác và dạ dày lên 8 lần.
Ngoài ra, các nhà khoa học còn ghi nhận có mối liên quan giữa việc sử dụng loại thuốc "giả ephedrin" với các di tật liên quan đến các chi. Bên cạnh đó, việc sử dụng thuốc có hoạt chất imidazolin, có trong các loại thuốc xịt mũi và nhỏ mắt, làm tăng gấp hai lần khả năng phát bệnh liên quan đến mối liên hệ dị thường giữa khí quản và thực quản ở trẻ.
Theo Chất lượng Việt Nam, có tới 3% số trẻ sơ sinh mắc các dị tật trên, trong đó một số dị tật cần được can thiệp y tế kịp thời, tuy nhiên, không phải tất cả những dị tật này đều đe dọa tới tính mạng trẻ. Hiện chưa có lý giải khoa học về mối liên quan giữa việc dùng thuốc xịt mũi và nguy cơ trẻ em sơ sinh bị dị tật, mặc dù nguy cơ này không phải là quá cao nhưng các bà mẹ nên chú ý.
Theo Sức khỏe gia đình

Phá thai bằng thuốc: Được kín đáo mất an toàn

pha-thai-bang-thuoc-co-an-toan
Uống rồi vẫn phải hút thai
Nguyễn Diệu Nga, 26 tuổi, vừa mới sinh con được 5 tháng thì lại lỡ dính bầu. Vì không muốn sinh con quá dày, nên vợ chồng Nga bàn tính bỏ thai. Sợ những thủ thuật nạo, hút nên Nga đã chọn phương pháp dùng thuốc. 
Nhưng sau khi uống cả tháng, Nga vẫn còn bị rong kinh, bụng đau âm ỉ, mệt mỏi và khó chịu. Một hôm Nga đang chuẩn bị từ công sở về thì cô ngất ngoài cửa phòng làm việc. 
Đồng nghiệp vội đưa Nga đi cấp cứu thì cô được chuyển sang khoa sản và bác sĩ cho biết Nga phá thai không thành công, cô sẽ phải tiếp tục dùng thủ thuật để bỏ thai.
Trao đổi với phóng viên về phá thai bằng thuốc, BS Nguyễn Thị Thủy, Phó Trưởng phòng Đào tạo, BV Phụ sản Trung ương cho biết: Không phải cơ sở y tế nào cũng được phép phá thai bằng thuốc và không phải bác sĩ nào cũng được phép chỉ định hình thức phá thai này. 
Hiện nay Bộ Y tế đã cấp phép cho việc thực hiện phá thai bằng thuốc cho một số bệnh viện tuyến trung ương, tỉnh, huyện. 
Và theo BS Thủy, thì chỉ những bác sĩ nào được đào tạo bài bản về phá thai bằng thuốc mới được phép chỉ định phương pháp này. Nhưng trong thực tế thì có rất nhiều phòng khám trưng biển bán thuốc phá thai.
BS Thủy cũng cho biết tỉ lệ thành công của hình thức phá thai này là từ 93 - 97%, tuy nhiên nếu không được theo dõi thường xuyên hoặc phá thai bằng thuốc ở những cơ sở chưa được cấp phép, tự mua thuốc phá thai tại nhà… thì cũng có thể dẫn tới một số tai biến như: sót thai hoặc sót nhau phải can thiệp bằng hút buồng tử cung, một số trường hợp gây chảy máu nhiều, kéo dài, đau bụng nhiều trong quá trình sảy thai, hoặc gặp một số tác dụng phụ của thuốc như buồn nôn, nôn, ớn lạnh, sốt nhe, tiêu chảy…
Muốn an toàn: Phải tuân theo quy trình
Theo BS Thủy, việc phá thai bằng thuốc không phải áp dụng cho mọi đối tượng nên tuyệt đối phải có bác sĩ chỉ định thuốc. 
Khi quyết định phá thai bằng thuốc, bệnh nhân sẽ được bác sĩ cho uống 2 viên thuốc cách nhau 48 giờ, cùng với đó bệnh nhân sẽ được theo dõi mạch, huyết áp, tình trạng toàn thân… để kiểm tra những bất thường có thể xảy ra. 
Với hình thức phá thai này thì sau khi thực hiện uống thuốc 2 tuần, bệnh nhân cần tái khám tại để xác định việc phá thai có thành công không, đồng thời để phát hiện sớm những bất thường để có thể can thiệp kịp thời. Phương pháp này cũng chỉ đạt hiệu quả tốt nhất khi thai ở dưới 49 ngày tuổi.
Những trường hợp không nên phá thai bằng thuốc
- Thai ngoài từ cung
- Những người bị bệnh tim, thiếu máu…
- Những người bị bệnh về tuyến thượng thận, rối loạn đông máu, đang điều trị bằng thuốc corticoid hoặc các thuốc chống rối loạn đông máu.
- Những người có tiền sử dị ứng với mifepristone hoặc misoprostol
- Người đang cho con bú…

Thuốc giúp chẩn đoán ung thư thay cho sinh thiết đau đớn

Các nhà khoa học tại Đại học Stanford ở California một thời gian dài đã cố gắng phát triển một loại viên thuốc làm cho các tế bào ung thư phát ra một số protein trong máu.
Về lý thuyết, các protein này sau đó sẽ được phát hiện thông qua một xét nghiệm máu nhanh chóng và dễ dàng. Hy vọng viên thuốc sẽ đủ nhạy cảm để hoạt động kể cả đối với các tế báo ung thư giai đoạn sớm nhất.
Nghiên cứu mới nhất của John Ronald và Sanjiv Gambhir hôm nay được công bố trên tạp chí Prodeedings của Viện hàn lâm Khoa học.
Cách đây hai năm, các nhà khoa học trình bày những kết quả ban đầu từ nghiên cứu của họ tại Hội nghị hình ảnh phân tử thế giới.
Họ phát biểu vào lúc đó: "Chúng tôi hình dung một mô hình quản lý bệnh ung thư mới đầy hiệu quả có liên quan đến phát hiện khối u thông qua một phân tích máu ban đầu, vị trí của khối u thông qua hình ảnh gen phân tử và xử lý khối u".
Một xét nghiệm như thế có thể khám phá các tế bào ung thư được các khối u phát ra trong máu.
Các nhà khoa học biết rằng các tế bào đặc thù ở đó, nhưng khối lượng nhỏ đến độ tới nay thật khó mà phát hiện chúng.

Bất kỳ thử nghiệm nào của thuốc hầu như đều nhắm đến những người được kể là có nguy cơ ung thư.
Bất kỳ thử nghiệm nào của thuốc hầu như đều nhắm đến những người được kể là có nguy cơ ung thư.
Các tiếp cận của nhóm Stanford liên quan đến việc cho mọi người uống một thứ thuốc chứa các mẫu DNA tròn đột nhập vào các tế bào của khối u.
DNA - được gọi là các vòng nhỏ - thúc đẩy các tế bào ung thư tiết ra một loại protein đặc trưng vào trong máu.
Tài liệu trong hội nghị 2013 của họ ghi: "Chúng tôi đã phát triển các vòng tròn nhỏ chuyên tìm khối u [của DNA] điều khiển tác động để phosphatase kiềm hoặc các đom đóm luciferase [protein] có thể tiết ra, và xác nhận chúng để phát hiện các khối u."
"Những protein đó có thể được phân tích qua huyết thanh và hình ảnh không xâm lấn để xác định phân biệt ổ khối u với những chủ thể bình thường.
"Điều quan trọng là chúng cần có một ứng dụng rộng trong nhiều quần thể bệnh nhân… đối với nhiều loại khối u khác nhau."
Các thử nghiệm như thế đầu tiên hầu như nhắm vào những người được kể là có nguy cơ ung thư.
Theo Khởi Thức 

Sai lầm tai hại khi dùng thuốc nhỏ mắt

Dùng chung thuốc nhỏ mắt

Rất nhiều người thường sử dụng chung thuốc nhỏ mắt, hay khi cần thì "mượn" thuốc của người khác để dùng. Điều này không tốt chút nào bởi nó sẽ làm lây các bệnh về mắt từ người này sang người khác. 

Ngay cả khi chúng ta không mắc các bệnh về mắt, nhưng việc dùng chung như vậy cũng trở thành "con đường" cho các vi khuẩn, bụi bẩn lây lan nhanh hơn, làm cho các bệnh về mắt phát sinh hoặc phản tác dụng của thuốc nhỏ mắt, ảnh hưởng đến khả năng nhìn của đôi mắt.

Không chú ý hạn sử dụng

Hạn sử dụng của 1 lọ thuốc nhỏ mắt kể từ khi mở nắp thường khá ngắn, trong đó có những loại chỉ có hạn dùng trong 15 ngày. Tuy nhiên, rất ít người biết hoặc chú ý đến điều này mà thường sử dụng từ khi mở nắp cho đến khi… hết thuốc trong lọ. 

Điều này không những không mang lại tác dụng mà còn gây hại cho đôi mắt của chúng ta. Nó cũng là 1 trong các nguyên nhân khiến các bệnh về mắt, bao gồm cả các tật khúc xạ gia tăng.

Sai lầm tai hại khi dùng thuốc nhỏ mắt mà ai cũng mắc phải 1
Để lọ thuốc chạm vào mắt khi nhỏ

Hàng ngày, đôi mắt của chúng ta phải tiếp xúc với rất nhiều bụi bẩn, yếu tố gây bệnh trong không khí. 

Bởi vậy, việc để lọ thuốc chạm vào mắt khi nhỏ có thể khiến cho các vi khuẩn, bụi bẩn, chất dịch trong mắt bám vào lọ và gây hại ngược trở lại cho mắt trong những lần sử dụng sau đó. Vì thế, các bạn cần hết sức chú ý tới điều này khi dùng thuốc nhỏ mắt nhé!

Nhỏ mắt khi tay bẩn

Cho dù tay bạn không trực tiếp chạm vào mắt hay phần miệng lọ thuốc nhỏ mắt, nhưng những vi khuẩn, các chất bẩn, yếu tố gây hại trên tay hoàn toàn có thể rơi vào mắt và cả lọ thuốc khi chúng ta sử dụng. Để tránh bệnh tật, các bạn nên rửa tay thật sạch bằng xà bông diệt khuẩn trước khi nhỏ mắt nhé!

Sai lầm tai hại khi dùng thuốc nhỏ mắt mà ai cũng mắc phải 2
Chọn thuốc nhỏ mắt bừa bãi

Nhiều người trong chúng ta, khi mắt có các biểu hiện như đỏ, cộm… đều tự mua thuốc nhỏ mắt để điều trị. Tuy nhiên, các dấu hiệu khi đôi mắt mệt mỏi cũng rất dễ bị nhầm lẫn với đau mắt đỏ hoặc cườm nước, đau mắt hột… Bởi vậy, sử dụng thuốc một cách bừa bãi không những không mang lại tác dụng mà còn khiến cho bệnh nặng hơn, điều trị mất thời gian và khó khăn hơn.

Lạm dụng thuốc nhỏ mắt

Sử dụng thuốc nhỏ mắt thường xuyên quá không phải là việc làm tốt. Trong thuốc nhỏ mắt có chứa các thành phần phụ, chất bảo quản hay chất kháng sinh… 

Đây đều là những chất có khả năng gây hại nếu sử dụng quá nhiều. Nó có thể gây ra các tác dụng phụ như cườm nước, thủng mắt, làm teo dây thần kinh thị giác, dẫn đến mù lòa… Bởi vậy, các bạn cần hết sức lưu ý nhé!

Tăng nguy cơ ung thư não - nguy cơ tiềm ẩn do dùng thuốc tránh thai

Nguy cơ phát triển một dạng hiếm của ung thư não (u nguyên bào thần kinh đệm) tăng lên khi chị em dùng các biện pháp tránh thai nội tiết tố như thuốc tránh thai.

Đây là kết luận từ một nghiên cứu mới của Đan Mạch được đăng trên tạp chí British Journal of Clinical Pharmacology. 

Theo trưởng nhóm nghiên cứu, TS David Gaist, giáo sư thần kinh học tại BV Đại học Odense (Đan Mạch): "So với những người không có tiền sử u não, những người phụ nữ sử dụng các biện pháp tránh thai bằng hormone trong thời gian 5 năm trở lên có 90% nguy cơ bị bệnh u thần kinh đệm ở độ tuổi dưới 50".

Tuy nhiên, các nghiên cứu của Đan Mạch không thể chứng minh nguyên nhân. TS Gaist nhấn mạnh rằng phát hiện này cần phải được đặt trong bối cảnh cụ thể vì "u thần kinh đệm là rất hiếm".

Bệnh ung thư não này hiếm như thế nào? Chỉ có 5/100.000 phụ nữ Đan Mạch trong độ tuổi từ 15 - 49 sử dụng thuốc tránh thai phát triển tình trạng bệnh này mỗi năm.

Trong nghiên cứu, nhóm nghiên cứu của Gaist xem xét dữ liệu của chính phủ trên tất cả các phụ nữ Đan Mạch trong độ tuổi từ 15 - 49 mắc bệnh u thần kinh đệm từ năm 2000 - 2009.

Các nhà điều tra đã xác định 317 trường hợp u thần kinh đệm (60% trong số họ đã sử dụng một biện pháp tránh thai tại một số thời điểm). Sau đó, họ so sánh họ với hơn 2.100 phụ nữ không bị u thần kinh đệm ở các độ tuổi tương tự (khoảng 50% trong số họ đã sử dụng biện pháp tránh thai).

Theo báo cáo của các nhà nghiên cứu thì sử dụng thuốc tránh thai hoặc các biện pháp tránh thai nội tiết tố khác đã làm xuất hiện vết nguy cơ u thần kinh đệm và nguy cơ này dường như tăng lên với thời gian sử dụng các biện pháp đó.

Ví dụ, những phụ nữ đã sử dụng bất kỳ loại biện pháp tránh thai nội tiết tố trong khoảng dưới 1 năm thì có nguy cơ bị u thần kinh đệm cao hơn 40% so với người không sử dụng, những người sử dụng 5 năm trở lên sẽ có nguy cơ cao gấp đôi so với người không dùng.

Tăng nguy cơ ung thư não - nguy cơ tiềm ẩn do dùng thuốc tránh thai 1Nguy cơ phát triển một dạng hiếm của ung thư não tăng lên khi chị em dùng thuốc tránh thai. Ảnh minh họa

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu đã phát hiện thấy rằng nguy cơ u thần kinh đệm dường như phát triển mạnh nhất ở nhóm phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai có chứa progestogen chứ không phải là estrogen.

TS Evan Myers, giáo sư về sản phụ khoa tại Trung tâm y tế Đại học Duke ở Durham (Mỹ) đã đánh giá cao về nghiên cứu này của Đan Mạch. 

Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng nghiên cứu này không chứng minh được mối quan hệ nhân - quả giữa việc sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết tố và nguy cơ u thần kinh đệm. 

Myers cũng đề nghị trong tương lai cần tập trung nghiên cứu về một số yếu tố gián tiếp - như progesterone được tìm thấy trong một số loại dụng cụ tử cung - cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng nguy cơ u thần kinh đệm.

"Ngay cả khi tránh thai bằng hormone làm tăng nguy cơ tương đối của bệnh u thần kinh đệm thì khả năng thực tế được chẩn đoán u thần kinh đệm là khá nhỏ", Myers nhấn mạnh.

Theo phân tích thống kê của riêng mình, Myers nói rằng giữa năm 2000 và 2011, u thần kinh đệm ảnh hưởng không đến 2/100.000 phụ nữ Mỹ trong độ tuổi từ 15 - 29. "Tỉ lệ này chỉ bằng 1/10 nguy cơ tử vong do chấn thương ở phụ nữ trong độ tuổi 15 - 44 và ít hơn 2 lần so với nguy cơ tử vong vì biến chứng của thai kỳ", GS Mayer cho biết thêm.

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons