Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015

Thuốc điều trị mụn trứng cá

Mụn trứng cá thường xuất hiện vào giai đoạn dậy thì, nhiều nhất ở lứa tuổi từ 17-19. Các em nam thường bị mụn trứng cá nhiều hơn các em nữ.

Mụn trứng cá không phải là một bệnh lý nghiêm trọng nhưng đôi khi gây ra những mặc cảm tâm lý nặng nề.
Nguyên nhân và triệu chứng
Nguyên nhân:
Sự gia tăng nội tiết tố nam androgen trong giai đoạn dậy thì, sẽ kích thích tuyến tiết bã nhờn tiết ra nhiều chất bã. Các chất bã này cùng với lớp da bị sừng hóa sẽ tạo thành một cái nút làm tắc nghẽn lỗ nang chân lông. Tùy thuộc vào mức độ tắc nghẽn của lỗ nang chân lông mà tạo ra nút đầu đen hay nút đầu trắng.
Sự ứ đọng các chất bã ở nang chân lông sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn propionebacterium acnes (sống nhờ vào các chất bã) phát triển và gây nên sự viêm nhiễm các nang chân lông, hình thành mụn trứng cá.
Có rất nhiều yếu tố thuận lợi để gây ra mụn trứng cá:
- Da có nhiều chất nhờn.
- Môi trường ô nhiễm nhiều khói, bụi hay nhiệt độ tăng quá cao hay quá thấp.
- Thực phẩm: những thực phẩm chiên nhiều dầu mỡ, pizza... kích thích nổi nhiều mụn.
- Stress.
- Phụ nữ trong chu kỳ kinh nguyệt hay đang mang thai.
- Một số loại thuốc làm gia tăng hay gây ra mụn trứng cá như: nhóm thuốc corticosteroid, nhóm thuốc steroid đồng hóa (steroid anabolic)…
Triệu chứng:
Mụn trứng cá là những nốt nhỏ, đỏ, có chấm đen ở giữa hay những mụn to chứa nhiều chất bã xuất hiện ở mặt, cổ, vai, lưng…
Mụn trứng cá thường tự khỏi sau một thời gian ngắn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp viêm nhiễm nặng, mụn trứng cá có mủ nằm sâu ở nang chân lông, rất khó điều trị và khi lành sẽ để lại sẹo.
Thuốc điều trị mụn trứng cá
Sau đây là các thuốc điều trị mụn trứng cá thường được sử dụng:
Benzoyl peroxide: được sử dụng ở dạng gel bôi ngoài da (với các nồng độ 2,5%, 5%,10%)... Thuốc này tác động trên những yếu tố:
- Làm giảm sự tiết các chất bã, là nguyên nhân làm tắc nghẽn nang chân lông.
- Ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn probionebacterium acnes gây viêm nhiễm nang chân lông.
Khi sử dụng benzoyl peroxide, cần lưu ý:
- Tránh bôi thuốc trực tiếp vào mắt, mũi, miệng và vết thương ngoài da.
- Tránh tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và tia tử ngoại.
Các thuốc kháng sinh: Erythromycin, clindamycin, tetracycline, minocycline là những kháng sinh thường được sử dụng trong điều trị mụn trứng cá ở dạng thuốc viên hay thuốc dùng ngoài. Các thuốc này tác động bằng cách ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn gây ra mụn trứng cá.
Cần lưu ý không được sử dụng tetracycline cho phụ nữ có thai hay đang cho con bú và trẻ em dưới 12 tuổi.
Vitamin và nhóm thuốc retinoid: vitamin A và nhóm thuốc retinoid như: tretinoin, isotretinoin… do có tác dụng làm giảm tiết bã và ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn probionebacterum acnes, nên thường được sử dụng trong điều trị mụn trứng cá.
Nhóm thuốc retinoid có thể dùng ở dạng thuốc dùng ngoài hay dạng thuốc viên. Khi sử dụng nhóm thuốc này cần lưu ý:
- Không dùng cho phụ nữ có thai hay cho con bú.
- Không dùng cho người suy gan, thận.
- Tránh bôi thuốc lên mắt, mũi, miệng.
Thuốc nội tiết tố (hoóc-môn): trong thành phần các viên thuốc ngừa thai có chứa estrogen (nội tiết tố nữ) có tác dụng ức chế androgen (nội tiết tố nam) nên làm giảm sự tiết các chất bã. Vì vậy, viên thuốc ngừa thai còn được sử dụng trong điều trị mụn trứng cá.
Cần lưu ý: việc sử dụng viên thuốc ngừa thai có thể gây ra nhiều tác dụng phụ nguy hiểm, nên cần phải có sự chỉ định và theo dõi của thầy thuốc.
Bên cạnh việc dùng thuốc, cần phòng tránh các yếu tố thuận lợi làm gia tăng mụn trứng cá như: giữ gìn vệ sinh da mặt, hạn chế sử dụng mỹ phẩm, tránh căng thẳng stress, tránh sử dụng các loại thực phẩm nhiều dầu mỡ; ăn nhiều rau quả và uống nhiều nước…
Theo DS Mai Xuân Dũng - Sức khỏe và đời sống

Ghi nhớ đặc biệt khi dùng melatonin chữa mất ngủ

Cuộc sống hối hả của thời đại kỹ thuật số khiến cho nhiều người bị chứng mất ngủ. Nếu như trước đây, người ta thường tìm đến các loại thuốc ngủ để điều trị mất ngủ thì giờ đây.

Cuộc sống hối hả của thời đại kỹ thuật số khiến cho nhiều người bị chứng mất ngủ. Nếu như trước đây, người ta thường tìm đến các loại thuốc ngủ để điều trị mất ngủ thì giờ đây, các thầy thuốc thường khuyên bệnh nhân sử dụng một số dược phẩm giúp điều hòa giấc ngủ một cách tự nhiên hơn, trong đó phải kể đến melatonin. Tuy nhiên, bệnh nhân cần lưu ý đặc biệt một số vấn đề khi dùng thuốc này.
Thuốc hay thực phẩm chức năng?
Melatonin là một loại hormon được sinh ra từ tuyến yên ở hệ thần kinh trung ương. Nó cũng được tìm thấy trong nhiều loại thực vật ăn được nên có thể bổ sung qua đường thức ăn hoặc dược phẩm. Melatonin có tính gây buồn ngủ nên thường được sử dụng trong việc điều hòa giấc ngủ và nhịp sinh học nhưng nó không phải là thuốc ngủ.
Ghi nhớ đặc biệt khi dùng melatonin chữa mất ngủMelatonin là một hormon có liên quan tới giấc ngủ và nhịp sinh học
Một số quốc gia coi melatonin như một thực phẩm chức năng (TPCN) chỉ được sử dụng với sự hướng dẫn của thầy thuốc cho một số đối tượng nhất định. Tác dụng điều hòa giấc ngủ và trị chứng mất ngủ, giúp điều hòa nhịp sinh học cho những người hay đi xa và hay thay đổi giờ giấc do trái múi giờ khiến cho nhiều người coi nó như một loại thuốc. 
Một số tác dụng đã ghi nhận được qua các nghiên cứu cho thấy nó giúp giảm mệt mỏi, lo âu, trị nhức đầu, trầm cảm, căng thẳng thần kinh, ù tai, đau trướng bụng, bệnh lý về tim, ung thư và các triệu chứng mãn kinh. Tuy nhiên, chất này không an toàn cho mọi đối tượng và việc sử dụng như TPCN đã khiến cho nhiều người coi nó như một chất không quá nguy hại và sử dụng hàng ngày.
Trong cơ thể con người, loại hormon này giảm dần theo độ tuổi. Tuổi càng cao thì hormon này tiết ra càng ít đi. Các nhà sản xuất dược phẩm bổ sung melatonin so sánh nó giống như nội tiết tố nữ, cần phải được bổ sung để phòng ngừa các bệnh mạn tính ở phụ nữ và duy trì tuổi thanh xuân.
Lạm dụng melatonin và những hệ lụy
Melatonin chỉ an toàn khi sử dụng ngắn hạn, đặc biệt đối với những đối tượng thường xuyên phải đi công tác xa, thay đổi múi giờ khi đi máy bay. Sử dụng melatonin lâu dài sẽ làm giảm khả năng sản xuất melatonin tự nhiên trong cơ thể.
Việc thay thế, bổ sung một số nội tiết tố trong cơ thể có thể mang lại tác dụng không mong muốn như làm tăng đường huyết, vú to ở nam, giảm sút số lượng tinh trùng, đau, khó chịu ở đường ruột và tiêu hóa, mộng du, chóng mặt. Melatonin còn tương tác với một số nội tiết tố khác. Vì vậy, phụ nữ đang hay chuẩn bị mang thai không nên dùng melatonin, kể cả trẻ em. Những người mắc bệnh mạn tính như thận, gan, trầm cảm… nên được tư vấn bởi bác sĩ trước khi sử dụng loại dược phẩm này.
Melatonin có thể tạo cảm giác ngầy ngật một cách nhanh chóng ở một số người nhưng không đưa họ vào trạng thái ngủ. Người dùng có thể cảm thấy chóng mặt, buồn nôn vào ngày hôm sau. Vẫn chưa có quy chuẩn về liều dùng, thời gian dùng, cách dùng melatonin trong việc điều trị khó ngủ. Giống như nhiều dược phẩm bổ sung khác, người dùng không thể biết chắc được liều dùng ghi trên nhãn sản phẩm là chính xác.
Dùng melatonin thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất?
Để tránh các tác dụng không mong muốn khi sử dụng melatonin, không nên sử dụng thuốc quá 90 ngày. Không nên coi loại dược phẩm này như là một thuốc ngủ vì nó chỉ hỗ trợ đồng hồ sinh học của cơ thể. Tránh dùng nó đồng thời với các loại thuốc ngủ khác. 
Người dưới 18 tuổi không nên dùng melatonin. Tuyệt đối không nên uống bia, rượu khi sử dụng melatonin. Người dùng melatonin để hỗ trợ, điều hòa giấc ngủ cần tuân theo sự hướng dẫn của bác sĩ về liều dùng và thời gian dùng. 
Thuận theo nhịp sinh học của cơ thể, nên uống melatonin vào buổi tối trước khi đi ngủ khoảng 1-2 giờ. Melatonin có thể tương tác và thay đổi hiệu quả các thành phần thuốc khác nên không dùng chung với bất cứ một loại thuốc nào.
Để phòng bệnh khó ngủ, bạn nên duy trì sức khỏe và thói quen ngủ đúng giờ và đủ giấc mỗi ngày. Chơi thể thao vừa sức và ăn uống hợp lý. Cần hết sức cẩn trọng khi phải tìm đến sự trợ giúp của thuốc hay TPCN cho giấc ngủ của mình.
Theo DS Nga Quỳnh Anh - Sức khỏe và đời sống

3BNC117 - thuốc mới điều trị HIV đầy triển vọng

Một nghiên cứu mới đây được công bố cho biết, các thử nghiệm lâm sàng đầu tiên được áp dụng trên cơ thể người của thuốc 3BNC117 cho thấy kết quả đầy triển vọng.

Theo đó, các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm Miễn dịch học phân tử Nussenzweig thuộc Đại học Rockefeller (New York - Mỹ) đã thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể người loại thuốc mới kháng vi rút HIV có tên 3BNC117, và đã cho kết quả thành công hơn so với các loại thuốc trước đây.
Các nhà nghiên cứu cho biết, liệu pháp điều trị mới này có thể làm giảm số lượng vi rút trong máu của bệnh nhân HIV một cách đáng kể.
“Điều đặc biệt của thuốc 3BNC117 là có thể chống lại hơn 80% các chủng HIV một cách mạnh mẽ”, Marina Caskey - trợ lý giáo sư về nghiên cứu lâm sàng tại Phòng thí nghiệm Miễn dịch học phân tử Nussenzweig thuộc Đại học Rockefeller nói.
Trong quá trình nghiên cứu, kháng thể 3BNC117 đã cho thấy khả năng tuyệt vời trong việc chống lại 195 trong số 237 chủng HIV. Kháng thể 3BNC117 hoạt động bằng cách nhắm đến vị trí liên kết CD4 của màng bao bọc vi rút HIV; thụ thể CD4 là vị trí chính của sự gắn kết HIV với tế bào chủ.
Khoảng 10 - 30% số người nhiễm HIV tự sản sinh ra kháng thể trung hòa vi rút một cách rộng rãi, nhưng những kháng thể này có xu hướng phát triển trong nhiều năm sau khi bị nhiễm HIV. Trong thời gian này, các vi rút HIV đã có khả năng tiến hóa, thay đổi hình dạng để bảo vệ mình khỏi các kháng thể.
Việc phân lập và nhân bản các kháng thể này cho phép các nhà nghiên cứu sử dụng chúng để chống lại sự lây nhiễm HIV trước khi vi rút có khả năng tiến hóa. Quá trình này được gọi là miễn dịch bị động.
Các kháng thể mới 3BNC117 này đã cho kết quả thành công khi được thử nghiệm trên chuột và khỉ nhiễm HIV. Vì vậy, các nhà khoa học đã bắt đầu tiến hành thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể người.
Tuy mới là bước thử nghiệm khởi đầu nhưng liệu pháp kháng thể 3BNC117 cho kết quả thực sự ấn tượng”, Anthony Fauci - Giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ cho biết - Ảnh: medicalnewstoday.com
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã thử nghiệm 4 liều thuốc 3BNC117 khác nhau trên tổng số 29 tình nguyện tham gia. Mỗi người được nhận một liều thuốc kháng thể duy nhất và theo dõi trong 56 ngày tiếp theo.
Trong số những người tham gia nghiên cứu này, có 17 bệnh nhân dương tính với HIV, và 15 trong số những người này không dùng bất kỳ loại thuốc kháng vi rút nào trong thời gian nghiên cứu.
Trong số 8 người tham gia nghiên cứu đã nhận được liều lượng thuốc kháng thể cao nhất là 30 mg cho mỗi kg trọng lượng, các nhà nghiên cứu đã phát hiện được rằng, số lượng vi rút HIV trong máu bệnh nhân đã giảm từ 8 - 250 lần trong khoảng thời hạn 28 ngày. Trong khi đó, tải lượng vi rút của một số tình nguyện viên còn lại đã giảm xuống dưới mức ban đầu và thậm chí kéo dài đến cuối thời gian nghiên cứu.
Các nhà khoa học cho biết, một liều đơn kháng thể mới được cơ thể người tham gia nghiên cứu dung nạp tốt và đã thành công tạm thời trong việc làm giảm tải lượng vi rút.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng, 2 trong số những bệnh nhân nhận được liều kháng thể 3BNC117 cao nhất, có đến 80% các kháng thể trở nên hoạt động kém hiệu quả trong việc trung hòa vi rút HIV trong vòng 28 ngày điều trị. Sự suy giảm này có thể là do virus HIV đã tiến hóa để chống lại các kháng thể.
Trợ lý GS Marina Caskey nói, “Một loại kháng thể đơn cũng giống như một loại thuốc độc lập sẽ không đủ khả năng để ngăn chặn tải lượng vi rút trong một khoảng thời gian dài, bởi vì sức đề kháng của vi rút sẽ tăng cao”.
Điều này chứng tỏ khả năng thuốc 3BNC117 sẽ cần được dùng kết hợp thêm với những loại kháng thể hoặc thuốc khác để điều trị HIV tốt hơn.
Nhóm nghiên cứu đã phát triển một loại kháng thể HIV thứ hai và có kế hoạch sẽ thử nghiệm đơn độc hoặc kết hợp thêm với 3BNC117 trong tương lai. "Mục tiêu là đóng góp sự hiệu quả trong công tác phòng ngừa và điều trị HIV được tốt hơn”, trưởng nhóm nghiên cứu Michel Nussenzweig nói.
Bên cạnh những phát hiện đáng giá nói trên, nghiên cứu này cũng làm tăng thêm hy vọng điều chế ra được một loại vắc xin ngừa HIV trong tương lai. Bằng cách dựa vào một hệ miễn dịch cá nhân không bị nhiễm bệnh để tạo ra các loại kháng thể như thế này, các nhà nghiên cứu có thể ngăn ngừa lây nhiễm HIV trước khi chúng kiểm soát.
Florian Klein - một trợ lý giáo sư khác của Phòng thí nghiệm Miễn dịch học phân tử Nussenzweig thuộc Đại học Rockefeller cho biết, "Ngược lại với các phép điều trị kháng vi rút thông thường, liệu pháp kháng thể 3BNC117 cũng có thể tham gia vào các tế bào miễn dịch của bệnh nhân, giúp trung hòa vi rút HIV tốt hơn".
Theo Đình Huệ - Phụ Nữ TPHCM

Statins làm tăng nguy cơ đái tháo đường týp 2

Theo các nhà nghiên cứu Phần Lan thì statins có liên quan đến việc tăng nguy cơ đái tháo đường týp 2 hơn 50% sau khi đã điều chỉnh các yếu tố khác. Theo họ thì statins tăng nguy cơ đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 theo một số cách thức. 
Đầu tiên là thuốc có thể tăng sự đề kháng insulin, tiếp theo là thuốc này làm giảm khả năng của tuyến tụy trong việc tiết insulin.
TS Ronald Goldberg, giám đốc đơn vị rối loạn mỡ máu của Viện nghiên cứu đái tháo đường (Đại học Miami) cho rằng những bằng chứng cho thấy statins tăng đề kháng insulin và người dùng khởi phát ĐTĐ, do họ ít đáp ứng với đề kháng insulin để tạo nhiều thêm insulin. 
Tuy nhiên, các tác giả lưu ý rằng nghiên cứu của họ chỉ thấy được mối liên hệ giữa dùng statins và nguy cơ ĐTĐ. Bởi vì nghiên cứu chỉ được giới hạn trong đàn ông da trắng và không rõ nó có đúng ở phụ nữ hoặc nhóm dân tộc khác. 
Ở Mỹ có hơn 29 triệu người bị ĐTĐ, theo Hội ĐTĐ Mỹ. ĐTĐ týp 2 xảy ra khi cơ thể trở nên đề kháng với insulin, một hoóc-môn cần thiết cho quá trình chuyển hóa đường trong thức ăn. Để bù trừ lượng đường tăng lên, cơ thể sẽ sản xuất nhiều insulin. 
Những nghiên cứu trước đây cũng đã cho thấy statins tăng nguy cơ ĐTĐ ở người, tuy nhiên những nghiên cứu này tập trung vào vai trò statins trong phòng chống bệnh tim mạch, không trên nguy cơ ĐTĐ. Các chuyên gia của Đại học Phần Lan đã xem xét tác động của statins trong 9.000 đàn ông không ĐTĐ trong hơn 6 năm theo dõi. 
Những người này có khoảng tuổi 45 - 73 tuổi. 1/4 số đàn ông này uống statins lúc bắt đầu nghiên cứu. Sức khỏe của những người này được theo dõi 6 năm, trong thời gian này có 625 người được chẩn đoán ĐTĐ týp 2 mới phát. 
Sau khi điều chỉnh các yếu tố nguy cơ khác thì người được điều trị bằng statins tăng 46% nguy cơ khởi phát đái tháo đường so với người không uống statins. Nguy cơ ĐTĐ tăng lên với liều lượng thuốc statin là simvastatin và atorvastatin. 
Statins làm giảm nhạy cảm insulin 24% và giảm tiết insulin 12%. Liều cao simvastatin tăng nguy cơ 44%, trong khi liều thấp tăng nguy cơ 28%. Liều cao atorvastatin tăng 37%. 
Trong thực tiễn, statins được kê đơn mà không quan tâm đến bệnh nhân có bị ĐTĐ týp 2 hay không. Các chuyên gia cho rằng cần phải có khuyến cáo trong điều trị thuốc giảm mỡ máu nhóm statin.
Theo Đặng Minh Trí - Sức khỏe và đời sống

Những nguy hại khi dùng thuốc ngủ

Đó có thể là một loại thuốc không kê đơn hoặc thuốc kê đơn. Các thuốc kê đơn thực sự nguy hiểm hơn bạn nghĩ.

Đây là kết quả một nghiên cứu mới của Cục Lạm dụng chất và Dịch vụ sức khỏe tinh thần, Bộ Y tế và Dịch vụ nhân sinh Mỹ. Báo cáo chỉ ra rằng số lượng bệnh nhân đi cấp cứu vì quá liều zolpidem - một thành phần hoạt tính có trong một số loại thuốc ngủ kê đơn - đã tăng gần gấp đôi từ giữa năm 2005 tới năm 2010. Phụ nữ chiếm 2/3 số người vào viện.
thuocngu-3614-1408938467.jpg
Ảnh: united-academics.
Chính xác thuốc ngủ nguy hiểm như thế nào? Theo BS Carl Bazil ở ĐH Colmbia, người đã nhấn mạnh rằng các thuốc kê đơn thường mạnh hơn các thuốc không kê đơn, đúng là thuốc ngủ có thể giúp bạn nhanh chóng chìm vào giấc ngủ nhưng chúng không phải là giải pháp lâu dài để giải quyết những rối loạn giấc ngủ và có thể gây nguy hiểm nếu sử dụng không đúng cách.
Một trong những mối nguy hiểm lớn nhất là tác động của thuốc ở phụ nữ mạnh hơn trên nam giới. Bazil giải thích: "Phụ nữ có xu hướng chuyển hóa thuốc ngủ chậm hơn nam giới nhưng nhiều người trong đó có cả bác sĩ không biết điều này". 
Năm 2013, Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ đã giảm liều khuyến cáo cho phụ nữ từ 10 mg xuống 5 mg. Nhiều bác sĩ vẫn kê liều cao hơn cho phụ nữ, trong khi những phụ nữ khác có thể dùng đơn cũ hoặc lấy thuốc từ chồng. Khi họ dùng quá liều, hậu quả là rất lớn.
Một vấn đề lớn khác khi sử dụng thuốc ngủ là ảnh hưởng trong ngày hôm sau của thuốc. Trong khi thuốc được cho là hết tác dụng sau 8 giờ, tình trạng buồn ngủ có thể kéo dài lâu hơn nếu bạn dùng liều cao. 
Kết quả là nhiều người vẫn cảm thấy mệt mỏi vào buổi sáng khi họ lái xe đi làm và đó là mối đe dọa nghiêm trọng đến sự an toàn. Bazil nói: "Khả năng lái xe giảm là một trong những vấn đề lớn nhất do thuốc ngủ, vì nhiều người không nhận ra rằng họ vẫn chưa tỉnh táo". 
Nói một cách khác, tình trạng này gần giống với lái xe khi say rượu ở chỗ bạn không có sự phán đoán tốt hoặc phản ứng nhanh, do vậy nguy cơ tai nạn tăng lên đáng kể.
Thuốc ngủ cũng có thể gây hại khi dùng kết hợp với các loại khác, cụ thể là rượu và các chất kích thích. Theo Bazil, nguyên nhân là sự kết hợp này làm tăng tác động của cả hai loại, vì vậy bạn sẽ bị mê man bởi cả thuốc và rượu hoặc chất kích thích. 
Điều đó có nghĩa là thuốc sẽ tác dụng lâu hơn, bạn sẽ cảm thấy lơ mơ, chuệch choạng khi thức giấc. Một kịch bản thậm chí còn cực đoan hơn là bạn sẽ cảm thấy tức thở nếu dùng liều cao hoặc 2 viên một lần và rất có thể phải đi cấp cứu.
Một tác hại nữa là thuốc ngủ cũng có thể khiến bạn có những hành động khác thường trong nhà nếu uống chúng khi chưa sẵn sàng đi ngủ. Hãy xem, thuốc ngủ sẽ hạ gục bạn ngay lập tức. 
Nhưng một lần nữa, nhiều người không nhận ra tác dụng của thuốc ngủ nhanh như thế nào, vì vậy họ uống một viên trước khi thực hiện một việc nào đó chỉ khoảng nửa giờ và hậu quả là có thể đưa ra những quyết định sai lầm. 
Brazil nói: "Nếu uống thuốc khi chưa đi ngủ, bạn có thể làm những việc lạ, thậm chí có thể là nguy hiểm mà bạn không thể nhớ". Bạn có thể suy sụp, tự đốt cháy mình hoặc thậm chí có quan hệ tình dục nhiều nguy cơ.
Thuốc ngủ cũng có thể gây nghiện, may mắn là tình trạng này không phổ biến. Tác hại lâu dài này của thuốc ngủ kê đơn vẫn chưa được nghiên cứu, nguy cơ lớn là khi bạn ngừng sử dụng thuốc sau khi đã bị phụ thuộc vào chúng. 
"Nếu cơ thể quen với việc dùng thuốc ngủ, bạn sẽ thấy tồi tệ khi ngừng sử dụng thuốc vì cơ thể đã thích nghi. Điều đó có nghĩa bạn sẽ phải dùng nhiều hơn và thật khó để có thể ngủ tốt mà không có thuốc".
Cuối cùng, điều quan trọng là bạn phải nhớ rằng về cơ bản, thuốc ngủ không giải quyết được vấn đề ngủ kém kéo dài. Hãy nghĩ về chúng giống như một công cụ bổ trợ đưa giấc ngủ về đúng chu kỳ và tại một thời điểm nào đó bạn cần ngừng sử dụng nó. 
Để làm được điều này, Bazil khuyên bạn sử dụng chúng đúng một tháng (dưới sự giám sát của bác sĩ) để rèn lại giấc ngủ và sau đó ngừng sử dụng chúng hoàn toàn. Việc sử dụng như thế nào trong tháng đó tùy thuộc vào bạn. Một số người dùng chúng mỗi tối, trong khi những người khác dùng vài lần một tuần khi họ thực sự cảm thấy cần chúng.
Theo Hải Ngân - VietNamNet

Vitamin D tăng sức đề kháng cho người cao tuổi

Các nhà khoa học thuộc Đại học Loyola Chicago (Mỹ) cho biết, sự thiếu hụt vitamin D và các bệnh mạn tính liên quan đến lão hóa như suy giảm nhận thức.

Các nhà khoa học thuộc Đại học Loyola Chicago (Mỹ) cho biết, sự thiếu hụt vitamin D và các bệnh mạn tính liên quan đến lão hóa như suy giảm nhận thức, trầm cảm, loãng xương, bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2, bệnh ung thư có liên hệ với nhau.
TS Sue Penckofer cho biết: "Sự thiếu hụt vitamin D là một tình trạng y khoa nghiêm trọng phổ biến ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của người cao tuổi".
Người cao tuổi dễ có nguy cơ thiếu vitamin D do chế độ ăn uống, ít hoạt động ngoài trời và khả năng hấp thu vitamin D của da cũng kém đi. 
Viện Y khoa Mỹ thường khuyên những ai dưới 70 tuổi nạp 600 IU vitamin D/ngày và trên 70 tuổi là 800 IU/ngày. Vitamin D thường được cơ thể tổng hợp khi da được tắm nắng sáng sớm cũng như có trong sữa, cá, trứng...
Theo Vũ Trường - Sức khỏe và đời sống

Khả năng thuốc trầm cảm gây xơ vữa mạch vàn

Số khỉ dùng thuốc chống trầm cảm SSRI bị mảng xơ vữa mạch vành phát triển nhiều gấp 3 lần so với khỉ dùng giả dược. Tỉ lệ đó tăng lên gấp 6 lần ở nhóm khỉ bị trầm cảm.

Dạng thuốc ức chế tái hấp thu có chọn lọc serotonin tăng khả năng xơ vữa mạch vành ở khỉ. Ảnh: Hypericum
Trong nghiên cứu được công bố trên tạp chí Psychosomatic Medicine, các nhà khoa học Mỹ tại Trung tâm Y tế Wake Forest Baptist ở bang North Carolina đã cho 42 con khỉ cái độ tuổi trung niên dùng chế độ ăn kiểu phương Tây chứa nhiều mỡ và cholesterol trong 18 tháng. Các hành vi trầm cảm của chúng cũng được ghi nhận trong thời gian này.
Một số con vật được chọn ngẫu nhiên cho dùng mỗi ngày một viên thuốc chống trầm cảm thuộc dạng thuốc ức chế tái hấp thu có chọn lọc serotonin (SSRI), có tên thương mại là Zoloft hoặc giả dược để đối chiếu trong 18 tháng.
Kết quả cho thấy số khỉ dùng SSRI bị mảng xơ vữa mạch vành phát triển nhiều gấp 3 lần so với nhóm khỉ dùng giả dược. Tỉ lệ đó tăng lên gấp 6 lần ở nhóm khỉ bị trầm cảm.
Nhóm nghiên cứu nói rằng khỉ cái được chọn do bệnh mạch vành là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở phụ nữ Mỹ và tỉ lệ rối loạn trầm cảm ở nữ giới cao gấp đôi đàn ông.
Trưởng nhóm nghiên cứu, GS Carol Shively, nói rằng tuy cần có nghiên cứu thêm nhưng đây là dấu hiệu lâm sàng quan trọng về khả năng SSRI gây xơ vữa mạch vành ở người.
Theo Trúc Lâm - Người lao động
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons