Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

Choáng vì thuốc giảm cân gây ngộ độc thần kinh

Nhiều người cảm thấy sợ khiếp vía khi nhắc đến một số tên thuốc giảm cân bởi chúng gây cảm giác như trên mây hay ốm nghén, chân tay bủn rủn.

Không đi ngoài ra nước nhưng choáng, lâng lâng
Chị Nguyễn Thị Diệu Thu (Hà Nội) được bạn giới thiệu dùng bột trà giảm cân. Theo những thông tin chị biết qua các quảng cáo, sản phẩm không giống như các thuốc giảm cân khác là sử dụng cơ chế gây tiêu chảy mất nước dẫn đến giảm cân.
Thay vào đó, loại trà này sẽ giảm cân bằng cách kiềm chế cảm giác thèm ăn, đốt cháy mỡ thừa, giúp cơ thể săn chắc. Mỗi ngày chỉ cần uống một gói, sau 6 ngày sẽ có hiệu quả, tức giảm từ 1 - 3 cân. Cũng theo giới thiệu, sản phẩm gồm bột trà xanh, cà phê, tinh chất xơ thiên nhiên, vitamin tổng hợp...
Tuy nhiên, sau khi dùng đến gói thứ ba của loại sản phẩm này, chị Thu đã phải bỏ ngang vì không chịu được cảm giác mang lại cũng như các nguy cơ đến sức khoẻ và cuộc sống. Chị Thu chia sẻ, ngay từ lần uống thuốc đầu tiên, chị đã cảm thấy người lâng lâng như đang ở trên mây. 

Kèm theo đó chân tay bủn rủn như sắp ngã quỵ, đau đầu, choáng... Nhìn các món ăn chị cảm thấy sợ và buồn nôn như người bị ốm nghén. Khi đi xe máy chị lái không chuẩn, không làm chủ được tốc độ do cứ lơ mơ như người buồn ngủ...
"Bình thường tôi ăn khoẻ, nhìn món ăn thấy ngon nhưng sau khi uống thuốc cảm giác rất sợ món ăn. Cùng với đó, cảm giác mệt mỏi, choáng, bồng bềnh như đang bay trên mây xanh khiến tôi không thể uống nổi. Sau ba ngày uống trà cũng không đạt hiệu quả gì về việc giảm cân nặng", chị Diệu Thu cho hay.
Theo ThS.BS Võ Tường Kha, BV Thể thao Việt Nam, việc nhiều người sử dụng các sản phẩm giảm cân với triệu chứng gây tiêu chảy mất nước hay gây ức chế thần kinh là không ổn đối với sức khoẻ. Cần dừng ngay khi có những biểu hiện đầu tiên.
Ảnh minh họa

Nguy cơ ngộ độc thần kinh
Phân tích cụ thể hơn, ThS.BS Võ Tường Kha cho hay, thành phần sản phẩm gồm trà xanh, cà phê, vitamin tổng hợp, tinh chất xơ... ghi trên bao bì nhưng có thể đó là những tinh chất hay nói cách khác là các hợp chất. Các hợp chất này có tác dụng ức chế, tăng cường tiêu hao mỡ. Đồng thời, chúng tác động lên trung khu não bộ tạo cảm giác sợ thức ăn từ đó không thèm ăn.
"Người uống luôn trong cảm giác lâng lâng như trên mây, chân tay bủn rủn như sắp ngã quỵ, choáng... là kết quả của việc không ăn uống gì trong khi năng lượng vẫn bị đốt cháy mạnh. Đó là tình trạng cơ thể chuyển hóa trung gian tăng, tụt huyết áp. 

Nếu kéo dài thời gian uống thuốc có thể gây nên hiện tượng ngộ độc thần kinh, thiếu máu não và rối loạn hành vi. Điều này rất đáng nguy cho sức khoẻ, vì thế khi cảm thấy có dấu hiệu cần ngừng sử dụng sản phẩm ngay lập tức", ThS Võ Tường Kha nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia này cũng nhắc nhở, kể cả các sản phẩm khi người uống vào bị mất nước cũng nguy hiểm cho sức khoẻ tương đương loại tác động thần kinh. Điều này cho thấy thuốc làm tăng nhu động ruột, tăng nước vào ruột nên khi đi ngoài nhiều sẽ mất nước, rối loạn điện giải và tuần hoàn. Trong khi không giảm khối lượng nạc của cơ thể nên cơ bản là không có tác dụng giảm cân.
Muốn giảm cân cần đi khám bác sĩ để tìm hiểu nguyên nhân béo phì, sau đó giảm năng lượng đưa vào và luyện tập giúp tiêu hao phần năng lượng thừa. Đối với tập luyện, nên tập các môn hoạt động nặng với thời gian kéo dài từ 30 phút trở lên.
Muốn giảm cân thì cần tập luyện với cường độ cao từ 1 - 2 giờ đồng hồ. Nếu tập khoảng 30 phút thì không thể giảm cân, bởi thời gian này chỉ mới có tác dụng ra mồ hôi, tiêu đường.
Theo ThS.BS Võ Tường Kha - Kiến thức

Khi con ho, sổ mũi: mẹ chớ nên cho uống kháng sinh ngay

Thời tiết thay đổi khiến nhiều người bị ho, sổ mũi, sốt nhẹ ngày càng tăng... Đây là một bệnh lý phổ biến nhưng đa số các phụ huynh thường chủ quan tự mua thuốc về điều trị.

Dùng kháng sinh cho con vô tội vạ
Chị Lam (Thanh Trì) đưa con trai gần 2 tuổi đến bệnh viện khám vì có cháu có biểu hiện ho, sổ mũi kéo dài mấy tháng qua mà không khỏi. Chị Lan cho biết, con chị có biểu hiện ho từ Tết Nguyên đán, chị thường tự mua thuốc kháng sinh về cho con uống. 

Tuy nhiên sau mỗi lần điều trị, triệu chứng ho kết thúc được vài ngày sau đó lại tái diễn. Có những hôm cháu ho cả đêm, nước mũi chảy thành dòng, đặc sệt. Khi đi khám, các bác sĩ cho biết cháu bị nhiễm trùng đường hô hấp trên.

Còn trường hợp của cháu bé Tuấn Anh, 13 tháng tuổi, con chị Kiều Oanh (Tống Duy Tân). Chị Oanh cho biết cháu bị chảy nước mũi thường xuyên và sau đó kèm theo ho. Lo sợ con có thể bị ốm hay ho kéo dài, chị tức tốc đi mua thuốc kháng sinh về điều trị cho cháu hết đợt này đến đợt khác. 

Nhưng gần 1 tháng uống các loại thuốc kháng sinh mà chứng ho của cháu không đỡ, đến lúc này chị sốt ruột đưa con đi khám, các bác sĩ kết luận cháu bị viêm niêm mạc mũi, họng. Vì cháu vừa trải qua một đợt điều trị kháng sinh dài ngày nên rất có hại cho sức khỏe, khi kê thuốc cho cháu bé, các bác sĩ đã phải cân nhắc rất kỹ để lựa chọn thuốc điều trị cho cháu.

Theo BS.CKI Vũ Vân Anh (Sở Y tế Hà Nội), hiện nay có rất nhiều trường hợp con bị bệnh kéo dài không khỏi, có khi nặng thêm lên là do các bậc phụ huynh không hiểu, cứ thấy con ho, sốt, chảy nước mũi... là mua kháng sinh cho con uống quá nhiều hết đợt này đến đợt khác mà không tìm rõ nguyên nhân vì sao.

Khi con ho, sổ mũi: mẹ chớ nên cho uống kháng sinh ngay 1

Không nhất thiết phải dùng kháng sinh

Theo BS Vân Anh hiện nay do thời tiết đang chuyển mùa, nhất là khu vực miền Bắc trong thời gian qua mưa ẩm kéo dài nhiều ngày đã khiến không ít trẻ nhỏ bị sốt vi rút và nhiễm trùng hô hấp. 

Nguyên nhân gây nên bệnh này đều do vi rút gây ra, thường chỉ sau 5 - 7 ngày là khỏi mà không cần phải dùng kháng sinh, chỉ cần điều trị triệu chứng giảm sốt, giảm ho nếu ho quá nhiều.

Khi trẻ bị nhiễm trùng đường hô hấp, dấu hiệu đặc trưng là trẻ ho rất nhiều, thậm chí có những bé bịho cả đêm, ho đến chảy nước mũi, nước mắt. Nhiễm trùng hô hấp cũng có thể gây sốt nhưng thường sốt không cao và sốt cũng không phải dấu hiệu đặc trưng của bệnh.

Còn khi bị sốt vi rút trẻ có biểu hiện đột ngột sốt cao 39 - 40 độ C, đôi khi không có triệu chứng gì khác ngoàisốt. Khi bé bị sốt cao thường rất mệt mỏi, tuy nhiên khi hạ sốt bé lại trở nên linh hoạt. Bé thường bị sổ mũi sau 2 - 3 ngày bị sốt, chảy nước mũi trong...
Theo BS Vân Anh với những bệnh sốt vi rút, nhiễm trùng hô hấp, ho do vi rút thì đến 80 % bệnh là do vi rút gây nên. Vì thế cha mẹ tuyệt đối không dùng kháng sinh ngay từ đầu mà chỉ cho dùng hạ sốt, giảm đau, dùng vitamin, thuốc ho nếu ho quá nhiều. 
Bên canh đó còn trong trường hợp trẻ bị cảm cúm, sốt mọc răng, sổ mũi… nếu chỉ bị nhiễm siêu vi (do vi rút) và chưa có biến chứng thì dùng kháng sinh không những không tác dụng mà có thể còn gây tình trạng kháng kháng sinh về sau. 
Chính vì thế chúng ta cần hạ sốt, hút sạch mũi, nhỏ mũi bằng nước muối sinh lý 0,9% hàng ngày. Nếu sau vài ba ngày mà triệu chứng không đỡ, bệnh có dấu hiệu nặng chúng ta cần đi khám bác sĩ để được chẩn đoán bệnh chính xác và chỉ định dùng kháng sinh khi cần thiết.
Cách hạ sốt cho trẻ thông thường sẽ bằng paracetamol hay đắp trán, lau người với khăn nhúng nước mát. Ngoài ra, cha mẹ nên cho trẻ uống nhiều nước trong ngày, cho ăn đầy đủ chất dinh dưỡng để nâng cao thể trạng cho bé, cho trẻ ăn thức ăn loãng, dễ tiêu như cháo, sữa, súp...

Trong những trường hợp trẻ vẫn mệt li bì dù đã hạ sốt thì đó có thể là dấu hiệu của một bệnh lý khác cần phải đưa đến bác sĩ để khám, chẩn đoán bệnh chính xác và chỉ định dùng kháng sinh khi cần thiết. 

Chỉ có bác sĩ mới xác định được trường hợp nhiễm virus kèm theo bội nhiễm vi khuẩn (triệu chứng viêm nhiễm kéo dài không bớt, có xu hướng nặng thêm). Lúc này, rõ ràng dùng kháng sinh là cần thiết.

Theo Minh Thuyết - Trí thức trẻ

Kháng sinh: Không phải loại nào cũng hại thai


thuoc khang sinh
Nói đến uống thuốc thời kỳ mang thai, chắc hẳn phụ nữ nào cũng e dè, nhất là với kháng sinh. Chính vì thế, không ít người dù được bác sỹ kê toa chỉ định vẫn nói đi nói lại "Em đang có bầu" vì sợ bác sĩ nhầm. Chị Thanh Mai, Q.3, TPHCM cũng là người nằm trong số đó. 
Mang thai được 3 tháng, chị bị viêm nướu, mỗi lần đánh răng là bị chảy máu, đau nhức. Khi các bác sỹ chỉ định chị dùng kháng sinh để điều trị bệnh răng miệng thì chị nhất định từ chối vì sợ ảnh hưởng đến thai nhi. Sau đó, chị nhất định không chịu dùng thuốc và chỉ dùng nước muối.
Tình trạng bệnh của chị cứ tái đi tái lại. Đến tháng thứ 7, chị phải nhập viện vì đau bụng dữ dội. Bác sỹ kiểm tra và kết luận chị có dấu hiệu dọa sinh non, cần chăm sóc đặc biệt. Bác sỹ cũng phân tích cho chị thấy tình trạng răng nướu của chị có thể đã khiến vi khuẩn tấn công thai nhi.
Kháng sinh không phải ngáo ộp
Kháng sinh là một hợp chất mà ngay ở nồng độ thấp đã có khả năng ức chế (không cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở) hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Cũng vì tính đặc hiệu đó nên nhiều người cho rằng kháng sinh rất nguy hiểm với thai, cần phải tẩy chay. 
TS. BS Lê Vương Văn Vệ, Giám đốc BV Chuyên khoa Nam học và Hiếm muộn Hà Nội cho biết khi cơ thể mắc bệnh do nhiễm vi khuẩn như bệnh răng miệng, nhiễm giun, nhiễm nấm hoặc viêm nhiễm phụ khoa…, việc sử dụng kháng sinh để điều trị là rất cần thiết kể cả khi bạn đang mang bầu. 
Thuốc kháng sinh có thể ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi nhưng nếu không điều trị bệnh thì những nguy cơ do bệnh gây ra có thể lớn hơn nhiều lần. 
Tuy nhiên để điều trị cùng một bệnh, bác sỹ có thể chọn lựa một trong nhiều loại kháng sinh khác nhau. Trong trường hợp phụ nữ có thai, bác sĩ sẽ chỉ định loại kháng sinh phù hợp nhất, giảm thiểu ảnh hưởng tới thai mà vẫn khỏi bệnh. 
Lựa chọn liều lượng thuốc, thời gian uống thuốc và thời điểm uống đang mang thai tháng thứ mấy… cũng sẽ giảm thiểu những nguy hiểm mà thuốc kháng sinh có thể mang đến cho em bé của bạn.
Bà bầu có thể dùng loại nào?
Theo BS Vệ, với bà bầu, thuốc kháng sinh có thể xếp thành 3 nhóm:
Nhóm có thể dùng gồm có beta-lactamin (như: penicillin, ampicillin, amoxicillin, cephalosporin...) dùng trong điều trị các bệnh răng miệng, viêm đường hô hấp trên, viêm màng não…; macrolid (như: erythromycin, clarithromycin, roxithromycin...) để điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp (viêm phổi, viêm phế quản, viêm amidan...), nhiễm trùng tai, mũi, họng, viêm phế quản, viêm xoang... 
Đây là nhóm kháng sinh tương đối an toàn đối với thai nghén, lượng thuốc đi qua rau thai tương đối ít so với các kháng sinh khác nên nồng độ thuốc trong máu thai nhi thấp.
Nhóm không thể dùng gồm có: Nhóm tetracycline (doxycylin, minocyclin…) vì nguy cơ làm hỏng men răng của trẻ; Nhóm aminoglycosid (streptomycin, kanamycin…) vì có thể gây tổn thương thận và gây độc cho tai trong của em bé (gây điếc không hồi phục hồi. 
Nhóm quinolon (offloxacin, ciprofloxacin…) có nguy cơ gây ra rối loạn sự phát triển xương khớp trẻ em. Ketoconazol có thể gây ra dị tật dính ngón tay cho em bé.Biseptol gây thiếu máu nặng cho cả mẹ và bé.
Nhóm thuốc dùng thận trọng: Rifamycin không nên dùng trong 3 tháng đầu thai kỳ; nitrofuran, acid nalidixic không nên dùng cuối thai kỳ; metronidazol, trimethoprim, sulfamid không nên dùng giai đoạn đầu và cuối thai kỳ.
Theo Hoàng Giang - Sức khỏe gia đình

Các yếu tố làm giảm hiệu quả điều trị của thuốc

Theo thông tin trên Người lao động, bất kỳ loại thuốc gì dù đưa vào cơ thể bằng cách nào cũng phải trải qua 4 giai đoạn: hấp thu, phân bố, chuyển hóa và thải trừ, trong đó, giai đoạn hấp thu có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới tác dụng chữa trị hoặc phòng bệnh của thuốc. 
Hấp thu thuốc sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Độ hòa tan của thuốc, pH tại vị trí hấp thu, nồng độ của thuốc….
Thời điểm uống thuốc
nhung-luu-y-khi-dung-thuoc
Uống thuốc vào lúc đói chỉ cần 10 - 30 phút là thuốc từ dạ dày xuống ruột, nhưng nếu uống vào lúc no, tốc độ di chuyển thuốc sẽ chậm, phải mất 1 - 4 giờ mới qua khỏi dạ dày. Vậy nếu uống thuốc khi ăn no, thuốc sẽ tồn lâu ở dạ dày, hậu quả tốt hay xấu còn tùy theo từng loại thuốc điều trị.
Một số thuốc cần uống sau khi ăn như nitrofurantoin (điều trị nhiễm khuẩn cấp hoặc mạn tính ở niệu đạo), griseofulvin (thuốc kháng sinh điều trị các loại nấm ngoài da), spironolacton (điều trị xơ gan cổ trướng, phù nề)... 
Khi uống sau bữa ăn, dịch dạ dày và thức ăn sẽ nhào nặn giúp các hạt thuốc trộn đều làm tăng độ ẩm và dễ hấp thu. Với các thuốc tan mạnh trong dầu mỡ như sulfamid, griseofulvin, phenytoin (trị động kinh và các cơn tâm thần vận động)... thì nên uống trong bữa ăn giàu chất béo. 
Phần lớn các thuốc kháng nấm ketoconazol nên uống trong bữa ăn để giảm bớt các hiện tượng không dung nạp đường tiêu hóa và cải thiện sự hấp thu, nhưng cần tránh uống rượu.
Các vitamin, nhất là nhóm hòa tan trong chất béo như vitamin A, D, E, K thì nên uống trong bữa ăn hoặc ngay sau bữa ăn để dầu mỡ có trong thức ăn giúp vitamin dễ hòa tan, cơ thể hấp thu tốt.
Các thuốc chống viêm hạ nhiệt giảm đau không steroid: aspirin, ibuprofen, ketoprofen, diclofenac kèm với nguy cơ loét dạ dày, cần uống thuốc vào bữa ăn và không được uống rượu.
Một số thuốc cần uống vào lúc đói: đó là các thuốc dễ bị ảnh hưởng bởi thức ăn, đặc biệt là các loại kháng sinh. Những thuốc có tác dụng phụ gây nôn do cơ chế trung ương như opiat, thuốc chống ung thư... thì cần phải uống xa bữa ăn.
Ngoài ra, còn một số thuốc không bị thức ăn làm ảnh hưởng đến hấp thu hoặc phá hỏng, có thể uống vào lúc nào cũng được. Ví dụ với các kháng sinh nhóm quinolon (norfloxacin, ofloxacin, ciprofloxacin...) có thể uống trong hoặc ngoài bữa ăn, sự hấp thu không bị ảnh hưởng.
Uống thuốc phải theo độ tuổi
Bên cạnh yếu tố ảnh hưởng bởi pH dạ dày, độ tuổi dùng thuốc cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hấp thu thuốc, nhất là khi dùng thuốc ở trẻ em. 
Mức độ bài tiết dịch vị và acid HCl ở trẻ em tính theo cân nặng thấp hơn rất nhiều so với người lớn, nhất là ở trẻ thiếu tháng và trẻ sơ sinh; mức độ này chỉ đạt được độ tương đương khi trẻ trên 2 tuổi; chính vì vậy, mức độ ion hóa thuốc ở dạ dày trẻ dưới 2 tuổi có sự khác biệt rất lớn so với người lớn. 
Khi đó, việc dùng các thuốc chịu ảnh hưởng bởi dịch vị và acid dạ dày ở trẻ em cần có chỉ dẫn đặc biệt, không được dùng cách tính như với người lớn.
Đối với người trưởng thành, thuốc chuyển hóa ở gan dưới ảnh hưởng của các enzym. Tuy nhiên, với trẻ dưới 1tuổi, nhất là trẻ sơ sinh, các hệ enzym chưa phát triển đầy đủ nên thuốc bị chuyển hóa chậm ở gan, do vậy, cần hết sức thận trọng khi dùng cho trẻ em dưới 1 tuổi các thuốc chuyển hóa theo đường glucuro liên hợp. 
Bên cạnh đó, khi trẻ hơn 1 tuổi (và thường đến khoảng 9 tuổi), tốc độ chuyển hóa thuốc lại lớn hơn ở người lớn, do vậy, một số thuốc như theophylin, carbamazepin khi tính liều mg/kg cân nặng phải dùng cao hơn ở người lớn.
Chuyển hóa thuốc ở gan bị giảm ở người cao tuổi
Sau khi được hấp thu vào máu, thuốc chủ yếu được gắn với protein huyết tương để đến cơ quan đích hoặc phân phối vào các mô mỡ. Quá trình này có sự ảnh hưởng khá rõ nét bởi lứa tuổi.
Ở người cao tuổi có sự giảm lượng nước toàn cơ thể, tăng khối mỡ, giảm khối cơ, do vậy làm giảm thiểu thể tích phân bố và tăng liên kết protein đối với các thuốc giảm đau ưa nước nói chung khu trú ở trong dịch kẽ. Như vậy sẽ làm tăng thể tích phân bố thuốc giảm đau tan trong lipid thuốc đi qua các màng sinh học dễ dàng hơn.
Ngoài ra, sự giảm thiểu nồng độ albumin trong huyết tương theo tuổi (giảm 15 - 20%) hoặc trong một số bệnh lý (như trong bệnh cấp tính, xơ gan, chấn thương, bỏng, suy kiệt, nhiễm khuẩn, hội chứng thận hư, giảm lượng máu, rối loạn dinh dưỡng...) có thể ảnh hưởng lớn đến các thuốc giảm đau vốn gắn mạnh vào albumin như aspirin, diflunisal, naproxen làm cho nồng độ thuốc tự do (không gắn) tăng vọt làm cho tác dụng và độc tính tăng theo. 
Như vậy, cầnthể. Chú ý khi phối hợp nhiều loại thuốc cùng cơ chế này dễ gặp tương tác bất lợi.giảm liều khởi đầu của những thuốc gắn mạnh vào protein huyết tương, sau đó tăng dần tùy theo đáp ứng của từng cá
Theo Sức khỏe gia đình

Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng và thuốc chữa

Khi thời tiết lạnh hoặc trở lạnh đột ngột là yếu tố hàng đầu khiến bệnh nhân dễ mắc phải viêm phổi. Ðặc biệt ở những người có cơ thể suy yếu, còi xương, người già, người nghiện rượu, bị chấn thương hoặc có bệnh lý khác phải nằm giường lâu ngày và những người có sẵn các bệnh mạn tính đường hô hấp như bệnh phổi tắc nghẹn mạn tính, giãn phế quản, bệnh tai mũi họng...
Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng là hiện tượng nhiễm khuẩn của nhu mô phổi xảy ra ở ngoài bệnh viện. Bệnh khá thường gặp, hầu hết các trường hợp được điều trị khỏi hoàn toàn, nhưng nếu điều trị chậm hoặc không đúng, bệnh có thể diễn biến nặng, gây áp-xe phổi, tràn mủ màng phổi hoặc thậm chí có thể tử vong.
Thông thường, bệnh khởi phát sau nhiễm lạnh hoặc cảm cúm, người bệnh đột ngột sốt cao 39 - 400C, đau ngực, khó thở, ho khan. Sau đó xuất hiện ho ra đờm, toàn thân mệt mỏi, hơi thở hôi, đau ngực...
Ở người già, các triệu chứng trên thường bị lu mờ, có khi không có sốt và ho không có đờm. Do vậy, chỉ với các triệu chứng mệt mỏi, chán ăn, thở mạnh, hơi thở có mùi hôi... thì cần đưa đi chụp Xquang phổi để xác định bệnh và được điều trị kịp thời.
Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng và thuốc chữaHình ảnh phổi viêm và phổi bình thường
Dùng thuốc gì?
Nguyên tắc điều trị chung là phải xác định chủng vi khuẩn, virut hay nấm gây ra bệnh để lựa chọn thuốc điều trị cho đúng. Căn cứ vào mức độ nặng nhẹ của bệnh, bác sĩ sẽ kê đơn thuốc điều trị.
Ban đầu, nếu chưa có kết quả xét nghiệm tìm nguyên nhân gây bệnh, việc chọn thuốc thường theo kinh nghiệm lâm sàng của bác sĩ, kết hợp với yếu tố dịch tễ tại địa phương bệnh nhân cư trú cùng mức độ nặng, nhẹ của bệnh, tuổi bệnh nhân, các bệnh kèm theo, các tương tác, tác dụng phụ của thuốc.
Trong điều trị bệnh phổi do vi khuẩn, thời gian dùng kháng sinh thường phải từ 7 - 14 ngày tùy theo tác nhân gây bệnh. Kháng sinh thường được sử dụng là penicillin. Thuốc hấp thu nhanh nhưng không hoàn toàn qua đường tiêu hóa và được hấp thu nhiều hơn khi uống lúc đói. 
Riêng đối với penicilin G bị dịch vị phá hủy nên không uống được, chỉ dùng đường tiêm. Còn với penicillin V không bị dịch vị phá hủy, nên dùng được ở đường uống. 
Tuy nhiên, khi uống thuốc người bệnh có thể bị phát ban, tiêu chảy (đây là một trong những tác dụng phụ của thuốc này gây ra). Nếu một người đã bị dị ứng với penicillin thì không được dùng bất kỳ chế phẩm thuốc nào trong nhóm này. 
Ngoài những biểu hiện dị ứng chung, thuốc còn gây hồng ban biến đổi hoặc vẩy nến, có thể xuất hiện sớm sau 2 - 4 ngày uống thuốc, nhưng cũng có thể xuất hiện muộn sau 9 - 10 ngày. Do vậy, các bệnh nhân bị các bệnh tự miễn không nên sử dụng…
Trong trường hợp đã xác định viêm phổi do virut, nấm hoặc ký sinh trùng, bác sĩ sẽ có chỉ định điều trị đặc hiệu cho từng trường hợp. Có thể cân nhắc sử dụng phối hợp kháng sinh tùy theo tình trạng cụ thể của bệnh nhân.
Điều trị triệu chứng bằng các thuốc giảm đau hạ sốt, bồi phụ nước điện giải, giảm ho, long đờm, kết hợp vỗ rung, dẫn lưu đờm…
Thông thường, bệnh nhân viêm phổi được điều trị ngoại trú nếu không có các dấu hiệu nặng của bệnh. 
Điều trị tại bệnh viện khi bệnh nhân có một trong các dấu hiệu: thở nhanh, tím môi, đầu ngón chân, ngón tay; mạch nhanh; rối loạn ý thức: lú lẫn, nói lảm nhảm, la hét, co giật; sốt cao trên 400C hoặc nhiệt độ cơ thể hạ quá thấp.
Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng và thuốc chữaĐi khám khi có dấu hiệu nghi ngờ viêm phổi để được điều trị sớm
Dự phòng bệnh là cách tốt nhất
Dự phòng bệnh viêm phổi bằng cách giữ gìn sức khỏe, luôn giữ ấm trong thời tiết lạnh. Với người già và trẻ em, trong những ngày lạnh không nên ra ngoài trời nhiều, giữ sạch nơi ở, không hút thuốc; Nên đeo khẩu trang, súc họng bằng nước muối để phòng các bệnh mũi họng. 
Nếu không may bị viêm đường hô hấp trên, cần điều trị tích cực để phòng lan xuống phế quản - phổi. Ăn đầy đủ các chất đạm, vitamin, chất khoáng để tăng cường sức đề kháng. Có chế độ lao động, nghỉ ngơi, rèn luyện thể dục hợp lý, tránh lạnh đột ngột. 
Cần phải đi khám bệnh ngay nếu thấy các dấu hiệu hoặc nghi ngờ bị viêm phổi để được chẩn đoán và điều trị ngay từ sớm… Ngoài ra, tiêm vaccin là một trong những biện pháp dự phòng viêm phổi có hiệu quả nhất.
Theo PGS.TS Nguyễn Tiến - Sức khỏe và Đời sống

Lưu ý khi dùng selen sulfide bôi ngoài da

Selen sulfid là thuốc có tác dụng chống tăng sinh trên các tế bào biểu bì và các biểu mô nang lông, do đó làm giảm sinh sản tế bào sừng. Thuốc cũng có hoạt tính kháng khuẩn và chống nấm yếu trên một số loại nấm da như là nấm Pityrosporum orbiculare gây lang ben. 
Các chế phẩm selen sulfid được dùng bôi tại chỗ để chống tiết bã nhờn và chống nấm dùng điều trị trong các trường hợp như lang ben, viêm da dầu ở da đầu và điều trị gàu.
Sau khi dùng tại chỗ, selen sulfid chỉ được hấp thu dưới dạng vết qua da lành, nhưng nếu dùng lâu trên da bị xây xước, trên màng niêm mạc, trên da bị viêm hoặc dùng trên diện tích rộng, sự hấp thu vào cơ thể tăng lên và có thể gây độc.
Vì vậy, không dùng thuốc vào chỗ da bị xây xước hoặc vào các vùng bị viêm cấp tính hoặc có xuất tiết, không dùng thuốc hai ngày trước và sau khi nhuộm tóc hoặc uốn tóc. Gàu thường là hậu quả của nấm da do Pityrosporum ovale. Do đó nếu thuốc không đạt hiệu quả, nên thử dùng thuốc chống nấm tại chỗ như ketoconazol.
Hiện thuốc có dạng lọ hoặc ống tuýp, dạng hỗn dịch, kem hoặc thuốc gội đầu. Để điều trị lang ben, bôi thuốc vào vùng lang ben và xoa với một ít nước. Để 10 phút, sau đó rửa sạch. Tiến hành như trên, mỗi ngày một lần trong 7 ngày. 
Điều trị viêm da dầu nhờn và gàu ở da đầu, xoa khoảng 5 - 10ml chế phẩm vào da đầu đã làm ẩm. Để 2 - 3 phút. Gội đầu thật sạch. Lại xoa thuốc rồi lại gội thật sạch. Sau khi điều trị, rửa tay thật sạch. Tiếp tục điều trị như trên theo hướng dẫn của thầy thuốc.
Thường dùng 2 lần mỗi tuần, trong 2 tuần sẽ khống chế được bệnh. Sau đó có thể dùng thuốc thưa hơn, cụ thể là mỗi tuần 1 lần hoặc 2 tuần 1 lần hoặc trong một số trường hợp cứ 3 tuần hoặc 4 tuần 1 lần, không nên dùng số lần quá mức độ cần thiết.
Thuốc chỉ được dùng ngoài da và cần lắc kỹ trước khi dùng. Không dùng thuốc cho trẻ em dưới 5 tuổi, bệnh nhân bị dị ứng với một trong các thành phần của chế phẩm. Trường hợp gặp dị ứng với thuốc cần phải ngừng ngay thuốc.
Theo DS Nguyễn Thị An - Sức khỏe và Đời sống

Thuốc giảm đau dễ gây rối loạn cương dương

Các nhà khoa học tại Trung tâm nghiên cứu sức khỏe Kaiser Permanente và trường đại học Sức khỏe & Khoa học Oregon (Mỹ), đã tiến hành nghiên cứu với 11.000 người đàn ông mắc bênh đau lưng. Họ phát hiện thấy rằng việc thường xuyên uống thuốc giảm đau nhóm opioid, bao gồm codeine làm tăng nguy cơ mắc ED ở đàn ông.
Thuốc giảm đau điều trị bệnh đau lưng làm tăng nguy cơ mắc ED ở đàn ông
Cụ thể, kết quả nghiên cứu cho thấy 19% đàn ông, uống thuốc giảm đau nhóm opioid với liều cao trong ít nhất 4 tháng, phát triển ED. Trong khi đó, chỉ có 7% đàn ông không sử thuốc giảm đau nhóm opioid mắc ED.
Do đó, những người thường xuyên sử dụng thuộc giảm đau nhóm opioid có nguy cơ phát triển ED cao gấp 50% so với những người không sử dụng thuốc. Các loại thuốc giảm đau phố biển nhất của nhóm opioid là hydrocodone, oxycodone và morphine.
Hơn 12% đàn ông sử dụng thuốc giảm đau nhóm opioid liều thấp (dưới 120 mg) bị mắc ED. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng nhưng người đàn ông trên 60 tuổi có nguy cơ mắc ED cao hơn những người trẻ tuổi.
"Đàn ông được điều trị bằng thuốc giảm đau nhóm opioid trong thời gian dài có nguy cơ mắc ED rất cao", GS Richard Deyo, tác giả của nghiên cứu, cho biết. "Điều này không có nghĩa thuốc giảm đau gây ra ED, nhưng có liên quan."
GS Richard Deyo cho biết ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng sử dụng thuốc giảm đau nhóm opioid trong thời gian dài có thể dẫn tới nghiện, tử vong do quá liều, rối loạn giấc ngủ, giảm khả năng sản sinh hóc môn và ED.
Theo Hà Hương - VietNamNe
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons