Thứ Năm, 3 tháng 3, 2016

Không dùng nước muối sinh lý để rửa mũi hàng ngày


Mũi là cửa ngõ đầu tiên của cơ quan hô hấp, tiếp xúc với rất nhiều bụi bẩn, các hóa chất độc hại và các yếu tố gây bệnh. Khi bị viêm nhiễm, dùng nước muối sinh lý để làm sạch lớp mủ trước khi sử dụng thuốc để thuốc tác dụng trực tiếp vào lớp biểu mô của niêm mạc mũi và phát huy vai trò chữa bệnh.

Nước muối sinh lý (natri clorid) hay nước muối được pha chế với tỷ lệ 0,9%, tức 1 lít nước với 9 gam muối tinh khiết, là dung dịch đẳng trương có áp suất thẩm thấu xấp xỉ với dịch trong cơ thể người. Nước muối sinh lý thường được dùng để cung cấp và bổ sung nước cũng như chất điện giải, dùng để rửa mắt, mũi, súc miệng, thích hợp cho mọi lứa tuổi kể cả trẻ em. Nước muối sinh lý giúp giảm viêm, rửa sạch chất nhầy, các chất gây dị ứng, làm đường thở thông thoáng, hít thở dễ dàng hơn.

Nhưng khi mũi hoàn toàn trong trạng thái bình thường thì không nên sử dụng nước muối thường xuyên để rửa mũi. Vì việc sử dụng thường xuyên nước muối sinh lý để làm sạch mũi sẽ vô tình làm mất đi lớp thảm nhầy bảo vệ mũi vốn có, mất đi chức năng bảo vệ mũi của lớp thảm này và gây tổn thương niêm mạc mũi, vì thế mũi lại hay bị viêm hơn. Có thể sử dụng nước muối sinh lý một lần mỗi tuần, đặc biệt là khi làm việc hoặc đi lại ở những vùng nhiều bụi bẩn. 

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Khỏi đau răng lại đau dạ dày...

Bà Tâm bị đau răng, đã uống thuốc rodogyl con gái mua cho rồi mà vẫn không khỏi. Bụng thì đói mà chẳng ăn uống gì được. Cứ húp cháo hoài bà thấy người cứ nhão ra.

Đang lúc não nề thì chị Hương - cô con gái lớn của bà lại đến thăm. Chị Hương đưa cho mẹ mấy viên thuốc rồi bảo mẹ uống, chị hồ hởi bảo: Con xin chị bạn ở cơ quan mấy viên thuốc này cho mẹ, chị ấy bảo thuốc này giảm đau tốt lắm.
Một số thuốc có tác dụng phụ gây loét dạ dày
Bà Tâm mới uống thuốc được nửa tiếng mà thấy đỡ đau hẳn, đã ăn được bát cơm. Thật là dễ chịu.
Hôm sau, bà lại uống 2 viên thuốc nữa khi thấy răng đau nhức, nhưng đến chiều thì bà thấy đau bụng, rồi nôn ra máu... Thế là phải đi cấp cứu.
Sau 5 ngày nằm viện, khi tình trạng chảy máu đã hết và sức khỏe ổn định, bà Tâm mới được ra viện. Lúc này, chị Hương mới biết: Bà Tâm bị xuất huyết tiêu hóa do mấy viên thuốc giảm đau. Đó chính là thuốc aspirin -  loại thuốc hạ sốt giảm đau, nhưng nó có tác dụng phụ trên niêm mạc dạ dày, gây loét và xuất huyết tiêu hóa. Do vậy, bệnh nhân phải được chỉ định của bác sĩ mới được dùng thuốc này và phải uống thuốc khi no chứ không được tự ý sử dụng mà lợi bất cập hại.
Chị Hương cứ day dứt tự trách bản thân vì thiếu hiểu biết mà mang thêm bệnh cho mẹ. Nhẽ ra, chị nên đưa mẹ đến bác sĩ nha khoa để khám bệnh thì đâu đến nỗi. Chỉ vì tiết kiệm thời gian đưa mẹ đi khám bệnh mà mẹ chị phải khổ.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Nguy hiểm khi lạm dụng thuốc chứa corticoid bôi ngoài da

Khi bị các bệnh về da, nhiều người vô tình (do không biết) hoặc cố ý đã mua thuốc có chứa corticoid về bôi, thấy hiệu quả nên lạm dụng dùng, thậm chí còn mách nhau sử dụng.


Corticoid dùng điều trị các bệnh ngoài da gồm các dạng mỡ, dung dịch, gel, cream... Một số thuốc bôi có chứa corticoid như dexamethason, triamcinolon, fluocinolon, cortibion, flucina...
Các thuốc này có tác dụng tốt trong điều trị các bệnh như chàm, vẩy nến, các bệnh da có viêm... nhưng nếu sử dụng không đúng chỉ định, không đúng cách dùng sẽ có nhiều nguy cơ gây tác dụng phụ, tai biến do thuốc.
Trứng cá hoặc tổn thương da dạng trứng cá, rạn da, giãn mạch, rậm lông, làm chậm liền vết thương, bùng phát nhiễm khuẩn, nấm, virus… là nững tác dụng phụ thường gặp nhất khi bôi các thuốc có chứa coricoid. Đối với loại corticoid có hoạt tính mạnh có thể gây teo da (nhất là khi bôi ở những vùng da mỏng, có nếp gấp)…
Các tác dụng phụ sẽ càng nặng hơn nếu bôi thuốc mà băng bịt kín lâu dài không có sự theo dõi và hướng dẫn của thầy thuốc. Các tác dụng phụ này sẽ làm cho bệnh nặng hơn, gây khó khăn cho việc chẩn đoán và điều trị tiếp theo vì chúng gây biến đổi hình thái lâm sàng và khả năng đáp ứng với điều trị của bệnh…
Để hạn chế tối đa tác dụng phụ của corticoid cần sử dụng đúng chỉ định, đúng liều lượng theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa da liễu. Trường hợp bôi thuốc quá ít sẽ kém tác dụng, hoặc quá nhiều sẽ lãng phí và nguy cơ tác dụng phụ do thuốc gây ra sẽ lớn hơn. Các vùng da khác nhau có đặc điểm giải phẫu khác nhau và khả năng hấp thu thuốc cũng khác nhau, vì thế nên dùng thuốc có độ mạnh, yếu khác nhau cho phù hợp với người bệnh, lứa tuổi và vùng da bị bệnh.
Cần sử dụng đúng cách và có sự theo dõi sát sao của thầy thuốc. Khi bôi thuốc tránh bôi trên một vùng da rộng (đặc biệt với loại có hoạt tính mạnh và cực mạnh) vì dễ gây biến chứng toàn thân. Cần hạn chế tối đa dùng cho phụ nữ có thai và trẻ em dưới 12 tuổi.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Giảm tác dụng phụ khi dùng aspirin

Aspirin có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm, nhưng do có nguy cơ gây tác dụng phụ loét đường tiêu hóa, chảy máu kéo dài…nên aspirin thường được thay paracetamol.

Thuốc còn được dùng để giảm đau, chống viêm (trong các bệnh xương khớp) và dự phòng biến chứng tim mạch ở các bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao. Cần lưu ý, không sử dụng aspirin để phòng đau tim hoặc đột quỵ ở những người khỏe mạnh.
Để giảm bớt tác dụng phụ trên đường tiêu hoá các nhà sản xuất đã sản xuất ra các dạng bào chế: viên bao phim, viên sủi, sử dụng các tá dược “che chở” nhằm mục đích giảm sự tiếp xúc trực tiếp của phân tử thuốc với niêm mạc đường tiêu hoá như dạ dày, ruột...
Những năm gần đây, do phát hiện được thụ thể COX liên quan đến việc tổng hợp prostaglandin, tạo chất nhày bảo vệ dạ dày, còn thụ thể COX1 chịu trách nhiệm về các phản ứng viêm -đau- sốt nên những hợp chất mới có tác dụng chọn lọc trên thụ thể COX1 ra đời như meloxicam, celecocib… với hy vọng làm giảm tác dụng phụ trên dạ dày. Nhưng do tác dụng chọn lọc chưa đủ mạnh nên cho đến thời điểm hiện nay chưa có chất nào thực sự không gây loét dạ dày.
Vì vậy, đối với người bệnh để dùng thuốc an toàn hơn và hạn chế (khắc phục) tác dụng gây hại đường tiêu hóa, khi dùng aspirin nói riêng và các thuốc giảm đau, kháng viêm không sterroid cần chú ý:
Đối với dạng viên nén trần (không có màng bao đặc biệt) nên uống thuốc vào bữa ăn. Khi uống nên nhai viên thuốc và uống kèm theo một cốc nước to (khoảng 200 ml).
Đối với loại viên bao tan trong ruột (loại bao cả viên) phải uống xa bữa ăn để thuốc khi vào dạ dày được đẩy nhanh xuống ruột non, tan ra và hấp thu tại đây. Nếu uống thuốc vào lúc no thuốc sẽ được giữ lại cùng với thức ăn ở dạ dày lâu hơn, chưa xuống được ruột non thuốc đã tan ra rồi. Như vậy sẽ không phát huy được tác dụng của thuốc.
Đối với dạng viên sủi bọt hoặc dạng thuốc bột uống, cần hoà tan thành dung dịch trước khi uống (ví dụ gói thuốc bột aspegic).
Người ta cũng có thể dùng kèm thuốc giảm đau kháng viêm không steroid với các thuốc chống loét dạ dày như các chất kháng thụ thể H2 (cimetidin, ranitidine…), các chất chẹn bơm proton (omeprazol, lanzoprazol).

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Thuốc điều trị viêm cầu thận do đái tháo đường

Viêm cầu thận là một trong những biến chứng thường gặp ở bệnh đái tháo đường. Vậy có cách gì để phòng ngừa bệnh?


Đái tháo đường là một bệnh thường gặp ở các nước phát triển và cả các nước đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh này tùy theo địa dư, chủng tộc, mức sống, lối sống và ngày càng có xu hướng tăng lên. Viêm cầu thận là một trong những biến chứng thường gặp ở bệnh đái tháo đường. Vậy có cách gì để phòng ngừa bệnh?
Bệnh cầu thận đái tháo đường là gì?
Thuật ngữ “Bệnh cầu thận đái tháo đường” chỉ bệnh lý cầu thận thứ phát do ảnh hưởng của đái tháo đường lên thận. Bệnh cầu thận đái tháo đường được xác định do thay đổi thành phần hóa học của màng đáy cầu thận và tổ chức gian mạch. Bệnh biểu hiện với các triệu chứng của bệnh đái tháo đường như ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều, gầy sút... 
Suy thận giai đoạn cuối cần phải lọc máu chù kỳ do viêm cầu thận đái tháo đường đứng hàng thứ hai sau viêm cầu thận mạn tính. Biện pháp dự phòng các biến chứng do bệnh đái tháo đường gây ra tốt nhất là kiểm soát đường huyết tốt, luôn giữ đường huyết ở mức an toàn.
Thận bị suy (trái) và thận bình thường (phải).
Thận bị suy (trái) và thận bình thường (phải)
Thuốc điều trị đái tháo đường
Tùy theo thể bệnh, giai đoạn bệnh và tình trạng của bệnh nhân mà lựa chọn thuốc điều trị cho hợp lý. Khi điều trị phải kiểm soát chặt chẽ đường huyết, đặc biệt đường huyết lúc đói, đường huyết sau ăn và HbA1c. Một số thuốc cụ thể là:
Insulin: có loại tác dụng nhanh, tác dụng chậm và tác dụng rất chậm. Thường chỉ dùng trong điều trị đái tháo đường týp I. Khi dùng phải chú ý đến đường huyết của bệnh nhân đề phòng hạ đường huyết.
Nhóm sulfonylure: thế hệ 1 có tolbutamid viên 250mg, 500mg và 1.000mg; chlorpropamid viên 100mg và 250mg...; thế hệ 2 có  diamicron (viên 80mg), daonil (viên 5mg)..., nhóm này có tác dụng gây tăng bài tiết insulin, tuy nhiên khi dùng phải chú ý nguy cơ gây hạ đường huyết, thuốc độc với gan - thận, gây tăng acid lactic và có một tỷ lệ nhất định dị ứng thuốc.
Nhóm biguanid: metformin, viên 500mg, 850mg. Nhóm này có tác dụng tăng hiệu lực của insulin ở ngoại vi. Thuốc không được dùng cho người suy gan, suy thận, phụ nữ có thai, người có rối loạn chuyển hóa. Thuốc gây tăng acid lactic.
Nhóm ức chế men anpha glycosidase: glucobay viên 50mg, thuốc không dùng cho người suy gan thận, người có ceton niệu.
Thuốc khống chế tăng huyết áp
Trong viêm cầu thận đái tháo đường, tăng huyết áp là một yếu tố nguy cơ, mục tiêu cần đạt được là đưa huyết áp tối đa < 130mmHg, và huyết áp tối thiểu < 85mmHg. Tùy từng trường hợp có thể sử dụng một số thuốc sau để điều trị.
Nhóm thuốc ức chế men chuyển: có một số biệt dược như renitec, coversyl, lopril, zestrril, nhóm này dùng tốt nhất trong trường hợp đái tháo đường/THA. Tác dụng phụ: gây ho, tăng kali máu, không dùng trong hẹp khít van động mạch chủ, động mạch thận.
Nhóm thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II như: losartan, telmisartan.
Nhóm chẹn beta giao cảm: propranolol, atenolol, pindolol...
Nhóm chẹn kênh calci: có một số biệt dược hay dùng như nifedipin, amlor, plendil viên 5mg; madiplot viên 10mg, 20mg. Nhóm thuốc này có ưu điểm là hạ huyết áp tốt, tác dụng kéo dài. Tuy nhiên có nhược điểm là có thể gây nhịp tim nhanh, bốc hỏa ở mặt.
Thuốc có tác dụng trung ương: methyldopa, clonidin.
Thuốc giãn mạch ngoại biên: dihydralazin.
Tuy nhiên hai nhóm thuốc được ưu tiên lựa chọn để khống chế huyết áp trong bệnh viêm cầu thận đái tháo đường là nhóm ức chế men chuyển có tác dụng bảo vệ tim mạch và nhóm thuốc chẹn thụ thể angiotensin II có tác dụng bảo vệ thận.
Thuốc điều chỉnh tăng mỡ máu
Rối loạn lipid máu, đặc biệt là lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL cholesterol) và lipoprotein tỷ trọng cao (HDL cholesterol) là những yếu tố nguy cơ của tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim trong bệnh viêm cầu thận đái tháo đường. Do đó, ngoài việc có chế độ ăn uống hợp lý, có thể sử dụng các thuốc thuộc nhóm fibrat, statin để điều trị.
Ngoài các thuốc chính trên, còn có thể sử dụng các thuốc chống đông máu, chống ngưng tập tiểu cầu như aspirin, aspegic..., nếu có toan hóa máu thì dùng dung dịch natribicarbonat, nếu có tăng kali máu, có thể sử dụng dung dịch natribicarbonat hoặc calcium tiêm tĩch mạch để trao đổi ion. Khi có suy thận giai đoạn III hoặc IV cần có lọc ngoài thận chu kỳ.
Bên cạnh việc dùng thuốc thì chế độ ăn và sinh hoạt hợp lý đối với người viêm cầu thận đái tháo đường là vấn đề hết sức quan trọng. Trong chế độ ăn phải giảm glucid, nếu có suy thận cần giảm thêm protid. Cần cung cấp đủ năng lượng theo mức lao động với mức 30 - 40Kcal/kg cân nặng/ngày với tỷ lệ glucid từ 45 - 50%, protid từ 15 - 20%, lipid khoảng 35%.
Theo dõi và điều trị tốt đái tháo đường với chế độ ăn giảm glucid, khống chế huyết áp, điều chỉnh rối loạn mỡ máu kèm theo hoạt động thể lực hợp lý có thể làm chậm xuất hiện viêm cầu thận đái tháo đường, từ đó làm chậm diễn biến đến suy thận giai đoạn cuối cũng như làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Tránh tai biến hạ đường huyết khi dùng insulin


Muốn tránh hạ đường huyết, người bệnh nếu có nguyện vọng dùng thuốc phối hợp thì phải khám lại bệnh tại các bệnh viện chuyên khoa để được hướng dẫn chu đáo.
Trước đây thuốc tiêm insulin chỉ dùng cho đái tháo đường (ĐTĐ) týp 1, thuốc uống chỉ dùng cho ĐTĐ týp 2. Trong khi đó, trong số người ĐTĐ chỉ có 10% thuộc týp 1, còn 90% thuộc týp 2. Do đó, tần suất sử dụng insulin không cao. 
Sau 2005, đặc biệt sau khi có hướng dẫn của Hội ĐTĐ Mỹ (2010), việc dùng các nhóm thuốc này có thay đổi. Với ĐTĐ týp 1, giai đoạn đầu chỉ dùng insulin song giai đoạn sau có thể dùng insulin kết hợp với các thuốc uống như acarbose (làm giảm hấp thu glucose). 
Với ĐTĐ týp 2, giai đoạn đầu chỉ dùng thuốc uống nhưng giai đoạn sau có thể phối hợp với thuốc tiêm insulin. Việc phối hợp như vậy có lợi về mặt điều trị, làm tăng đáng kể tần suất sử dụng insulin, do đó cần dùng đúng để không tăng thêm tai biến do việc tăng tần suất sử dụng này.
Tránh tai biến hạ đường huyết khi dùng insulin 1
Ảnh minh họa
Tai biến khi dùng insulin là hạ đường huyết, gọi là sốc insulin. Theo quy ước, hạ đường huyết là đường huyết xuống mức < 70mg/dL, nặng hơn nữa là ≤ 50mg/dL. Người bị ĐTĐ thường bị hạ đường huyết nặng khoảng 1,15 lần/năm; nhẹ 16,37 lần/năm.
Hạ đường huyết nặng bị vã mồ hôi, choáng váng, loạng choạng, hạ huyết áp, tim nhanh và loạn, nặng hơn là trụy tim mạch, mất ý thức, hôn mê... có thể dẫn đến tử vong. 
Hạ đường huyết nhẹ có cảm giác đói, mệt mỏi... cũng có khi biểu hiện không rõ, không nhận biết được, song nếu nhắc đi nhắc lại nhiều lần cũng gây tác hại như hạ đường huyết nặng. Nếu cứ để cơn hạ đường huyết nhẹ lặp đi lặp lại, cơ thể sẽ quen đi với các biểu hiện này, chỉ khi có cơn hạ huyết áp nặng mới nhận biết được thì đã quá muộn.
Thường có 4 nguyên nhân gây hạ đường huyết gián tiếp hay trực tiếp do insulin gây ra:
Do ăn uống, hoạt động thất thường:
Ăn uống làm tăng lượng đường hấp thu vào máu (tăng đường huyết). Hoạt động làm tăng lượng đường tiêu thụ (giảm đường huyết). Dùng thuốc làm tăng dung nạp glucose vào cơ não, vào gan (giảm đường huyết).
Điều trị ĐTĐ là phối hợp ăn uống, hoạt động, dùng thuốc hợp lý… để tổng cộng các mức tăng mức giảm đường huyết lại, sẽ có một mức đường huyết ngang với mức bình thường. Nếu vẫn giữ mức dùng thuốc với liều như cũ mà ăn uống thất thường (chậm bữa, ăn ít hơn, bỏ bữa) hay hoạt động quá mức (làm việc quá nhiều, làm việc nặng) thì sẽ bị hạ đường huyết.
Như vậy, muốn tránh hạ đường huyết không chỉ dùng đúng liều insulin là đủ mà còn phải ổn định cả việc ăn uống hoạt động.
Do xử lý không đúng khi bị tăng đường huyết:
Khi bị tăng đường huyết, nếu người bệnh tự ý tăng liều, tăng số lần dùng insulin sẽ có thể dẫn đến tác dụng ngược là bị hạ đường huyết. Việc kiểm soát đường huyết là cần, nhưng không được hạ đường huyết quá nhanh, quá mạnh, không làm hạ đường huyết xuống mức quá thấp, kiểm soát đường huyết bằng biện pháp nào, ở mức nào, do thầy thuốc quyết định.
Muốn tránh hạ đường huyết thì khi bị tăng đường huyết, người bệnh nhất thiết phải nhập viện, tuân thủ mọi chỉ định kiểm soát đường huyết của thầy thuốc.
Do không biết cách tính, cách dùng bút tiêm insulin dẫn tới quá liều:
Phần lớn người ĐTĐ thường có máy đo đường huyết tự động, bút tiêm insulin. Người bệnh có thể tính liều dựa vào thân trọng, điều chỉnh liều phù hợp với bữa ăn. Tuy nhiên, nếu không thạo tính toán, thao tác sai (không trộn đều thuốc, nhầm lẫn khi lấy thuốc cho mỗi lần tiêm) sẽ dẫn đến lấy sai lượng insulin. 
Nếu lấy quá số lượng cần, sẽ dùng quá liều insulin, dẫn đến hạ đường huyết. Cũng có khi người bệnh tự ý dùng liều dự phòng nhằm tránh tăng đuờng huyết nhưng kết quả mang lại là gây hạ đường huyết.
Muốn tránh hạ đường huyết, người bệnh phải học cách tính, cách dùng bút tiêm insulin thành thạo, không tự ý dùng liều dự phòng.
Do phối hợp insulin và các thuốc ĐTĐ khác chưa đúng:
Khuyến nghị chung với ĐTĐ týp 2 là nên dùng sớm insulin (khoảng sau khi mắc bệnh 10 năm). Tuy nhiên, muốn xác định đúng thời điểm dùng insulin thì phải xác định được mức suy yếu tuyến tụy. Điều này không phải tuyến y tế nào cũng làm được mà phải do các cơ sở chuyên khoa (có thầy thuốc kinh nghiệm, có khả năng xét nghiệm).
Thông thường trong ĐTĐ giai đoạn cuối hay phối hợp insulin với metformin. Do metforin có khả năng hạ đường huyết thấp (chỉ làm giảm lượng glucose sinh ra từ glycogen), nên việc phối hợp này ít khi gây ra hạ đường huyết chung, dễ thực hiện.
Trong thực tế ở ĐTĐ týp 2, giai đoạn sau, thầy thuốc cũng có cho phối hợp insulin với sulfonylure với mục đích tận dụng khả năng của tuyến tụy để giảm mức đề kháng insulin, từ đó có thể giảm liều dùng insulin. Nhiều nghiên cứu cho biết việc phối hợp này thường đạt được mục đích đề ra trên. 
Tuy nhiên, đây là một phối hợp khó, nếu tính không khéo liều mỗi thành phần thì khi phối hợp có thể gây ra hạ đường huyết. Khi phối hợp mà gặp sự cố hạ đường huyết, thì phải tính lại liều phối hợp, trước tiên phải giảm liều insulin theo chỉ định của thầy thuốc. 
Người bệnh cần lưu ý: đây là một phối hợp khó, thầy thuốc thường chỉ định cho người bệnh biết dùng thành thạo thuốc (biết dùng thành thạo bút tiêm insulin). 
Trên thị trường, có loại thuốc phối hợp sẵn (insulin + sulfonylure) với hàm lượng ổn định, chỉ dùng được cho một số người (theo sự chỉ định của thầy thuốc), không nên tự ý mua dùng (vì chưa chắc đã phù hợp với mình).

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Những tác dụng chữa bệnh bất ngờ của Viagr


Chống béo phì
Các nhà nghiên cứu đến từ trường Đại học Bonn (Đức) phát hiện, sildenafil - hoạt chất chính tạo nên thuốc Viagra có khả năng biến các tế bào mỡ trắng thành mỡ nâu. Mỡ nâu là loại mỡ đốt cháy calo thay vì lưu trữ chúng ở bụng của người.
Hoạt chất sildenafil cũng có khả năng giảm nguy cơ các biến chứng gây ra do béo phì, trong đó có chứng viêm sưng, vốn có thể dẫn tới bệnh tim. Một số nghiên cứu cho thấy sildenafil không chỉ giúp giải quyết các rắc rối về cương dương mà còn giảm nguy cơ tăng cân không kiểm soát.
Những tác dụng bất ngờ của Viagra
Kết luận này được đưa ra sau một số cuộc thử nghiệm trên chuột cho thấy, loại sinh vật gặm nhấm này khi được dùng Viagra đã trở nên "miễn nhiễm" với chứng béo phì dù được cho ăn uống theo chế độ dinh dưỡng rất giàu chất béo. 

Lý do là hoạt chất sildenafil trong "thần dược phòng the" đã làm tăng sự chuyển hóa của các tế bào mỡ trắng, thủ phạm gây béo phì, thành mỡ nâu, giúp đốt cháy năng lượng từ thức ăn tiêu hóa thành nhiệt năng.
Bên cạnh đó, sildenafil có tác dụng ngăn chặn tế bào mỡ trắng tăng kích cỡ, đồng thời giải phóng các hoóc môn về sau gây chứng viêm sưng, từ đó giảm nguy cơ phát triển các bệnh mạn tính như tiểu đường, tim mạch và ung thư.
Tăng lực cho vận động viên
Việc sử dụng thuốc kích thích doping để tăng thêm sức lực trong các cuộc thi đấu đã khiến nhiều vận động viên vướng vòng lao lý. Tuy nhiên, điều ít người biết là Viagra cũng có tác dụng tương tự nhưng hoàn toàn chưa bị cấm trong thể thao. 

Tác dụng bất ngờ này của "thần dược phòng the" là nhờ nó làm tăng cường lượng máu đi khắp cơ thể, giúp chống lại các tác động xấu. Đó là lý do Ủy ban chống doping thế giới cũng đang phải xem xét có nên cấm sử dụng Viagra trong thi đấu thể thao hay không.
Những tác dụng chữa bệnh bất ngờ của Viagra
Chống bệnh tim
Mặc dù ẩn chứa rủi ro cho người bệnh tim, nhưng khi Viagra được dùng đúng liều lại có tác dụng lớn trong việc chống suy tim. Công dụng đặc biệt này là nhờ Viagra giúp tim bơm đủ máu đi nuôi cơ thể và cũng giúp bệnh nhân có đủ khả năng tập thể dục để tăng cường sức khỏe. Bên cạnh đó, loại thần dược cho phái mạnh này còn giúp giảm huyết áp.
Giúp phụ nữ thụ thai tốt hơn
Chắc hẳn nhiều người sẽ vô cùng bất ngờ khi biết rằng, Viagra không chỉ có tác dụng với nam giới mà còn giúp ích cho cả chị em phụ nữ. Viagra nếu dùng qua đường âm đạo sẽ làm tăng đáng kể lượng máu đến niêm mạc tử cung, giúp trứng thụ tinh và phát triển tốt hơn.
Kết quả này được đưa ra sau khi một nghiên cứu của Mỹ cho thấy, một số trường hợp vô sinh do bất thường của lớp niêm mạc bên trong dạ con đã thụ thai nhờ sử dụng Viagra dạng viên đạn đặt âm đạo. Như vậy, sử dụng Viagra một cách có chọn lọc ở những bệnh nhân có nội mạc tử cung mỏng có thể làm tăng khả năng thành công của thụ tinh trong ống nghiệm.
Thúc đẩy tăng trưởng cho trẻ sơ sinh thiếu cân
Dù nghe có thể hơi khó tin nhưng Viagra không chỉ có tác dụng kích thích "bản lĩnh đàn ông" mà còn được dùng để điều trị cho trẻ sơ sinh thiếu cân. Nitric oxid có trong Viagra là một thành phần quan trọng giúp trẻ thiếu cân tăng nhanh và duy trì được trọng lượng.Tuy nhiên, phương pháp điều trị này có thể để lại các biến chứng nghiêm trọng về sau.
Chống lại ung thư
Theo một kết quả nghiên cứu do GS Hirofumi Tachibana thuộc Viện cao học Đại học Kyushu, miền Nam Nhật Bản làm chủ nhiệm, Viagra và thành phần trà xanh có thể kết hợp với nhau để chống lại tế bào ung thư.
Trước đó, các nhà khoa học Đức đã sử dụng kỹ thuật di truyền để điều trị khối u ác tính của bệnh ung thư da ở chuột. Khi được điều trị bằng thuốc Viagra, họ đã phát hiện những con chuột này có thể kéo dài được tuổi thọ gấp 2 lần các con chuột khác.
Tuy nhiên, phương pháp điều trị này chưa được thử nghiệm trên người và các chuyên gia cũng cảnh báo người dân không tự ý tiến hành phương pháp nói trên tại nhà vì có thể xảy ra tác dụng phụ không mong muốn.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons