Thứ Ba, 9 tháng 2, 2016

Người bệnh kiêng ăn mặn không nên dùng thuốc sủi



Trong viên sủi ngoài thành phần chính là thuốc, nó còn được cho thêm nhiều chất khác không có tác dụng điều trị (tá dược), mà chỉ để cho viên thuốc hấp dẫn như: tạo mùi thơm hoa quả, có loại thuốc còn cho thêm đường để tạo vị ngọt. 
Với tác dụng này, viên thuốc đã tạo được sức hấp dẫn gây hiệu ứng tâm lý tốt với người dùng thuốc, đặc biệt là trẻ em. Tuy nhiên, thuốc sủi là thuốc cần phải được dùng đúng bệnh, đúng liều lượng, tốt nhất là được thầy thuốc kê đơn.
Người bệnh kiêng ăn mặn không nên dùng thuốc sủi 1
Khi dùng các viên thuốc sủi cần lưu ý một số điều sau :
Trong viên sủi bao giờ cũng có một hóa chất để tạo ra nhiều bọt (sủi tăm) đó là natri hydrocarbonat (NaHCO3). 
Chất này có bản tính kiềm nên khi gặp chất thuốc có tính acid (chẳng hạn vitamin C trong viên upsa-C, myvita…) trong môi trường nước sẽ xảy ra phản ứng để tạo ra nhiều natri và khí CO2 – là các bọt khí sủi lên. Bởi có natri, người bệnh suy thận hoặc người bệnh kiêng ăn mặn không được dùng.
Với viên sủi upsa C calcium, thì ngoài lượng natri được hình thành sau phản ứng sủi bọt còn có canxi. Bởi vậy, không những không dùng cho người bệnh kiêng ăn mặn mà còn không được dùng cho người bệnh sỏi thận (sỏi canxi).
Viên thuốc sủi nếu để lâu ngoài không khí sẽ hút ẩm, mất tác dụng tạo sủi. Do đó, khi lấy thuốc ra, số thuốc còn lại phải được bảo quản thật kín. 
Khi dùng cần thả cả viên thuốc vào cốc nước lọc (hoặc nước đun sôi để nguội) đợi cho viên thuốc sủi bọt hòa tan hoàn toàn mới dùng. Không nên sử dụng viên sủi sau khi vừa uống các loại nước giải khát có ga.
Viên sủi tương đối hấp dẫn trẻ em, vì thế cần để thuốc xa tầm tay với của trẻ để phòng trường hợp trẻ tự lấy dùng nhiều gây ngộ độc.



Phản ứng có hại do thuốc và cách hạn chế


Thuốc là những chất dùng cho cơ thể người để phòng bệnh, chẩn đoán hoặc chữa bệnh, hoặc làm thay đổi một chức năng sinh lý.

Khi vào cơ thể, một thuốc có thể gây ra nhiều tác dụng nhưng thường chỉ có một trong số các tác dụng đó đáp ứng đúng mục đích sử dụng và được gọi là tác dụng chính.
Phần lớn các tác dụng khác được gọi là tác dụng không mong muốn, tác dụng phụ hoặc phản ứng có hại do thuốc gây ra.
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới, phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug Reaction - ADR) là một phản ứng độc hại, không được định trước, xảy ra ở liều thường dùng cho người để phòng bệnh, chẩn đoán hoặc điều trị bệnh. Như vậy, ADR là tên gọi chung cho mọi tác dụng không mong muốn xảy ra khi dùng thuốc đúng liều.
Các loại tác dụng có hại của thuốc
Theo truyền thống, các ADR được chia làm hai loại:
Phản ứng dạng A: Là các phản ứng tăng nặng bao gồm tác dụng độc nguyên phát hoặc tác dụng mở rộng của thuốc; tác dụng không mong muốn có liên quan đến đặc tính dược lý của thuốc; với các đặc điểm tiên lượng được (dự đoán trước được), thường phụ thuộc vào liều dùng, là tác dụng dược lý quá mức hoặc là biểu hiện của tác dụng dược lý ở một vị trí khác.
Phản ứng có hại do thuốc và cách hạn chế 1Tổn thương da do tác dụng phụ của thuốc
Phản ứng dạng B: Là phản ứng lạ bao gồm phản ứng dị ứng, phản ứng đặc ứng (là những ADR đặc biệt khác thường không liên quan đến tác dụng dược lý đã biết, do nhạy cảm cá nhân bẩm sinh) và hiện tượng phụ thuộc thuốc. Phản ứng dạng này có các đặc điểm không dự đoán trước được, không liên quan đến tác dụng dược lý đã biết của thuốc, là tác dụng lạ và không phụ thuộc rõ ràng vào liều dùng. Khi gặp phải ADR dạng này thường phải dừng thuốc ngay lập tức.
Vì sao thuốc có tác dụng có hại?
Các ADR dù ở dạng nào cũng liên quan đến 3 nhóm nguyên nhân cơ bản:
Nhóm nguyên nhân liên quan đến bào chế: Nhóm nguyên nhân này thường gặp ở cả hai týp, trong đó các nguyên nhân gây ra ADR týp A phải kể đến là hàm lượng thuốc và tốc độ giải phóng hoạt chất; trong khi đó các nguyên nhân về bào chế gây ra ADR týp B lại phải kể đến sự phân hủy các thành phần dược chất, tác dụng của các tá dược có trong thành phần dược phẩm, tác dụng của các sản phẩm phụ trong quá trình tổng hợp hóa học dược chất.
Nhóm nguyên nhân dược động học: Nguyên nhân này thường xảy ra ở týp A, trong đó nguyên nhân liên quan đến ADR ở týp A là tất cả các yếu tố dẫn đến thay đổi về khả năng hấp thu, phân bố, chuyển hóa, thải trừ thuốc gây tăng nồng độ thuốc có trong huyết tương hoặc mô đích. 
Các yếu tố đó thường là tính chất dược học và hóa lý của thuốc, thức ăn ở trong đường tiêu hóa, nhu động của đường tiêu hóa, bệnh lý của đường tiêu hóa đi kèm, khả năng chuyển hóa thuốc ở gan, khả năng gắn thuốc vào protein huyết tương... trong khi đó yếu tố gây ra ADR týp B lại là khả năng chuyển hóa thuốc sinh ra các chất độc cho cơ thể.
Nhóm nguyên nhân dược lực học: Với týp A thường là sự tăng tính nhạy cảm của cơ quan đích với thuốc, còn với týp B thường là phản ứng dị ứng hoặc liên quan đến thiếu hụt di truyền.
Các yếu tố liên quan đến sự phát sinh ADR
Các yếu tố thuộc về bệnh nhân: Trẻ sơ sinh và người cao tuổi là đối tượng có nguy cơ cao; một số ADR hay gặp ở phụ nữ hơn nam giới; có các bệnh lý mắc kèm; tiền sử dị ứng hoặc phản ứng với thuốc; thiếu một số enzym chuyển hóa.
Các yếu tố liên quan đến thuốc: Đặc tính lý hóa và dược động học của thuốc; công thức bào chế, thành phần tá dược; liều dùng thuốc, đường dùng và thời gian dùng.
Điều trị nhiều thuốc trong một phác đồ điều trị: Tần suất ADR tăng lên theo cấp số nhân với số lượng thuốc có trong một đợt điều trị, tương tác giữa các thuốc cũng là yếu tố làm tăng ADR.
Các biện pháp để hạn chế ADR
Hạn chế số thuốc dùng, chỉ kê đơn những thuốc thực sự cần thiết.
Nắm vững thông tin về loại thuốc đang dùng cho bệnh nhân, xem xét kỹ có tương tác thuốc hay không.
Nắm vững thông tin về bệnh nhân, đặc biệt là các đối tượng bệnh nhân có nguy cơ cao (trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ mang thai, phụ nữ cho con bú, bệnh lý gan thận, tiền sử dị ứng...).
Chỉ dẫn rõ ràng cho người bệnh hiểu về bệnh tật và cách sử dụng thuốc cho đúng, cách nhận biết sớm các triệu trứng của ADR.
Theo dõi sát bệnh nhân, phát hiện sớm các biểu hiện của phản ứng bất lợi do thuốc và có những xử trí kịp thời.
Thông tin trở lại các trường hợp đã gặp ADR ở lâm sàng để các thầy thuốc có những chú ý khi sử dụng thuốc.
Tóm lại, khi sử dụng thuốc để điều trị, phải xem xét cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ của thuốc, để lựa chọn thuốc phù hợp với đặc điểm bệnh nhân và tình trạng bệnh tật. Bệnh nhân tuyệt đối không nên tự ý dùng thuốc, chỉ dùng thuốc khi có ý kiến của bác sĩ.



Không dùng tùy tiện kem thoa có chứa steroid


Corticosteroid vốn được sử dụng để điều trị những rối loạn về da như chàm, vảy nến, da nổi mẩn... Chúng có thể được bào chế dưới dạng viên dùng để uống, dạng thuốc chích và dạng kem thoa da.




Steroid được dùng trong y học cho nhiều mục đích trị liệu khác nhau và được sản xuất dưới nhiều dạng bào chế khác nhau. Kem thoa da có chứa steroid là dạng bào chế phổ biến nhất, tuy nhiên đây cũng là loại sản phẩm được dùng bừa bãi nhất.
Steroid vốn là những hoóc-môn có nhiệm vụ “mênh mông bao la” trong cơ thể. Corticosteroid là những dạng của steroid vốn có đặc tính kháng viêm hữu hiệu. Corticosteroid vốn được sử dụng để điều trị những rối loạn về da như chàm, vảy nến, da nổi mẩn... Chúng có thể được bào chế dưới dạng viên dùng để uống, dạng thuốc chích và dạng kem thoa da. 
Kem thoa da có chứa steroid thường dễ sử dụng đồng thời có tác động nhanh hơn. (Không nên nhầm lẫn corticosteroid với các loại steroid đồng hóa vốn thường được các lực sĩ dùng để tăng cường cơ bắp).
Không dùng tùy tiện kem thoa có chứa steroid 1
Sử dụng kem thoa steroid bừa bãi làm da bị mỏng, rạn và bị biến đổi màu...
Dạng bào chế dưới dạng kem thoa có chứa steroid sẽ được thoa trực tiếp vào vùng da cần trị liệu. Chúng có nhiều ưu điểm hơn loại thuốc viên dùng để uống. Do thuốc dạng uống  phải “ngao du” trong cơ thể trước khi tới da, do đó thường mang lại một tác động rất chậm so với dạng kem thoa. 
Dạng kem thoa thì thuốc sẽ được hấp thu ngay qua da và nhờ vậy sẽ cho một tác động nhanh hơn. Kem thoa steroid sẽ giúp làm giảm quá trình viêm và hỗ trợ các rối loạn da, giúp da bớt ngứa, bớt đau... Dù steroid không chữa được căn nguyên của bệnh chàm nhưng chúng có tác dụng làm giảm một phần các triệu chứng của bệnh chàm. 
Do có tác động giảm ngứa nên kem thoa có steroids sẽ giúp bệnh nhân không gãy da, vốn thường sẽ gây rách da, trầy xước da và càng làm cho bệnh tình càng khó chịu hơn.
Hiệu lực của kem thoa có chứa steroid bởi hàm lượng của steroid có trong sản phẩm cũng như hàm lượng của các chất dầu có trong sản phẩm. Kem thoa steroid được phân thành 7 nhóm tùy theo hiệu lực của chúng. Nhóm 1 bao gồm các loại steroid với hiệu lực tối đa, và nhóm 7 là những loại steroid có hiệu lực thấp nhất.
Thông thường, nếu được bác sĩ kê toa, bác sĩ sẽ cho bệnh nhân dùng kem thoa steroid có nồng độ thấp nhất để xem cơ thể của bệnh nhân phản ứng với thuốc như thế nào. Sau đó hàm lượng steroid sẽ được tăng dần dần nếu lọai kem có hàm lượng steroid ở mức thấp nhất không có “xi nhê” gì. Các bệnh nhân lần đầu mắc bệnh chàm thường được kê hydrocortisone (1%) như là một sự lựa chọn đầu tiên. Khi sử dụng kem thoa có chứa steroid không nên dùng quá một tuần, nếu kem thoa steroid không giúp cải thiện tình trạng bệnh hoặc làm bệnh tình trở nên “bát nháo” hơn thì phải cần phải áp dụng một chế độ trị liệu khác.
Bôi quá nhiều kem thoa steroid và sử dụng chúng trong một thời gian  lâu là một điều vô cùng tác hại. Những loại kem thoa có chứa hàm lượng cao steroid thường được bác sĩ kê cho bệnh nhân dùng trong một thời gian ngắn. 
Một tuần hoặc 2 tuần chứ không thể lâu hơn. Sử dụng kem thoa steroid bừa bãi sẽ dẫn đến những hậu quả như làm da bị mỏng, da bị biến đổi màu, rạn da... Khi sử dụng kem thoa steroid mà bạn cảm thấy những dấu hiệu trên, bạn cần phải đi khám bác sĩ da liễu ngay, đừng chậm trễ. Những báo cáo y học gần đây còn khuyến cáo rằng nếu sử dụng bừa bãi kem thoa steroid, người sử dụng có thể làm tăng thêm rủi ro bị ung thư.
Steroid thực sự là “của quý”. Vì vậy, cần phải biết giữ gìn, cần sử dụng đúng chỗ và đúng lúc, không được sử dụng tùy tiện. Sử dụng theo kiểu rỉ tai hay “mượn” thuốc từ người thân sẽ mang lại một hậu quả... buồn.



Ăn bưởi khi uống thuốc dễ gây đột tử


Bưởi là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất tuyệt vời cho cơ thể. Ngoài ra, bưởi còn là một thực phẩm chữa bệnh, hỗ trợ điều trị các bệnhcao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh xơ cứng động mạch. Đặc biệt, bưởi có công dụng giúp giảm béo, cho phái đẹp một vóc dáng hoàn hảo.
Ăn bưởi sai cách dễ gây hại cho sức khỏe.
Ăn bưởi sai cách dễ gây hại cho sức khỏe
Không chỉ có tép bưởi, vỏ bưởi cũng có tác dụng chữa bệnh không kém. Trong đó có chứa chất glycosides giúp tăng độ lưu thông cho máu, giảm thiểu sự hình thành của huyết khối, giúp phòng chống tắc nghẽn mạch máu não.
Tuy bưởi rất có lợi trong nhiều mặt nhưng nếu dùng sai cách hay ăn chúng quá nhiều cũng rất dễ gây hại cho cơ thể, thậm chí gây tử vong.
Trường hợp xấu nhất này có thể xảy ra nếu bạn ăn bưởi trong khi đang uống một số loại thuốc điều trị. Khi đang dùng thuốc chống dị ứng, nếu bạn ăn bưởi hoặc uống nước ép bưởi, có thể gây ra đau đầu, tim đập mạnh, loạn nhịp tim… thậm chí có thể dẫn đến đột tử.
Bên cạnh đó, những người béo phì có lượng mỡ trong máu cao, vừa uống thuốc giảm béo vừa uống một cốc nước ép bưởi thì có thể dẫn đến hiện tượng đau cơ hay gây ra những bệnh về thận.
Bởi vậy, các chuyên gia y tế đã khuyến cáo rằng, bệnh nhân đang sử dụng thuốc, đặc biệt là thuốc cho người già thì tuyệt đối không nên ăn bưởi và uống nước ép từ bưởi trong quá trình điều trị để tránh những tác dụng phụ đáng tiếc xảy ra.
Ngoài ra, nếu bạn ăn bưởi quá nhiều cũng dễ gây ra đau bụng vì bưởi có tính lạnh. Vì vậy, dù tốt thật nhưng nên ăn bưởi có chừng mực để bảo vệ sức khỏe của mình.




Thuốc tâm thần phân liệt: Hiểu để dùng hiệu quả, an toàn


Một vài nét về tâm thần phân liệt
Xưa kia, dựa vào triệu chứng lâm sàng để định bệnh trầm cảm. Loạn thần có các triệu chứng tiêu cực được xếp vào dạng trầm cảm loạn thần. Về sau, do nhận thức đầy đủ triệu chứng, bệnh sinh nên người ta tách dạng này thành một bệnh riêng, gọi là bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia). 
Còn khái niệm loạn thần (psychotic) dùng chỉ một trạng thái, một triệu chứng, không dùng chỉ một bệnh. Ngoài bệnh tâm thần phân liệt (TTPL), còn có trạng thái loạn thần do uống rượu, dùng ma túy, nhiễm độc, nhiễm khuẩn.
Chưa có tài liệu nào chứng minh thảo dược hay một phép chữa nào có thể chữa khỏi tâm thần phân liệt nên việc bỏ hóa dược, đi tìm “thuốc lá gia truyền” hay đi tìm cách chữa “phù phép” đều không đúng.
Có nhiều giả thiết về bệnh sinh tâm thần phân liệt. Giả thiết được nhiều nhà y học tán đồng là do tăng quá mức chất dẫn truyền thần kinh dopamin. Từ giả thiết này, chế tạo ra các thuốc làm giảm sản xuất hay ức chế dopamin để chữa bệnh. Có thể coi thuốc tâm thần phân liệt như là thuốc ức chế thần kinh trung ương (đưa trạng thái hoạt động tâm thần quá mức về trạng thái hoạt động tâm thần bình thường).
Thuốc tâm thần phân liệt có 2 nhóm: nhóm điển hình hay cổ điển dùng để chữa chủ yếu thể điển hình; có 18 loại thuốc trong đó hơn 50% là dẫn chất phenothiazin còn lại là dẫn chất benzamid, butyrophenon, thioxanthen. Nhóm thuốc không điển hình hay thế hệ mới dùng chữa chủ yếu thể tâm thần phân liệt không điển hình; bao gồm khoảng 10 loại thuốc có cấu trúc khác nhau nhưng dược tính cơ bản giống nhau như: risperidon, olanzapin, clozapin, quitiapin.
Hiểu để dùng đúng thuốc tâm thần phân liệt
Khi bị tâm thần phân liệt nhất thiết phải dùng thuốc: bệnh sinh tâm thần phân liệt là do sự tăng quá mức chất dẫn truyền thần kinh dopamin. Dùng thuốc làm giảm sản xuất hay ức chế dopamin là tác động vào nguyên nhân bệnh. Có tâm lý liệu pháp, liệu pháp hành vi góp phần mang lại một số hiệu quả nhất định nhưng không thể thay thế được thuốc. 
Người tâm thần phân liệt thường nghĩ mình không bị bệnh, không thích, không chịu dùng thuốc. Ở bệnh viện, điều dưỡng viên phải tìm mọi cách cho người bệnh dùng thuốc (có khi yêu cầu phải uống hết thuốc trước mặt mình mà không giao thuốc cho người bệnh tự dùng). Ở nhà, người nhà phải nhắc người bệnh dùng thuốc đúng hướng dẫn.
Phải dùng đúng liều, không bỏ dở: bệnh tâm thần phân liệt là bệnh mạn tính, khó chữa khỏi hẳn. Dùng thuốc sẽ làm giảm triệu chứng, đưa bệnh đến mức bệnh ổn định. Lúc đó, người bệnh sẽ có trạng thái tâm thần bình thường, nếu tiếp tục dùng thuốc duy trì, thời gian ổn định sẽ kéo dài. 
Trong thời gian ổn định, người bệnh có thể học tập làm việc như người bình thường. Tùy giai đoạn mà thầy thuốc sẽ cho liều khác nhau. Ví dụ: với chlopromazin 0,25mg, trong cơn cấp dùng liều cao (mỗi lần vài chục viên), bệnh thuyên giảm dùng liều thấp (4 - 6 viên/ngày) bệnh ổn định dùng liều duy trì (2 viên/ngày). Sợ độc không dám dùng liều cao, khi mới giảm triệu chứng đã bỏ thuốc, không dùng liều duy trì đều không đúng, sẽ không đem lại hiệu quả.
Tránh nhầm lẫn bệnh dẫn tới dùng nhầm thuốc: người bệnh tâm thần phân liệt có thể có triệu chứng âm tính với tư duy nghèo nàn, ý chí suy đồi mất hứng thú, vô cảm, mất động lực, gọi chung là suy giảm năng lượng tâm thần. 
Mới nhìn qua triệu chứng này tương tự như triệu chứng trong trầm cảm: mất khí sắc buồn rầu, ủ rũ, giảm hứng thú và sự quan tâm đến mọi việc, cảm thấy tương lai ảm đạm, tư duy chậm chạp, liên tưởng khó khăn… gọi chung là trạng thái giảm khí sắc, giảm năng lượng, giảm hoạt động. Người bệnh tâm thần phân liệt cũng có hiện tượng hoang tưởng. 
Mới nhìn qua triệu chứng này có vẻ giống với hoang tưởng trong trầm cảm nhưng hoang tưởng trong trầm cảm phản ảnh sự trầm uất, tiêu cực; trong khi đó, hoang tưởng trong tâm thần phân liệt phản ánh sự rối loạn tư duy, phấn khích. Người bệnh, người nhà không có kiến thức chuyên môn, không thể phân biệt được hai bệnh này. 
Nếu không khám tại chuyên khoa tâm thần mà dựa vào triệu chứng để tự dùng thuốc thì có thể nhầm thuốc bệnh này sang thuốc bệnh kia, sẽ có hại (vì tác dụng dược lý của chúng ngược nhau: thuốc tâm thần phân liệt như là thuốc ức chế trong khi thuốc trầm cảm như là thuốc kích thích).
Thuốc tâm thần phân liệt: Hiểu để dùng hiệu quả, an toàn
Khi mới giảm triệu chứng đã từ chối dùng thuốc, không dùng liều duy trì sẽ không đem lại hiệu quả
Phải chọn thuốc đúng theo thể bệnh: nhóm thuốc điển hình (cổ điển) có hiệu lực chắc chắn trên thể điển hình, giá thành thấp. Có 70 - 80% người tâm thần phân liệt thuộc thể điển hình. Do thế nhóm thuốc điển hình được chọn cấp miễn phí trong chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần. 
Nhóm thuốc không điển hình (thế hệ mới) được chọn dùng trong 3 trường hợp: bệnh thuộc thể âm tính dùng loại thuốc điển hình (cổ điển) không có hiệu quả. Kém dung nạp, không đáp ứng được với nhóm điển hình. Khi dùng loại thuốc điển hình bị triệu chứng ngoại tháp không chịu được.
Chỉ có khoảng 20 - 30% số người bệnh tâm thần phân liệt rơi vào 3 trường hợp trên. Nhóm thuốc không điển hình ít có các tác dụng phụ rầm rộ như rối loạn ngoại tháp, rối loạn vận động muộn như nhóm thuốc điển hình. Tuy nhiên, nhóm thuốc không điển hình cũng có một số tác dụng phụ khó nhận biết, không kém phần nguy hiểm. 
Chẳng hạn như Olanzapin gây hạ huyết áp tư thế đứng, tăng triglycerid huyết, tăng trọng. Clozapin làm giảm bạch cầu hạt, gây chết người. Giá thuốc khá cao. Nếu bị tâm thần phân liệt thể điển hình đã dùng thuốc nhóm điển hình (cổ điển) như chloprmazin có hiệu quả thì không nhất thiết phải chuyển sang dùng nhóm không điển hình.
Biết để tránh các tác dụng không muốn
Gây mất tập trung, giảm nhanh nhẹn, buồn ngủ, ngủ lơ mơ: tất cả thuốc tâm thần phân liệt đều có tác dụng không mong muốn này, đặc biệt nhóm thuốc có cấu trúc dẫn chất phenothiazin chứa nhóm chức histaminergic (như clopromazin) thì càng nặng. Khi dùng thuốc, không được lái tàu xe, vận hành máy móc, làm việc trên cao, làm các việc mạo hiểm vì dễ gây ra tai nạn.
Gây hội chứng ngoại tháp (EPS = Extra Pyramidal Syndrome): EPS là hội chứng rối loạn vận động và phối hợp vận động, đi lại khó khăn, dễ mất thăng bằng, té ngã, dễ bị tai nạn; cử động chậm, sờ vào vật gì cũng rờ rẫm lóng ngóng; nói năng không lưu loát, không thành câu, từng tiếng một, rời rạc. 
Vào bệnh viện tâm thần, thấy nhiều người bệnh đi đứng lóng ngóng, lựng khựng, thường giơ một tay lên lấy thăng bằng nhưng cũng có khi bị té ngã, nói năng không lưu loát, lập cập. Đó là do dùng nhóm thuốc không điển hình, cụ thể là dùng clopromazin, một loại thuốc gây ra hội chứng ngoại tháp mạnh. Nhóm thuốc không điển hình ít gây ra hội chứng ngoại tháp (EPS) hơn nhóm thuốc điển hình nhưng không phải là hoàn toàn không có mà vẫn gặp khi dùng liều cao.
Gây hội chứng vận động muộn: sau hội chứng ngoại tháp thường gặp hội chứng rối loạn vận động muộn ở vùng miệng - lưỡi - cơ nhai làm cho nói chậm, khó; với biểu hiện đặc trưng là các cơ ở vùng này hoạt động nhịp nhàng nhưng không theo ý muốn, thí dụ môi cứ mấp máy liên tục, miệng luôn giật méo về một bên.
Để tránh hiện tượng này chỉ dùng thuốc với liều tối thiểu đủ hiệu lực. Khi người bệnh bị hội chứng ngoại tháp (EPS), không cho họ đi lại nhiều, tham gia giao thông, điều dưỡng viên phải đi sát, theo dõi, nâng đỡ khi cần thiết; phải chịu khó nghe để hiểu họ, không được cáu gắt.
Gây hội chứng an thần kinh ác tính (NMS=Neuroleptic Malignant Syndrome): khi dùng thuốc TTPL liều cao, hay phối hợp chúng với các thuốc an thần kinh khác, với các thuốc làm trầm suy hệ thần kinh trung ương thì xảy ra hiện tượng “làm dịu” quá mức, “an thần kinh” quá mức hay gọi là hội chứng an thần kinh ác tính (NMS), NMS gồm 3 nhóm triệu chứng đặc trưng: biểu hiện về vận động và hành vi gồm: cứng cơ, loạn trương lực cơ, mất vận động, không nói, mù mờ về ý thức, kích động. 
Biểu hiện về rối loạn thần kinh thực vật gồm: sốt cao, đổ nhiều mồ hôi, mạch nhanh, huyết áp tăng. Biểu hiện về cận lâm sàng gồm: tăng bạch cầu, tăng enzyme gan, tăng enzyme CPK (creatininphosphokinase), có myoglobin trong máu nước tiểu, có thể kèm suy thận. Khi nặng thường có đủ các biểu hiện này; lúc mới khởi đầu hay khi nhẹ có thể không có đủ. 
NMS ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của hầu hết các cơ phận, đặc biệt là hệ tim mạch, hô hấp; dẫn tới đến tử vong với tỉ lệ rất cao khoảng 76% (1960); hiện nay dù có các phương pháp cấp cứu tốt hơn song vẫn còn ở mức 10 - 20%.Nhóm thuốc điển hình thường hay gây ra NMS hơn nhóm thuốc không điển hình.
Để tránh NMS, cần dùng thuốc tâm thần phân liệt với liều tối thiểu có hiệu lực, tránh phối hợp với các thuốc an thần kinh khác hay các thuốc làm trầm suy hệ thần kinh trung ương; nếu cần phối hợp thì phải có chỉ định của thầy thuốc, tính lại liều các thành phần chặt chẽ. Nguyên tắc dùng thuốc là khởi đầu liều thấp, sau mỗi vài ngày, mỗi tuần, mỗi vài tuần (tùy theo thuốc) tăng liều từng nấc cho đến khi đạt yêu cầu, rồi dùng liều duy trì.
Khi xảy ra NMS cần: ngừng ngay thuốc, đưa ngay đến nơi cấp cứu. Các biện pháp cấp cứu gồm: dùng các thuốc giảm sốt, kiểm tra thường xuyên dấu hiệu sinh tồn, cân bằng nước - chất điện giải, chức năng thận. Dùng thuốc chống Parkinson, dùng thuốc giãn cơ vân dantrolen (mỗi ngày 100 - 200mg, chia làm 4 lần dùng) có thể làm giảm được cứng cơ. Điều trị liên tục trong 4 - 5 ngày.
Gây mệt mỏi, hạ huyết áp, trụy mạch: thuốc tâm thần phân liệt gây ức chế thần kinh trung ương, gây ngủ lơ mơ, gây mệt mỏi, hạ huyết áp, trụy mạch. Nên cho người bệnh nằm khi tiêm liều cao (trong cấp cứu cơn cấp) nên nằm nghỉ (không đứng lên, đi lại, hoạt động) sau khi mới dùng thuốc uống hay tiêm.



Thứ Tư, 20 tháng 1, 2016

Thận trọng với các thuốc gây ra trạng thái trầm cảm

Có những thuốc thông thường gây ra trạng thái trầm cảm, cần có các giải pháp khắc phục thích hợp, đặc biệt đối với người bệnh đang dùng thuốc trầm cảm.
Nhóm thuốc chẹn beta:
Nhóm thuốc chẹn beta (atenolol, metoprolol, propranolol, carvediol, satolol) dùng chữa cao huyết áp, đau thắt ngực, điều hòa nhịp tim. Chúng có khả năng làm tăng trầm cảm. Lý do: nhóm thuốc này chặn sự hoạt động của beta adrenergic nên ức chế sự hoạt động của norepinephrin, một chất dẫn truyền thần kinh. Cách khắc phục: thay các thuốc chẹn beta adrenergic bằng các thuốc khác.
Nhóm thuốc corticoid:
Nhóm này gồm các thuốc dùng kháng viêm, chống dị ứng trong các bệnh về xương khớp, dùng chữa các bênh tự miễn như: lupus ban đỏ hệ thống. Lý do: corticoid làm giảm lượng serotonin một chất dẫn truyền thần kinh; do đó làm tăng trầm cảm. Biểu hiện gồm các triệu chứng đơn lẻ hay kết hợp. 
Ở người lớn: thay đổi tính tình, lo lắng, sợ hãi, kích thích, cáu bẳn, hưng phấn hay lãnh đạm, thờ ơ, mất ngủ, li bì. Ở trẻ em: hay có các rối loạn hành vi như: nói lắp, quấy khóc. Dùng ngắn ngày có xu hướng bị hưng cảm; dùng dài ngày có xu hướng bị trầm cảm. Có 20 - 63% số người lớn dùng corticoid kéo dài bị rối loạn này, trong đó 6% ở mức nặng. Rối loạn nhận thức gồm thiếu hụt về trí nhớ, ngôn ngữ, lời nói...
Giải pháp khắc phục: có thể thay thế bằng nhóm kháng viêm không steroid như aspirin diclofenac, bằng thuốc chống dị ứng, hay bằng các thuốc ức chế miễn dịch khác. Trong trường hợp cần phải dùng corticoid thì nên dùng các loại corticoid bán tổng hợp (prednisolon) với liều tối thiểu. Người trong trạng thái trầm cảm có hiệu lực chỉ không quá 10 ngày.
Nhiều loại thuốc có thể khiến người bệnh bị trầm cảm
Nếu phải dùng kéo dài (như trong một số bệnh tự miễn) thì chỉ dùng liều tối thiểu đạt được hiệu lực an toàn và dùng tách ra từng đợt cách quãng theo chỉ dẫn của thầy thuốc.
Nhóm benzodiazepin:
Nhóm thuốc thường dùng để an thần gây ngủ thư giãn cơ như: diazepam (seduxen), alprazolam (xanax), lorazepam (ativan), temazepam, triazolam. Chúng làm tăng trầm cảm. Lý do: khi vào gan chúng không được chuyển hóa hoàn toàn; riêng người lớn tuổi, do sức khỏe sút kém mà thiếu enzyme chuyển hóa; kết quả là benzodiazepin tích tụ lại gây độc. Một mặt khác, trong cơ thể có hệ GABA - Glutamic ở thế cân bằng động, trong đó Glutamic làm tăng các hoạt động kích thích, GABA làm tăng các hoạt động ức chế. Benzodiazepin làm tăng hoạt động ức chế của GABA, gây nên hiện tượng ức chế giống như trầm cảm.
Cách khắc phục: nếu người trầm cảm bị kích thích khó ngủ nên dùng các thuốc trầm cảm thuộc nhóm trầm cảm 3 vòng ( TCA) có tính an thần như: amitriptylin. Khi cần thiết có thể phối hợp thuốc trầm cảm TCA với benzodiazepin như diazepam nhưng với liều thấp, chỉ trong thời gian ngắn, lúc mới dùng TCA. Bình thường, với các trường hợp khác chỉ dùng benzodiazepin liều vừa đủ không dùng quá 10 ngày.
Nhóm thuốc kích thích thần kinh:
Nhóm này thường có methylphenidat (ritalin) modafinil (provigil) dùng điều trị chứng buồn ngủ quá mức ban ngày, buồn ngủ triền miên, ngủ rũ, chứng ngưng thở khi ngủ, chứng giảm tập trung tăng động (ADHD). Chúng làm tăng trầm cảm. Lý do: chúng tăng hoạt động của hệ dopaminergic gây ra dạng trầm cảm có tính loạn thần (nay còn gọi là tâm thần phân liệt) với các triệu chứng âm tính (với biểu hiện cảm xúc cùn mòn, tư duy nghèo nàn, ý chí suy đồi mất hứng thú, vô cảm, mất động lực…), gần giống như triệu chứng trầm cảm.
Cách khắc phục: trong trường hợp bị trầm cảm, giảm sút năng lượng tâm thần do sự suy giảm các chất dẫn truyền thần kinh trong synap xuống dưới ngưỡng sinh lý bình thường thì phải dùng loại thuốc làm phục hồi các chất này đến ngưỡng sinh lý như thuốc trầm cảm 3 vòng (TCA), thuốc ức chế thu hồi chọn lọc serotonin (SSRI) hay thuốc ức chế monoaminooxydase (MAOI) mà không được dùng các thuốc kích thích thần kinh.
Nhóm thuốc chữa rối loạn lipid máu statin:
Cholesterol là nguyên liệu tổng hợp nên các chất có cấu trúc sterol trong đó có các chất dẫn truyền thần kinh. Statin ức chế sự tổng hợp cholesterol chống rối loạn lipid máu cũng đồng thời làm giảm nguyên liệu tổng hợp chất dẫn truyền thần kinh. Khi thiếu hụt chất dẫn truyền thần kinh thì gây ra trầm cảm.
Cách khắc phục: để điều trị rối loạn lipid máu, cần dùng chế độ ăn thích hợp, dùng các thuốc khác kết hợp với statin để không phải dùng statin đơn liều cao. Chỉ dùng statin trong khung liều khuyến cáo (cho từng thuốc trong nhóm). Sự tổng hợp cholesterol xảy ra tại gan vào ban đêm, nên uống vào bữa tối cho hiệu quả cao hơn.
Người dùng thuốc cần chú ý gì?
Người bình thường, khỏe mạnh khi dùng các nhóm thuốc trên liều cao và/hoặc kéo dài thì có thể bị trạng thái trầm cảm nhưng khi giảm liều hoặc ngừng thuốc thì trạng thái trầm cảm ấy sẽ mất dần đi, không gây ra bệnh trầm cảm.
Người có sẵn các nguy cơ bị trầm cảm nếu dùng các thuốc này liều cao và/ hoặc kéo dài thì chúng sẽ làm tăng thêm nguy cơ, dễ xuất hiện bùng phát trầm cảm. Ví dụ: bị bệnh tự miễn, bênh xương khớp mạn kéo dài làm suy nhược lo âu chán nản, có sẵn nguy cơ trầm cảm; nếu lại dùng corticoid liều cao và / hoặc kéo dài sẽ dễ xuất hiện, bùng phát trầm cảm.
Người đã bị bênh trầm cảm thì không được dùng các nhóm thuốc này vì các thuốc làm mất tác dụng của thuốc trầm cảm đang dùng, gây nên trạng thái trầm cảm làm cho bệnh nặng thêm.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Sử dụng vitamin tan trong dầu có gì khác?

Nếu sử dụng bừa bãi, nó có thể gây ra những tác hại, bởi khi lượng cung cấp vượt quá nhu cầu thì có sự tích lũy trong cơ thể gây nên rối loạn do thừa vitamin.

Cũng như các loại vitamin khác, vitamin tan trong dầu rất cần thiết cho cơ thể. Tuy nhiên, nếu sử dụng bừa bãi, nó có thể gây ra những tác hại, bởi khi lượng cung cấp vượt quá nhu cầu thì có sự tích lũy trong cơ thể gây nên rối loạn do thừa vitamin. Vậy sử dụng loại vitamin này như thế nào cho đúng?
Nhu cầu vitamin tan trong dầu của mỗi người
Vitamin tan trong dầu bao gồm các loại vitamin A, vitamin D và vitamin E. Các loại vitamin này có đặc điểm hấp thu cùng với các chất dầu mỡ, vì vậy khi thiếu điều kiện này thì cơ thể không hấp thu được. Quá trình hấp thu đòi hỏi phải có acid mật làm chất nhũ hóa vì mỡ không tan được trong máu, để thuốc hấp thu tốt thì nên uống trong hoặc sau bữa ăn. 
Khi dùng quá liều, các vitamin này không thải trừ hết qua thận mà tích lũy chủ yếu ở gan và mô mỡ, do đó khi dùng liều cao và kéo dài sẽ gây độc tính, đặc biệt là vitamin A và D. Các vitamin này tương đối bền vững với nhiệt độ cao, do vậy chúng không bị phá hủy trong quá trình nấu nướng.
Nhu cầu hàng ngày về vitamin tan trong dầu đối với người bình thường phụ thuộc vào lứa tuổi. Với trẻ dưới 1 tuổi, nhu cầu vitamin A là 1.500IU/ngày, vitamin D là 400IU/ngày, vitamin E là 5IU/ngày; với trẻ từ 1 - 4 tuổi, nhu cầu vitamin A là 2.500IU/ngày, vitamin D là 400IU/ngày, vitamin E là 10IU/ngày; với trẻ trên 4 tuổi và người lớn, nhu cầu tương đương là 5.000IU/ngày, 400IU/ngày và 30IU/ngày.
Khi nào cần bổ sung?
Các vitamin luôn có sẵn trong ngũ cốc và thực phẩm, vì vậy đối với những người không có quá trình rối loạn hấp thu ở đường tiêu hóa (tiêu chảy, tắc mật, viêm tụy, loét dạ dày - tá tràng...) và không ăn kiêng, có chế độ ăn cân đối với thực phẩm đảm bảo chất lượng thì không nhất thiết phải bổ sung vitamin dưới dạng thuốc.
Khi thiếu vitamin nhẹ có thể điều trị bằng cách dùng chế độ ăn các thực phẩm có chứa nhiều vitamin. Vitamin A có nhiều trong gan cá thu, trứng, thịt, cá, sữa, gấc, cà chua, cà rốt và rau xanh. Vitamin D chủ yếu có trong thức ăn từ động vật: sữa, bơ, gan, trứng, thịt. Vitamin E có nhiều trong dầu thực vật: dầu cám, dầu lạc và trong các hạt nảy mầm, rau xanh; có một lượng nhỏ trong lòng đỏ trứng gà, gan...
Việc bổ sung vitamin dưới dạng thuốc chỉ khi thiếu trầm trọng hoặc trong trường hợp chưa có điều kiện sửa đổi lại chế độ ăn. Thường thì ít có hiện tượng thiếu đơn độc một chất, vì vậy việc bổ sung vitamin dưới dạng hỗn hợp có hiệu quả hơn khi dùng các chất đơn lẻ.
Điều gì sẽ xảy ra khi thừa vitamin tan trong dầu?
Nhóm vitamin tan trong dầu có thể gây ra tình trạng thừa vitamin nếu lạm dụng thuốc; hoặc một số ít trường hợp thừa vitamin cấp tính do ăn loại thức ăn có chứa lượng lớn vitamin tan trong dầu lớn như ăn gan gấu trắng, gan cá thu... Khi lượng vitamin dư thừa quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng ngộ độc thuốc. Tùy thuộc vào loại vitamin dư thừa mà có các biểu hiện lâm sàng khác nhau:
Sử dụng vitamin tan trong dầu có gì khác? 1
Thừa vitamin D gây tác hại khó lường
Vitamin A dùng thừa sẽ xuất hiện các triệu chứng: ngứa da vẩy nến, xung huyết ở da và các niêm mạc, tóc khô, xơ xác, dễ gãy, chán ăn, buồn nôn, giảm prothrombin, chảy máu và thiếu máu. Trẻ em dưới 4 tuổi thường xuyên uống vitamin A có hàm lượng hơn hoặc bằng 5.000IU/ngày có thể bị ngộ độc mạn tính với triệu chứng đau xương, ban đỏ, viêm da tróc vảy, viêm miệng... Nếu dùng liều vitamin A hơn hoặc bằng 100.000IU/ngày có thể gây phồng thóp, co giật, tăng áp lực sọ não. Phụ nữ có thai dùng kéo dài vitamin A hơn 5.000IU/ngày trong khi vẫn ăn uống đầy đủ và hấp thu tốt sẽ có nguy cơ thừa vitamin A, gây quái thai.
Dùng vitamin D liều cao dài ngày gây tích lũy thuốc, làm tăng canxi trong máu, gây mệt mỏi, chán ăn, nôn, tiêu chảy, đau nhức xương khớp. Ngoài ra có thể gây tổn thương thận, tăng huyết áp. Trẻ em dưới 1 tuổi được cho ăn bằng các hỗn hợp thay thế sữa mẹ có bổ sung vitamin D ở liều không thích hợp với lứa tuổi có thể bị thừa vitamin này. Việc bổ sung thường xuyên vitamin D với liều hơn 400IU/ngày cho trẻ dưới 1 tuổi có tình trạng sức khỏe bình thường sẽ làm tăng canxi trong máu, thậm chí còn có thể gây suy thận và tử vong.
Vitamin E dùng liều cao trên 3.000IU/ngày có thể gây rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, đầy hơi, tiêu chảy, đau đầu, chóng mặt, viêm ruột hoại tử. Tiêm vitamin E liều cao vào tĩnh mạch dễ gây tử vong.
Làm sao để không thừa vitamin?
Để tránh thừa vitamin tan trong dầu, trước hết cần thận trọng khi sử dụng các chế phẩm có hàm lượng lớn hơn 5 lần nhu cầu hàng ngày.
Khi dùng thuốc ở dạng hỗn hợp vitamin thì phải phân biệt các công thức dành cho trẻ em dưới 1 tuổi, cho trẻ dưới 4 tuổi và cho người lớn (tính từ 11 tuổi trở lên).
Đường đưa thuốc ưu tiên trong mọi trường hợp là đường uống. Đường tiêm chỉ dùng trong trường hợp không hấp thu được bằng đường tiêu hóa (nôn nhiều, tiêu chảy...) hoặc khi cần bổ sung gấp vi chất và trong nuôi dưỡng nhân tạo ngoài đường tiêu hóa.
Như vậy, không nên lạm dụng vitamin, đặc biệt là vitamin tan trong dầu. Tốt nhất nên tham khảo ý kiến và tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ khi dùng vitamin.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons