Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

Thuốc + rượu = họa


Rượu là một loại đồ uống có cồn, gây kích thích cho người uống, có nhiều tác dụng trên hệ thần kinh trung ương. Vì vậy, khi vừa uống rượu, vừa dùng thuốc chữa bệnh, rượu có thể sẽ tương tác với một số loại thuốc, làm tăng hoặc giảm tác dụng, hiệu lực của thuốc hoặc chuyển hóa thuốc thành chất độc hại. Vậy cần phải biết những loại thuốc nào không được dùng khi uống rượu!
Thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương: Các thuốc như thuốc an thần (diazepam) điều chỉnh rối loạn quá trình hưng phấn - ức chế, thuốc ngủ (phenobarbital) ức chế quá trình kích thích, thuốc động kinh (carbamazepin) làm giảm quá trình kích thích... khi dùng cùng với rượu thì rượu sẽ làm tăng tác dụng của các thuốc này gây độc giống như dùng quá liều.
Thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương (caffein): Khi dùng các thuốc này với rượu thì rượu sẽ làm đảo ngược tác dụng của thuốc làm cho thuốc giảm hiệu lực.
Các kháng histamin thế hệ cũ (chlopheniramin, alimemazin, promethazin cycloheptadin) thấm vào não gây ức chế hệ thần kinh trung ương. Đối với các thuốc này, khi dùng cùng với rượu thì rượu làm tăng tác dụng của thuốc gây độc.
Thuốc + rượu = họa
Khi uống thuốc, không nên uống rượu đề phòng tác dụng phụ nguy hiểm.
Thuốc hạ huyết áp: Rượu khi uống làm giãn mạch làm thoát nhiệt ra ngoài, mặt đỏ bừng làm cho có cảm giác ấm nhưng thực chất là làm giãn mạch gây hạ thân nhiệt. Sự giãn mạch này đưa đến hạ huyết áp. Nếu dùng chung với thuốc làm hạ huyết áp (dù với cơ chế làm hạ huyết áp như thế nào) thì rượu cũng làm tăng tính hạ huyết áp của thuốc gây nên việc giảm huyết áp đột ngột, nguy hiểm.
Nhóm thuốc gây độc cho gan: Rượu gây độc cho gan, nếu dùng rượu chung với các nhóm thuốc gây độc cho gan như thuốc chống lao (pyrazinamid), thuốc sốt rét (mepraquin), thuốc chống nấm (griseopulvin), thuốc mạch vành (herhexilin), thuốc chữa loạn nhịp (quinidin) thì rượu và thuốc cùng gây độc cho gan làm cho tính độc cho gan tăng lên.
Ngoài ra, cần biết khi uống rượu, gan phải dùng gluthation để giải hóa làm cạn kiệt chất này và những thuốc nào nhờ chất này mà chuyển hóa thành chất không độc như paracetamol thì quá trình chuyển hóa bị trở ngại và trở nên độc cho gan hơn.
Thuốc hạ đường huyết: Rượu làm tăng phản ứng hạ đường huyết. Khi dùng chung với các thuốc hạ đường huyết trong bệnh tiểu đường týp II (chlopropamid, glibenclamid, glipizid tolbutamid) thì nó tác dụng như một chất hiệp đồng làm hạ đường huyết đột ngột, dẫn đến hôn mê.
Kháng sinh: Rượu còn bị một số kháng sinh gây ra phản ứng sợ rượu (gọi là phản ứng altabuse) như các kháng sinh nhóm cephalosporin, nhóm phenicol (chloramphenicol), nhóm azol (metronidazol, ketocanzol). Khi dùng các nhóm kháng sinh này (hiện nay có rất nhiều) thì không được uống rượu.
Thuốc kháng viêm không steroid thế hệ cũ: Rượu còn gây ra một số phản ứng phức tạp trên các kháng viêm không steroid thế hệ cũ. Các kháng viêm không steroid thế hệ cũ vừa ức chế cyclo-oxydase II làm giảm đau, ức chế cả cyclo-oxydase I gây tác dụng phụ trên đường tiêu hóa. Với tác dụng ức chế của mình, rượu làm tăng tác dụng có hại nhiều hơn. Vì thế, khi dùng các kháng viêm không steroid thế hệ cũ (như aspirin, paracetamol, ibuprofen...), phải tuyệt đối kiêng rượu.



Chớ nhầm thuốc ho với thuốc có tác dụng trên đờm


Thuốc tác dụng trên đờm như làm long đờm, hóa giáng đờm... rất hay bị dùng nhầm. Nguyên do có sự nhầm lẫn về tác dụng, cơ chế và thông tin dược học của thuốc.

Thuốc tác dụng trên đờm là gì?
Thuốc tác dụng trên đờm là tất cả các thuốc làm thay đổi đặc tính, tính chất, số lượng và độ bám dính của đờm trên bề mặt đường thở. Thông thường, trên đường thở lúc nào cũng có một lớp nhầy, có độ dính, độ ẩm vừa phải và số lượng vừa phải để bảo vệ đường hô hấp. Nhưng khi hệ hô hấp bị bệnh lý, lớp nhầy này bị thay đổi tính chất, trở nên bám dính, đặc quánh và khi đó nó được gọi là đờm.
Cần dùng các thuốc có tác dụng trên đờm một cách hợp lý.
Cần dùng các thuốc có tác dụng trên đờm một cách hợp lý
Đờm gây ra nhiều tai hại. Trong điều trị bệnh, lớp đờm này phải được tống ra ngoài. Để thải bỏ được đờm ra ngoài, người ta dùng các thuốc gọi là thuốc tác dụng trên đờm.
Thuốc tác dụng trên đờm bao gồm có 4 nhóm cơ bản sau đây: nhóm làm loãng đờm, nhóm làm hóa giáng đờm, nhóm làm giảm bám dính đờm và nhóm tăng thải đờm. Về nguyên lý và cơ chế tác dụng, thuốc tác dụng trên đờm rất hay bị dùng nhầm dưới dạng thuốc chống ho. Thật ra, trên cơ chế dược học, các thuốc này không hề tác dụng vào các cơ chế gây ho.
Những nhầm lẫn...
Các nhầm lẫn về thuốc tác dụng trên đờm khá phổ biến trong thực tế. Nó có thể bị nhầm lẫn bởi ngay chính các nhà cung cấp thuốc (công ty dược), nhầm lẫn bởi chính bác sĩ và nhầm lẫn về thuật ngữ.
Trước hết, bàn tới sự nhầm lẫn về thuật ngữ. Chúng ta không thể đồng nhất thuốc làm loãng đờm với thuốc hóa giáng đờm, cũng không thể đồng nhất thuốc làm tăng thải đờm với thuốc giảm bám dính đờm. Vì thực tế, chúng có tên khác nhau thì tác dụng và hiệu quả sẽ khác nhau.
Thuốc làm loãng đờm là những thuốc làm tăng sự tiết dịch (chủ yếu là nước) trên bề mặt đường hô hấp. Sự tăng tiết này làm đờm có thêm nước hòa tan nên sẽ làm tăng khối lượng đờm, tăng thể tích đờm, đờm trở nên lỏng ra trông thấy. Thuốc điển hình trong nhóm này trên thị trường là guaifenesin.
Trong khi đó, thuốc hóa giáng đờm là những thuốc tác dụng trực tiếp vào đờm, có tác dụng bẻ gãy các cấu trúc hóa học liên kết trong nội bộ đờm làm sự liên kết của chúng trở nên lỏng lẻo hơn. Kết quả cuối cùng, chúng không làm tăng tiết dịch, tăng số lượng đờm nhưng lại làm cho đờm bớt đặc, dễ bị thải bỏ ra ngoài. Thuốc kinh điển nhóm này là acetylcystein, ambroxol, carbocistein, bromhexin...
Khác nhau là vậy, nhưng về mặt thuật ngữ, người ta hay đồng nhất chúng và gọi chung là tuốc long đờm.
Trong điều trị bệnh, người dùng (trong đó có một số nhân viên y tế và bệnh nhân) có quan niệm, cứ ho có đờm là dùng “thuốc long đờm”. Nhưng rất đáng tiếc, công thức điều trị này đôi khi không phù hợp với tất cả mọi người. Thuốc tác dụng trên đờm chỉ thực sự hữu ích trong điều trị nếu như biết dùng đúng thời điểm. Nếu dùng chưa đúng thời điểm, tác dụng thu được không như người điều trị mong muốn.
Ví dụ, lời khuyên chung là có đờm thì phải long đờm, loãng đờm để khạc ra ngoài. Nhưng người ta lại quên mất có đờm ở mức độ nào mới dùng thuốc long đờm. Một trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, nếu đang có sự tăng tiết đờm quá nhiều, đang nhiều ran ẩm và ran nổ, đang có viêm phổi sòng sọc thì việc dùng thuốc lúc này sẽ đẩy viêm phổi mạnh hơn. 
Lý do: phổi sẽ càng nhiều dịch, càng nhiều tiếng ran hơn và càng khó thở. Một bệnh nhân COPD người lớn, lượng đờm tiết ra trong những đợt cấp tính là rất dữ dội. Nếu tiếp tục dùng các thuốc này vào sẽ rất bất lợi, vì ho sẽ càng tăng và khó thở sẽ càng rõ rệt. 
Vấn đề lúc này phải giảm tiết đờm nhằm mục tiêu kiểm soát lượng đờm cho phép trước khi quyết định dùng thuốc tác dụng trên đờm vào thời điểm sau đó. Xác định rõ mức độ đờm thế nào, dùng khi nào hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ, sự cẩn thận, sự tỉ mỉ trong khám bệnh cũng như kinh nghiệm điều trị.
Để dùng đúng thuốc
Để có cách dùng đúng, chúng ta cần nắm vững về cơ chế và nguyên lý tác dụng. Khi nào cần dùng thuốc làm loãng đờm, khi nào cần dùng thuốc hóa giáng đờm, khi nào cần dùng thuốc chống bám dính đờm.
Trong thời điểm đờm đang quá nhiều, việc dùng thuốc làm loãng đờm hoặc thuốc hóa giáng đờm là rất không nên. Vấn đề lúc này cần điều tiết lượng đờm bằng các thuốc khác nhau. Sau khi đã kiểm soát được lượng đờm, vấn đề thải bỏ đờm là quan trọng. Lúc này các thuốc tác dụng trên đờm thực sự hữu ích.
Thuốc long đờm không phải là thuốc chống ho. Vì thuốc không có tác dụng cắt đứt cơn ho trên cơ chế và trên thực tế. Vì vậy, giải pháp cho dùng thuốc để cắt đứt cơn ho là không phù hợp. Một vài trường hợp dùng thấy khỏi ho hoàn toàn không do thuốc có tác dụng mà đó chỉ là sự khỏi đồng thuận may mắn do tình cờ mà có. Ví dụ, trong cảm cúm nhẹ, bạn sẽ có ho. Dù bạn có uống thuốc long đờm hay không thì một vài ngày sau bạn cũng khỏi cúm và cũng khỏi ho. Việc khỏi này hoàn toàn không do thuốc long đờm tạo ra.
Rất quan trọng với dùng thuốc tác dụng trên đờm là nước. Thuốc sẽ không đạt công hiệu tối đa nếu không uống nước nhiều và đầy đủ. Nước là một chất trực tiếp làm tăng dịch tiết trong đờm, tăng độ loãng cho đờm. Nên nếu như không uống kèm thêm một chỉ định thì dù có uống liều cao guaifenesin hay liều cao ambroxol thì hiệu quả thu được rất hạn chế. Thường phải uống ít nhất 1,5 lít nước/ngày với một người trưởng thành. Thêm chừng 300-500ml nếu có sốt cao.




Khi nào cần dùng thuốc ngủ?


Hầu hết ai trong chúng ta đều trải qua những lúc bị mất ngủ. Điều đó là bình thường và mất ngủ đó chỉ là nhất thời, do nguyên nhân stress hoặc những yếu tố bên ngoài… Nhưng nếu mất ngủ kéo dài và ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày thì đó lại là một vấn đề gây ra hậu quả tiêu cực đến sự thăng bằng về sức khỏe và cảm xúc của bạn. Khi ấy có thể cần đến sự trợ giúp của thuốc ngủ…
Có nhiều loại thuốc để điều trị mất ngủ:
Những thuốc do bác sĩ kê đơn
Benzodiazepin: là loại thuốc giải lo âu, gây ngủ thường được sử dụng để điều trị mất ngủ. Thuốc tác dụng bằng cách tăng hoạt động của GABA là một chất dẫn truyền thần kinh ức chế chính ở não, tác động vào thùy trán và vùng amydale của não bộ làm giảm sự hoạt động của các tế bào thần kinh, gây giảm căng thẳng, tác dụng điều trị mất ngủ do lo âu.
Thuốc chống trầm cảm gây ngủ: một số thuốc chống trầm cảm gây ngủ như amitriptylin, mitazapin… do làm ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin ở não, có tác dụng điều trị trầm cảm, do đó cải thiện được mất ngủ khi mất ngủ là triệu chứng của bệnh trầm cảm.
Thuốc không cần kê đơn
Kháng histamin: là một thuốc từ lâu đã được coi như là thuốc điều trị rối loạn giấc ngủ do nó phong tỏa receptor của histamin, một chất dẫn truyền thần kinh điều hòa sự thức tỉnh và sự tăng cường bài tiết histamin làm cho người bệnh khó ngủ. Vì vậy, thuốc có tác dụng gây ngủ nhưng có tác dụng phụ là táo bón, khô miệng, nhìn mờ.
Melatonin: được gọi là “hormon bóng đêm” do tuyến yên  tiết ra vào ban đêm theo nhịp ngày đêm và sự tiết hormon này được cho là duy trì nhịp thức ngủ bình thường của con người. Sự tiết melatonin của cơ thể giảm dần khi tuổi càng cao. Việc sử dụng melatonin chỉ tác dụng với những bệnh nhân có rối loạn về nhịp thức ngủ.
Thuốc nguồn gốc thảo dược: một số thuốc có nguồn gốc thảo dược có tác dụng đối với những trường hợp mất ngủ như rotunda (được chiết xuất từ củ bình vôi), hoặc một số bài thuốc Đông y có tác dụng điều trị mất ngủ như sự kết hợp giữa táo nhân, quả dành dành, đinh lăng, bạch quả…
Những lưu ý khi sử dụng thuốc gây ngủ
Sử dụng thuốc gây ngủ cần có sự kiểm soát chặt chẽ của bác sĩ và việc dùng thuốc gây ngủ chỉ là giải pháp tạm thời và cần phải kết hợp thêm những biện pháp không dùng thuốc mới có hiệu quả (như thay đổi thói quen ngủ hàng ngày, vệ sinh giấc ngủ…).
Nếu cần phải sử dụng thuốc ngủ lâu dài thì chỉ nên sử dụng khi cần thiết, không nên sử dụng một cách liên tục hàng ngày để tránh nghiện và giảm dung nạp với thuốc.
Chỉ dùng thuốc khi bạn có đủ thời gian để ngủ đầy đủ, tức là từ 7 - 8 tiếng.
Không bao giờ dùng thuốc cùng với rượu vì rượu có thể làm gián đoạn giấc ngủ và tương tác nguy hiểm với thuốc.
Không bao giờ lái xe hoặc vận hành máy móc sau khi dùng thuốc ngủ, đặc biệt khi mới bắt đầu sử dụng một loại thuốc ngủ nào đó.



Không dùng thuốc của người lớn cho trẻ em

Chưa bàn đến việc dùng thuốc đã đúng bệnh hay chưa nhưng trước hết phải khẳng định ngay rằng cách cho con uống thuốc của chị như vậy là không đúng, thậm chí  rất nguy hiểm. Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ như chị nghĩ. 
Ở trẻ em, các chức năng về gan, thận... chưa hoàn chỉnh, cơ thể trẻ đang lớn và phát triển. Vì vậy không thể lấy thuốc dùng cho người lớn rồi chia nhỏ liều ra để dùng cho trẻ em được. 
Một mặt không thể đảm bảo liều chính xác, một mặt có những thuốc cấm dùng cho trẻ em. Con chị chưa được 2 tuổi trong khi đó có rất nhiều thuốc lại có chống chỉ định với trẻ em dưới 2 tuổi. Ngoài ra còn có những loại thuốc cần phải nuốt nguyên viên, nếu cắt (bẻ) đôi hoặc nghiền viên thuốc ra sẽ làm hỏng mục đích điều trị của thuốc. Thuốc sẽ được tan ngay ở dạ dày hoặc là sẽ làm hại dạ dày hoặc sẽ bị dịch vị của dạ dày phá huỷ… 
Đối với trẻ em, liều dùng thuốc cũng được tính toán rất kỹ lưỡng. Liều lượng thuốc cho trẻ thường tính theo cân nặng (mg/kg thể trọng) và phải được điều chỉnh theo đặc điểm dược động học riêng của từng thuốc, theo tuổi, tình trạng bệnh của từng bệnh nhi. Nếu không có thể dẫn đến điều trị không hiệu quả hoặc có nguy cơ nhiễm độc. 
Vì vậy, đối với trẻ em, cố gắng tìm đến các dạng bào chế thích hợp, tiện dùng cho trẻ. Các dạng bào chế này hiện nay trên thị trường có rất sẵn (siro, dung dịch, hỗn dịch…). Vì vậy, chị nên dừng ngay việc dùng thuốc như trên cho cháu.
Dùng thuốc cho trẻ cần hết sức thận trọng
Hai nữa, không phải cứ ho là dùng kháng sinh. Ho là triệu chứng của rất nhiều bệnh ở đường hô hấp. Và nhiều khi do dị ứng thời tiết cũng gây ho… Chỉ dùng kháng sinh khi nguyên nhân gây ho là các bệnh do vi khuẩn hoặc do bội nhiễm vi khuẩn…




HIV bắt đầu kháng thuốc


Ở một số nước châu Phi, tỷ lệ HIV kháng thuốc Tenofovir lên đến 60%. Kết quả này "cực kỳ đáng lo ngại", BBC dẫn lời tiến sĩ Ravi Gupta từ Đại học London (Anh) cho biết.
[Caption]
Ảnh: Science Photo Library
Trong 4 năm, tiến sĩ Gupta cùng cộng sự đã so sánh bệnh nhân HIV từ các châu lục khác nhau và phát hiện tỷ lệ kháng Tenofovir tại châu Phi là 60% trong khi con số này tại châu Âu 20%. Viết trên tạp chí The Lancet, nhóm tác giả nhận định nhiều khả năng là do sử dụng thuốc sai cách. "Nếu không uống thuốc đúng liều, ví dụ như quá ít hoặc không thường xuyên, virus sẽ vượt qua và trở nên kháng thuốc", tiến sĩ Gupta nhận định. 
Nguy hiểm hơn, chủng HIV kháng Tenofovir có thể truyền từ người sang người. Các chuyên gia đang tiếp tục nghiên cứu để hiểu hơn về phương thức virus kháng thuốc phát triển và lây lan.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, HIV hiện vẫn là căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất thế giới. Năm 2014, có 36,9 triệu người sống chung với HIV trên toàn cầu. 



Lạm dụng thuốc loãng xương rất nguy hiểm


Một số tác dụng phụ như loét và thủng thực quản, dạ dày, ruột có thể xuất hiện sau một thời gian dùng thuốc phòng loãng xương.

Ở Việt Nam, số người dùng các thuốc này ngày càng nhiều, nhưng rất ít khi họ được thông tin về tác dụng thật sự cũng như những nguy hiểm tiềm tàng mà việc lạm dụng thuốc có thể gây ra.

Sở dĩ nhiều bác sĩ kê đơn thuốc này vì họ coi hiện tượng giảm dần canxi trong xương theo tuổi tác là một bệnh lý. Thực ra, theo các chuyên gia giàu kinh nghiệm về xương khớp, không nên dùng thuốc trị loãng xương cho người có chỉ số khoáng chất dưới - 2 mà vẫn khỏe mạnh và không có triệu chứng bệnh tật nào.

Nhóm thuốc hay được kê cho người loãng xương nhất là bisphosphonat với các biệt dược nổi tiếng như Fosamax, Actonel, Reclast, Boniva... Đôi khi các bác sĩ còn chỉ định thuốc nội tiết tố oestrogen, thuốc kích thích cảm thụ quan của estrogen hoặc kích thích tăng sản xương.

Các thuốc này đã được chấp nhận vì có khả năng làm tăng nồng độ canxi trong xương. Nhưng một số nhà nghiên cứu đặt ra câu hỏi mà hiện nay chưa có câu trả lời chính xác: Liệu chúng có làm xương chắc và ít gãy hơn không? Theo các nghiên cứu của họ, phần lớn chúng chỉ ngăn cản sự đào thải của các khối canxi không còn liên kết với xương, chứ không làm tăng sự hàn gắn của canxi vào các mô xương.

Nhiều tác dụng phụ

Sau một thời gian sử dụng thuốc phòng loãng xương, đặc biệt là nhóm bisphosphonat, một số tác dụng phụ nguy hiểm có thể xuất hiện như loét và thủng thực quản, dạ dày, ruột.

Thuốc Fosamax
đã được các nha sĩ phát hiện là có khả năng gây hoại tử xương hàm và có thể dẫn đến tàn phế, thậm chí tử vong cho người sử dụng thuốc. Nó cùng với hai dược phẩm Aredia và Zometa đã bị buộc dán nhãn đen để cảnh báo về tác dụng phụ nguy hiểm này. Hai nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí y khoa New England Journal of Medicine còn cho thấy Fosamax làm tăng các nguy cơ loạn nhịp tim và rung nhĩ ở phụ nữ tới 50%.

Ngoài ra, thuốc trị loãng xương còn có thể gây ợ chua, đau bụng, tiêu chảy, đầy hơi, trào axít thực quản, táo bón và nhiều rối loạn tiêu hóa khác.

Còn các thuốc sử dụng oestrogen và cảm thụ quan của nội tiết tố này cần được nghiên cứu kỹ hơn để khẳng định về hiệu quả và độ an toàn. Việc can thiệp lâu dài vào nội tiết tố thường dẫn tới nhiều biến chứng và bệnh tật nguy hiểm như ung thư, tim mạch...

Forteo là thuốc duy nhất có khả năng làm tăng trưởng mô xương và làm chắc xương. Nhưng các nghiên cứu đã cho thấy nó còn có thể kích thích sự hình thành tế bào ung thư xương.

Để phòng trị loãng xương, các chuyên gia khuyên nên cóchế độ dinh dưỡng nhiều rau, hoa quả tươi để cung cấp magiê, canxi, vitamin K, glycine. Chúng đã được chứng minh là có tác dụng tích cực cho việc phòng chống loãng xương.

Nên tập luyện ít nhất 2 lần/tuần và tiếp xúc điều độ với ánh nắng mặt trời để có đủ vitamin D.



Độc tính của thuốc gây tê tại chỗ


Biểu hiện nhiễm độc cấp tính thường xảy ra do nồng độ thuốc tăng nhanh trong máu. Do đó, khi tiêm nhanh một liều nhỏ của thuốc gây tê có thể gây ra các biểu hiện nhiễm độc cấp tính.

Các loại thuốc gây tê tại chỗ như novocain, lidocain, bupivacain thường được sử dụng để giảm đau trong các thủ thuật và tiểu phẫu thuật ở ngoài da và niêm mạc hoặc để phong bế các dây thần kinh cảm giác. Nói chung, nếu được sử dụng đúng cách, các thuốc này thường chỉ tác dụng tại chỗ mà ít được hấp thu vào máu nên ít gây tác dụng phụ toàn thân. 
Bên cạnh các phản ứng dị ứng, tình trạng nhiễm độc do nồng độ thuốc trong máu cao quá mức cho phép cũng là một trong các tác dụng phụ thường gặp nhất với nhóm thuốc này. Sau khi gây tê, nồng độ thuốc tê có thể tăng cao trong máu vì nhiều lý do khác nhau như thuốc gây tê được tiêm vào mạch máu, tốc độ tiêm quá nhanh, dùng vượt quá liều quy định hoặc do thuốc hấp thu vào máu quá nhanh khi gây tê ở một vùng giàu mạch máu (đặc biệt là các vùng niêm mạc). Khi phong bế thần kinh liên sườn bằng các thuốc gây tê, thuốc cũng hấp thu nhanh hơn so với khi tiêm dưới da nên nồng độ thuốc trong máu cũng có thể tăng cao.
Các biểu hiện của nhiễm độc thuốc gây tê
Nhiễm độc thuốc gây tê chủ yếu ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương và hệ tim mạch, trong đó, các biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương thường gặp hơn và xảy ra sớm hơn so với các biểu hiện ở hệ tim mạch. Các biểu hiện nhiễm độc cấp tính thường xảy ra do nồng độ thuốc tăng nhanh trong máu. Do đó, khi tiêm nhanh một liều nhỏ của thuốc gây tê cũng có thể gây ra các biểu hiện nhiễm độc cấp tính.
Biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương: Các biểu hiện do kích thích hệ thần kinh trung ương thường xảy ra sớm, giai đoạn muộn là các biểu hiện do tác dụng ức chế thần kinh của thuốc. Những trường hợp nhẹ hoặc trong giai đoạn sớm, người bệnh thường có biểu hiện hoa mắt, chóng mặt, ù tai, tê bì đầu chi, rối loạn vị giác, lú lẫn và buồn ngủ. 
Trong quá trình tiêm, thầy thuốc cần liên tục hỏi bệnh nhân về cảm giác của họ, nếu có dấu hiệu nghi ngờ có nhiễm độc thuốc, cần ngay lập tức ngừng tiêm. Những trường hợp nặng, người bệnh có thể co giật, mất ý thức, hôn mê, suy hô hấp và ngừng thở. Tùy thuộc vào loại thuốc và tốc độ tăng của nồng độ thuốc trong máu, bệnh nhân có thể tỉnh lại sau một thời gian ngắn.
Các biểu hiện ở hệ tim mạch: Ở các trường hợp nhiễm độc nhẹ hoặc trong giai đoạn sớm, người bệnh thường có nhịp tim nhanh và tăng huyết áp, đặc biệt là khi thuốc gây tê được tiêm kết hợp với adrenalin. Sau đó người bệnh thường biểu hiện nhịp tim chậm và tụt huyết áp. 
Những trường hợp nặng, người bệnh có trụy tim mạch và rối loạn nhịp tim do tác dụng gây độc trực tiếp của thuốc tê trên tế bào cơ tim. Nói chung, bupivacain có độc tính trên cơ tim cao hơn so với lidocain. Rối loạn nhịp tim do thuốc gây tê có thể rất nặng và dai dẳng, khó điều trị. Nồng độ thuốc gây tê đủ để gây trụy tim mạch thường cao gấp 4 - 7 lần nồng độ thuốc đủ để gây ra co giật.
Dự phòng
Để giảm thiểu nguy cơ nhiễm độc thuốc gây tê tại chỗ, cần sử dụng đúng liều thuốc, lựa chọn những thuốc ít độc tính, giảm liều thuốc ở những người bệnh lớn tuổi hoặc có thể trạng gày yếu, tiêm thuốc chậm và lưu ý rút pit tông liên tục trong khi tiêm xem có máu ra không để đề phòng tiêm vào mạch máu. 
Tiêm thuốc gây tê đồng thời với adrenalin (epinephrin) cũng là một biện pháp có thể giúp giảm tốc độ hấp thu thuốc vào máu. Các nghiên cứu cho thấy, việc tiêm phối hợp với adrenalin gây giảm nồng độ tối đa của thuốc gây tê trong máu khoảng 50%. Adrenalin thường được pha ở nồng độ 1/200.000, với liều tối đa là 200 microgam. Cần lưu ý là việc tiêm phối hợp với adrenalin sẽ không giúp giảm được độc tính của thuốc gây tê nếu hỗn hợp thuốc được tiêm vào mạch máu.
Nên đặt sẵn đường truyền tĩnh mạch và chuẩn bị các thuốc và phương tiện cấp cứu trước khi gây tê. Sau khi gây tê, người bệnh cũng cần được theo dõi tại cơ sở y tế để phát hiện sớm các độc tính của thuốc có thể xảy ra sau đó.
Điều trị
Nếu người bệnh có các dấu hiệu nghi ngờ nhiễm độc thuốc gây tê trong quá trình tiêm, cần ngay lập tức ngừng tiêm và mở đường truyền tĩnh mạch. Phải đảm bảo thông thoáng đường thở và cho bệnh nhân thở ôxy nồng độ cao nếu có. Cung cấp đủ ôxy giúp ngăn ngừa tổn thương não, tình trạng co giật và các rối loạn nhịp tim khó kiểm soát. Nếu bệnh nhân co giật, có thể dùng diazepam tiêm tĩnh mạch hoặc đặt hậu môn. 
Các trường hợp hôn mê phải nhanh chóng đặt ống nội khí quản và cho bệnh nhân thở máy. Nếu bệnh nhân bị trụy tim mạch, cần điều trị bằng truyền dịch và các thuốc co mạch như ephedrin. Nếu ephedrin không hiệu quả, có thể dùng adrenalin dung dịch 1:1000 tiêm dưới da 0,3ml hoặc dung dịch 1:10,000 tiêm tĩnh mạch chậm 0,5 - 1ml. Điều trị các rối loạn nhịp tim nếu có, ép tim khi có ngừng tuần hoàn.
Nhiễm độc thuốc gây tê thường có tiên lượng tốt nếu người bệnh được phát hiện và điều trị sớm. Tình trạng nhiễm độc thường nhanh chóng hồi phục nếu được điều trị đúng.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons