Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016

Uống thuốc không dễ như ta tưởng

Với thuốc loại uống, nhất là phải uống đôi ba lần trong ngày, người ta rất quan tâm đến thời điểm dùng thuốc, tức vào lúc nào trong ngày là tốt nhất cho việcuống thuốc. Nếu dùng thuốc không đúng lúc, thuốc và đồ ăn thức uống có thể gây tương tác bất lợi.
Nhiều loại thuốc, nhiều cách uống
Có rất nhiều thuốc không ảnh hưởng bởi thực phẩm, muốn uống lúc nào cũng được nhưng không phải tất cả các loại thuốc đều như vậy.
Trước hết, đồ ăn thức uống có thể làm thay đổi mức độ hấp thu của thuốc, làm cho thuốc có tác dụng nhanh hay chậm. Nếu uống thuốc vào lúc đói (trước khi ăn 1 giờ chẳng hạn), thời gian lưu thuốc tại dạ dày chỉ trong vòng vài chục phút thì tống xuống ruột ngay giúp thuốc được hấp thu khá nhanh. 
Trái lại, nếu thuốc uống ngay sau bữa ăn, thời gian lưu thuốc tại dạ dày sẽ lâu hơn, từ 1 đến 4 giờ làm ảnh hưởng đến sinh khả dụng của thuốc, tức thuốc được hấp thu chậm và kém, đưa đến tình trạng thuốc cho tác dụng chậm.
Dựa vào bữa ăn, có thể chia thuốc uống ra làm 4 loại: Loại nên uống vào lúc bụng no (uống ngay sau khi ăn), loại uống vào lúc bụng đói (uống trước khi ăn 1 giờ hoặc sau khi ăn 1-2 giờ), loại uống cùng với bữa ăn và loại uống tùy thuộc vào tính chất của từng loại thuốc.
Để biết lúc nào uống thuốc tốt nhất, người sử dụng thuốc nên tham khảo ý kiến bác sĩ, dược sĩẢnh: Tấn Thạnh
Để biết lúc nào uống thuốc tốt nhất, người sử dụng thuốc nên tham khảo ý kiến bác sĩ, dược sĩẢnh: Tấn Thạnh
Thuốc nên uống lúc bụng no
Một số kháng sinh kém bền với môi trường axít như ampicillin, erythromycin, lincomycin… nên uống vào lúc bụng no (nhờ thức ăn trung hòa axít ở dạ dày); nếu uống vào lúc bụng đói làm tăng khả năng phân hủy thuốc do môi trường có nhiều axít tại dạ dày. Aspirin và các thuốc chống viêm không steroid (NSAID, như diclofenac, ibuprofen…) nếu dùng dạng không bao bảo vệ niêm mạc dạ dày thì nên uống vào lúc bụng no để không hại dạ dày.
Thuốc nên uống lúc bụng đói
Có khá nhiều kháng sinh nên uống vào lúc bụng đói vì sẽ giúp hấp thu vào máu nhanh hơn để thuốc sớm cho tác dụng điều trị. Còn thuốc được bào chế dạng bao tan ở ruột (như Aspirin pH8) hay dạng phóng thích dược chất kéo dài (như Adalate LP) nên uống vào lúc bụng đói, tức để thuốc được đưa xuống ruột nhanh giúp màng bao viên thuốc không bị vỡ gây ảnh hưởng đến tác dụng thuốc.
Thuốc nên uống cùng với bữa ăn
Các thuốc tan nhiều trong dầu mỡ như vitamin A, D, E, K, kháng sinh kháng nấm griseofulvin nên uống cùng bữa ăn (ngay trước hoặc ngay sau bữa ăn cũng được) để nhờ chất béo của thức ăn, thức uống giúp thuốc hấp thu tốt hơn. Thuốc trợ tiêu hóa bổ sung enzyme tiêu hóa pancreatin (Festal, Neopeptine…) cũng nên uống cùng với bữa ăn (hoặc trước khi ăn 5-10 phút) để giúp tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
Cách uống tùy tính chất của thuốc
Vì mỗi loại thuốc có bản chất khác nhau nên không có quy luật chung về uống thuốc vào lúc nào cho tất cả các loại thuốc. Cũng như không có tài liệu nào trình bày đầy đủ cách uống thuốc cho mọi loại thuốc. Dùng thuốc lúc nào tùy vào sự hiểu biết về dược động học, dược lực học của từng loại thuốc cụ thể mà được áp dụng (thông thường bản hướng dẫn sử dụng thuốc có đề cập nhưng có khi không nói đến).
Ví dụ thứ nhất cho thấy cần uống thuốc trị khó tiêu domperidon 15-30 phút trước bữa ăn để cho thuốc có đủ thời gian hấp thu vào máu cho tác dụng trị chứng khó tiêu do dạ dày hoạt động không tốt. Bởi vì sau khi uống domperidom khoảng 30 phút thì thuốc mới vào được trong máu và đạt được nồng độ đỉnh trong huyết tương, tức khi đó thuốc mới cho tác dụng tốt nhất. Nếu ta uống thuốc sau bữa ăn và thời gian uống sau bữa ăn lại quá dài, domperidon không kịp phát huy tác dụng trị chứng khó tiêu đã phát sinh.
Ví dụ thứ hai cho thấy uống thuốc lúc nào không chỉ tùy thuộc vào tác dụng của thuốc mà còn tùy vào tác dụng phụ có hại của thuốc. Metformin là thuốc trị đái tháo đường type 2, nên uống sau bữa ăn vì metformin có tác dụng phụ gây rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy), nếu uống bụng trống dễ bị rối loạn tiêu hóa hơn (uống trước bữa ăn do bụng đói dễ bị nôn hơn).
Tóm lại, để biết lúc nào uống thuốc tốt nhất, người sử dụng thuốc nên tham khảo thông tin bằng cách hỏi bác sĩ chỉ định thuốc, dược sĩ nơi mua thuốc, nhất là đọc kỹ bảng hướng dẫn sử dụng thuốc. Nếu có yêu cầu về thời điểm đặc biệt dùng thuốc, bạn sẽ được hướng dẫn, còn nếu không thì uống thuốc lúc nào cũng được.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Chọn thuốc chống táo bón ở thai phụ

Folax là thuốc chống táo bón thuộc loại thuốc cao phân tử hút nước và làm trương nở phân. Các chất macrogol cao phân tử là những polymer dài thẳng trên đó các phân tử nước được gắn vào bằng những cầu nối hydro. Chúng làm tăng lượng nước trong ruột khi uống vào. Thể tích nước trong ruột không được hấp thu nên dung dịch có tính nhuận tràng. 

Do trọng lượng phân tử lớn, nên macrogol không bị hấp thu và cũng không bị chuyển hóa tại ống tiêu hóa. Do không được hấp thu và không chuyển hoá tại ống tiêu hoá nên đây là thuốc không ảnh hưởng đến thai nhi và trẻ nhỏ còn bú mẹ. 

Vì vậy, thuốc dùng an toàn cho phụ nữ có thai và bà mẹ cho con bú. Không nên dùng các thuốc kích thích trực tiếp nhu động ruột (bisacodyl) và các thuốc thụt tại chỗ.
Khi dùng forlax cần lưu ý, do thuốc sẽ hút nước làm cho khối phân to lên, kích thích vào đại tràng sích-ma làm cho dễ đi ngoài hơn, nên khi dùng các thuốc này phải uống với nhiều nước. Nếu không cung cấp đủ nước thuốc sẽ hút nước ở trong lòng ruột từ tế bào ra sẽ rất nguy hiểm.
Forlax có thể làm giảm hấp thu của các thuốc uống cùng lúc. Với bà mẹ mang thai thường phải uống bổ sung viên sắt và acid folic... nên phải uống forlax cách xa những thuốc khác ít nhất 2 giờ.
Nói chung, không nên dùng thuốc táo bón lâu dài mà chỉ dùng để phụ trợ cùng với việc điều chỉnh chế độ ăn uống vệ sinh thích hợp như thêm nhiều chất xơ của rau quả vào thức ăn, uống nhiều nước, hoạt động thân thể và tập thói quen đi cầu...



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

6 loại thuốc lạ sắp ra đời

Ngoài những loại dược phẩm truyền thống, con người còn cho ra đời cả những viên thuốc “xưa nay hiếm”, mang tính sáng tạo, cuộc cách mạng mới trong lĩnh vực dược phẩm, làm cho việc chữa bệnh cứu người thêm hiệu quả, hiện đang trong giai đoạn nghiên cứu, phát triển và thử nghiệm.
Viên thuốc tạo mùi nước hoa
1. Viên thuốc Insulin

Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh nội tiết, trong đó, tuyến tụy sản xuất quá nhiều hoặc quá ít insulin, không đủ điều tiết đường, thay vì biến đổi đường trong thực phẩm khi ăn vào thành năng lượng, nó lại đổ thẳng vào máu. 
Phương pháp điều trị hiện có mới chỉ dừng ở việc hiệu chỉnh insulin bằng cách tiêm hàng ngày và giám sát chặt chẽ đường huyết. Để hạn chế việc tiêm insulin gây đau, phiền hà, các nhà khoa học Israel đang nghiên cứu cho ra đời viên thuốc insulin.
Đây là bước đột phá, cung cấp những phân tử insulin lớn qua đường uống. Thuốc do hãng Oramed Pharmaceuticals, Israel sản xuất và qua thử nghiệm cho thấy rất hiệu quả trong việc điều tiết nồng độ insulin, thậm chí có thể bắt chước cơ chế tự nhiên của insulin trong cơ thể. Nó không chỉ là cuộc cách mạng trong việc dùng thuốc insulin chậm, mà còn có tác dụng làm giảm đáng kể việc lệ thuộc insulin của người bệnh.

2. Viên thuốc thay thế rượu

Việc uống rượu không ai cổ vũ bởi “hại nhiều hơn lợi”, nhưng thực tế thói quen này vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày, chưa kể khi quá chén gây ra nhiều hệ lụy. Nhằm hạn chế cơn say, các nhà khoa học Nga vừa chế ra viên thuốc mới, thuốc chống say rượu (Stay Sober Pill) mà người dùng không phải uống rượu. Cơ chế làm việc của viên thuốc này là cấp liều rượu dạng khô, hàm lượng cồn lên đến 96%, phù hợp với sở thích khi dùng mọi loại rượu khác nhau.

Ngoài viên thuốc nói trên, Đại học Yale, Mỹ hiện cũng đang thử nghiệm thuốc naloxone (từng được sử dụng để đảo ngược tác dụng của ma túy) để ngăn chặn những ảnh hưởng của rượu đối với cơ thể và giữ cho người dùng không say. Qua thử nghiệm trên loài gặm nhấm cho thấy có tác dụng tốt.
Viên thuốc hoạt động bằng cách cản trở tác động của rượu lên hệ thần kinh trung ương và não, loại bỏ mọi hiệu ứng bất lợi từ việc say gây ra. Những con chuột được tiêm trực tiếp một lượng lớn rượu sau đó cho uống naloxone mà không có dấu hiệu vận động giảm hoặc say. Tuy rất khả thi trong việc điều trị chứng nghiện rượu, nhưng các nhà khoa học cũng cảnh báo nguy cơ lạm dụng rượu, nhất là những người không biết kìm chế.

3. Thuốc giúp quên nỗi đau

Thuốc giúp quên nỗi đau (Forgetting Pill) là thế hệ dược phẩm mới hiện đang được các nhà khoa học phát triển, trên cơ sở dùng propranolol để xóa ký ức đau buồn trong não. Một nghiên cứu mới phát hiện thấy sự hiện diện của adrenaline có thể ảnh hưởng đến tốc độ lưu giữ ký ức đau buồn trong tâm trí con người.
Propranolol là một loại thuốc thường được sử dụng để giảm chứng tăng huyết áp, nhưng nó lại có tác dụng làm giảm lo âu. Bằng cách uống propranolol, adrenaline không thể “biến đưa” tới các dây thần kinh nên có khả năng thoát được ký ức xấu hằn sâu trong não bộ.
Thế hệ thuốc mới này vẫn đang trong giai đoạn phát triển, nhưng qua thử nghiệm cho thấy có thể làm giảm đáng kể, thậm chí ngăn ngừa được mọi dấu hiệu của bệnh PTSD (rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý) hoặc chấn thương tâm lý cho những người sau khi được dùng thuốc. Đặc biệt, không có tác dụng phụ được ghi nhận sau khi dùng thuốc trong suốt thời gian dài.

Tuy mang lại nhiều lợi thế, nhưng một số nhà phê bình lại cho rằng mặt trái của thuốc, những ký ức đau buồn là bài học quý cho những người trong cuộc, nhắc nhở họ cần tránh để khỏi vấp phải lần nữa. Còn nhóm ủng hộ thì cho rằng đây là dược phẩm “lợi là phần lớn”, giúp con người không phải phải sống chung với những ký ức đau thương mỗi ngày.

4. Viên thuốc bọc vàng

Viên thuốc bọc vàng (Golden Poop Pill) là dược phẩm rất lạ, bọc vàng 24 carat, ra đời theo ý tưởng của hai nghệ sĩ người Mỹ, Tobi Wong và Ken Courtney, một phần trong dự án nghệ thuật của hai người này. Viên thuốc này có thể biến chất thải của cơ thể... thành vàng theo nguyên lý, khi phá vỡ, các hạt vàng nhỏ li ti sẽ hòa vào chất thải tạo ra màu vàng thú vị.
Do được chế từ vàng nên giá không hề rẻ, 425 USD/viên (khoảng 9 triệu đồng), điều này có nghĩa, đường ruột của con người được bọc lót bằng vàng lá. Nhiều người cho rằng nếu chỉ mang tính nghệ thuật thì không nói làm gì, nhưng về mặt y học thì quả là lãng phí nếu không nói là vô dụng, đưa vàng xả xuống nhà vệ sinh.

5. Viên thuốc tạo mùi nước hoa

Viên thuốc tạo mùi nước hoa (Swallowable Perfume Pill), gọi tắt SPP, là sản phẩm khá mới mẻ, do nữ nghệ sĩ Lucy McRae người Australia tạo ra nhằm đánh bạt mùi bất nhã từ mô hôi của chính cơ thể Lucy. Trước khi ra đời viên thuốc này, Lucy đã qua nhiều lần thất bại, thuốc vỡ mà không phát ra bất kỳ mùi thơm nào, bởi vậy Lucy đã hợp tác với chuyên gia sinh học Sheref Mansy, ứng dụng quá trình tăng tiết mồ hôi tự nhiên của cơ thể làm phương tiện “mồi” thuốc, giúp đánh át mùi mồ hôi.
Hiện tại viên thuốc đang trong giai đoạn phát triển, hy vọng một ngày nào đó sẽ tạo ra một cuộc cách mạng mới trong y học và công nghiệp nước hoa. Đảm bảo mỗi người sẽ có một loại nước hoa riêng dựa trên đặc tính sinh học của từng cá thể. Chưa hết, do được bào chế dưới dạng thuốc viên, nên dễ sử dụng, biến mồ hôi thành mùi thơm lạ, giúp cuộc sống thăng hoa và làm tăng tính tự tin cho con người.

6. Viên thuốc PHMP theo dõi sức khỏe thai phụ và thai nhí

Viên thuốc giám sát sức khỏe thai nhi (Proteus Health Monitor Pill) hay PHMP được xem là dược phẩm thông minh, hữu ích, do Công ty Proteus, Mỹ bào chế, giúp bác sĩ quyết định việc dùng hay không dùng thuốc đối với phụ nữ thai kỳ, vấn đề nan y và quan trọng đối với phụ nữ giai đoạn mang thai. Việc ra đời thuốc PHMP được sự hỗ trợ của FDA, đây không chỉ là thuốc báo cho bác sĩ biết những việc cần làm mà còn đảm bảo sức khỏe tốt nhất cả mẹ lẫn bé, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực do thuốc gây ra.
PHMP có cơ chế hoạt hóa giống như viên thuốc nhận dạng Motorola (Authentication Pill Motorola). Theo đó, sau khi uống vào, thuốc sẽ hấp thụ và phát ra tín hiệu gửi đến điện thoại thông minh của bác sĩ để theo dõi và cập nhật về sức khỏe của phụ nữ khi mang thai.
Đây là bước nhảy vọt trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe con người, nhất là nhóm cần phải theo dõi liên tục. Viên thuốc còn cho biết nhịp tim, nhiệt độ, mức độ hô hấp và hoạt động thể chất của trẻ lẫn cơ thể người mẹ. Nhờ PHMP, bác sĩ có thể tư vấn, kê đơn những loại thuốc có lợi nhất cho phụ nữ, lẫn thời gian uống thích hợp nhất trong ngày.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Nguyên tắc dùng thuốc trị viêm gan virus B an toàn

Việt Nam là một trong 9 quốc gia khu vực Tây Thái Bình Dương có tỷ lệ nhiễm virus cao. Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B là khoảng 10% dân số.

Trước hết, cần phải hiểu một điều là hệ thống gan mật của y học hiện đại rất gần gũi với tạng can và phủ đởm của y học cổ truyền về cả phương diện sinh lý và bệnh lý nhưng không hoàn toàn đồng nhất. 

Bởi lẽ, cái gọi là tạng “Can” trong y học cổ truyền bao hàm cả một hệ thống các chức năng phong phú chứ không chỉ đơn thuần là vấn đề tiêu hoá, trong đó có cả chức năng thần kinh, nội tiết, sinh dục...
Nguyen tac dung thuoc tri viem gan virus B an toan
Ảnh minh họa
Vì vậy, để đạt được hiệu quả cao trong phòng bệnh cần tiến hành đối chiếu, lựa chọn các biện pháp cho thật sự phù hợp. Trên cơ sở thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng bệnh nói chung, theo y học cổ truyền, những người mang virus viêm gan B không có triệu chứng không nhất thiết phải dùng thuốc bởi vì nhiều khi không những không giải quyết được vấn đề gì mà thậm chí còn bắt gan phải làm việc nhiều hơn để giải độc và làm sạch dòng máu.
Tuy nhiên, trên thực tế lâm sàng có một số người tuy khám xét y học hiện đại không hề phát hiện thấy một dấu hiệu bệnh lý nào nhưng kết quả khám xét qua Tứ chẩn (vọng, văn, vấn, thiết) theo quan điểm của y học cổ truyền lại cho thấy những rối loạn bệnh lý khá sớm và rất tinh tế. Khi đó, việc dùng thuốc là hoàn toàn cần thiết và hợp lý nhưng vẫn phải tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu sau đây:
- Phải được các thầy thuốc y học cổ truyền khám xét tỉ mỉ, chẩn bệnh chính xác và kê đơn phù hợp.
- Tuyệt đối không vì quá lo lắng và thiếu hiểu biết mà tự ý hoặc nghe người không có kiến thức chuyên ngành sử dụng thuốc y học cổ truyền một cách tuỳ tiện, cẩu thả
Bởi vì, theo quan điểm của y học cổ truyền, bệnh lý của tạng can cũng rất phức tạp gồm: Có hư có thực, có hàn có nhiệt, ngay cả khi can hư yếu cũng phải phân biệt rạch ròi can khí hư, can huyết hư hay can dương hư... để trên cơ sở đó lựa chọn các vị thuốc và bài thuốc cho phù hợp nhằm đạt được hiệu quả trị liệu cao nhất, tránh được những tai biến không đáng có.
Ví dụ như can âm hư thì chất lưỡi phải đỏ, rêu lưỡi ít hoặc không có, mạch huyền tế (các chứng trạng này không thấy ở chứng can dương hư) và khi đó phải dùng các vị thuốc bổ can âm như sinh địa, bạch thược, ô mai... chứ không thể sử dụng các vị thuốc bổ can dương như nhục quế, xuyên tiêu, phụ tử...



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc giải rượu có thực sự lành?

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại “thuốc giải say”, lạm dụng điều này, nhiều người cứ tha hồ uống cho tới say rồi tống thuốc vào. Nhưng không phải ai cũng biết rằng, dùng như vậy rất nguy hại cho sức khỏe. 
Trung tâm chống độc BV Bạch Mai, Hà Nội từng tiếp nhận bệnh nhân nghiện rượu uống tới say xỉn rồi uống thuốc giải rượu phải đi cấp cứu. Có trường hợp mắc bệnh gan nhưng lạm dụng thuốc giải, coi đó như thần dược, dẫn tới suy gan phải nhập viện!
Các bác sĩ cũng khuyến cáo, thuốc giải rượu, bia không phải “thần dược” mà chỉ là thuốc hỗ trợ. Các viên giải rượu có mặt trên thị trường hiện nay thực chất không phải thuốc mà là một dạng thực phẩm chức năng, thành phần chủ yếu là đường, vitamin B1, B6, PP, acid glutamic, acid fumaric, acid succinic và cácenzyme. Nó có tác dụng tạm thời, hạn chế chuyển hóa nhanh rượu thành những chất không gây độc như CO2 và nước.
Không nên uống nhiều rượu, bia và lạm dụng thuốc giải rượu.Ảnh: TL
Rượu khi vào cơ thể sẽ xâm nhập các tế bào và chuyển hóa thành acetaldehyd, một chất gây ra các biểu hiện say rượu, ngộ độc rượu. Các thành phần trong viên giải rượu giúp giảm sự tạo thành acetaldehyd và đào thải nó ra khỏi cơ thể do tác dụng của enzyn chuyển hóa Succinic acid, Fumaric acid, L-gluthamine. 
Ai uống nhiều rượu, các viên giải rượu tạm thời này sẽ không thể hóa giải hết lượng rượu, lượng cồn trong rượu nên người uống vẫn say xỉn và ngộ độc.
Ở liều lượng cho phép, những chế phẩm như RU-21, ME-21, Mewol-21, Tylenol, Pamin, Decolgen… có thể giảm nhức đầu, sốt, đau nhức. Những loại thuốc trên làm cho người sử dụng dễ chịu và giữ lại lượng cồn, rượu trong ruột, tức là giữ chất độc lại trong cơ thể mà gan lại không thể lọc chất độc kịp. Hậu quả là gây tổn hại nghiêm trọng tới gan, gây xơ gan và ung thư gan.
Các bác sĩ cũng cảnh báo, dùng thường xuyên, quá liều, các loại thuốc giải rượu sẽ dẫn tới tăng các men gan như AST, ALT, gamma-GT, làm giảm chất bảo vệ gan, làm tăng tổng hợp acid béo và triglyceride trong tế bào gan, làm gan nhiễm mỡ; hoại tử tế bào gan; viêm loét đường tiêu hóa và tử vong.
Rượu, bia dù uống ít hay nhiều, đều là chất độc có khả năng phá hoại hầu hết các cơ quan trong cơ thể. Hai cơ quan chịu đựng nhiều nhất tác hại của rượu chính là hệ thần kinh trung ương và gan. 
Khi say lại uống thêm thuốc chắc chắn sẽ gây tương kỵ hoá học không tốt. Nếu phải uống bia, rượu, hãy uống vừa phải, biết điểm dừng. Không nên biến rượu, bia thành bạn hàng ngày. Tốt nhất khi say nên nghỉ ngơi, uống một số nước dân gian hay dùng để giải độc như nước chanh, nước sắn dây.
Sắn dây có vị ngọt, tính bình giúp giải cơ, thông đại tiểu tiện, làm ra mồ hôi, giải độc. Người bị say có thể giải rượu bằng cách cho uống nước vắt từ củ sắn dây thêm ít muối; hoặc dùng bột sắn dây khuấy với nước sôi, thêm ít muối để uống. Ngoài ra có thể dùng nước lá dong vắt uống. Đối với trường hợp mạn tính, có thể dùng trà hoa tam thất…



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Chọn dạng thuốc dùng cho trẻ em như thế nào?

Việc chọn dạng bào chế phải thích hợp với đặc điểm sinh lý trẻ em theo độ tuổi
Việc chọn dạng bào chế phải thích hợp với đặc điểm sinh lý trẻ em theo độ tuổi
Trẻ sơ sinh đến dưới 2 tuổi: Ở lứa tuổi này trẻ chưa có khả năng tự nhai, nuốt chửng thuốc viên, không chịu được mùi vị lạ. Lúc này trẻ chỉ có thể dùng dạng thuốc giọt, dạng dung dịch, dạng sirô (pha loãng) hay dạng thuốc bột có thể hòa trong nước thành dung dich. 
Ví dụ, trẻ hay bị giật mình do thiếu canxi phải dùng dạng vitamin D2 dưới dạng thuốc giọt (như sterogyl), thuốc chứa canxi dạng viên tan sủi bọt, hay dạng siro (calcium sandor), trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp phải dùng gói bột (agumentin = amixicilin + clavulanic) tan được trong nước.
Trẻ dưới 2 tuổi việc hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa rất thất thường, khi dùng kháng sinh penicilin, erythromycin thì sự hấp thu tăng lên nhưng khi dùng chloramphenicol thì sự hấp thu bị giảm xuống. Trong một số trường hợp phải dùng đường tiêm cho sự hấp thu thuốc được ổn định.
Trẻ trên 2 tuổi đến dưới 7 tuổi: Trẻ có thể dùng được các loại viên nén như người lớn nhưng liều lượng dùng của trẻ dưới 7 tuổi thường dưới 1/2, trẻ 3 tuổi thì chỉ 1/3 liều người lớn. Do đó phải phải chọn loại có hàm lượng nhỏ để trẻ có thể dùng nguyên viên. 
Ví dụ, nếu trẻ sốt thì nên cho paracetamol có hàm lượng 100mg mà không nên dùng loại có hàm lượng 500mg. Trẻ dưới 7 tuổi đặc biệt là trẻ dưới 3 tuổi chưa có thói quen nuốt chửng viên thuốc, cố gắng tránh cho trẻ dùng viên nang, nếu phải dùng thì chọn loại có hàm lượng nhỏ. 
Trong viên nang thường có mùi vị khó chịu (ví dụ như viên nang chlorocid). Nhiều bà mẹ không chú ý điều này bóc viên nang ra nghiền với đường cho trẻ uống, trẻ không chịu uống, lại cố bịt mũi trẻ đổ thuốc vào miệng, rất dễ bị sặc, nguy hiểm.
Trẻ từ 7 tuổi trở lên: Thường dùng liều nhỏ hơn nhưng tối thiểu cũng bằng 1/2 liều người lớn. Khi không có viên nén loại hàm lượng nhỏ có thể dùng loại viên nén có hàm lượng lớn vì một số viên có rãnh chia hai hay chia bốn ở giữa có thể bẻ ra khá dễ dàng. 
Loại viên nén bọc đường hay loại nang bên trong thường chứa hoạt chất có mùi vị khó chịu không thể bẻ đôi ra dùng mà nên chọn loại viên có hàm lượng nhỏ để dùng nguyên viên. 
Có những loại viên hoạt chất đã phủ các loại chất để chỉ tan trong ruột hoặc bào chế đặc biệt để có tác dụng kéo dài, đòi hỏi khi dùng không được bẻ ra, không được nhai thì cũng sẽ không chia được, vì khi bẻ ra chia thì thuốc không còn giữ được tính chất như đã đặt ra lúc bào chế.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc bảo vệ mắt, bổ mắt: Không được dùng tùy tiện

Hiện nay, nhiều người dùng các thuốc nhỏ mắt, thuốc uống với mục đích bổ mắt và phòng bệnh mà chưa biết được hiệu quả thực của các thuốc này như thế nào.

Thuốc nhỏ chống khô, ngứa mắt
Một loại thuốc nhỏ mắt được nhiều người tin dùng hàng ngày đó là nước muối sinh lý (NaCl 0,9%), do thuốc chỉ chứa muối NaCl với nồng độ giống như nước mắt nhằm đạt độ đẳng trương làm dịu mắt, cung cấp nước cho mắt bị khô và làm sạch mắt. 
Tuy nhiên cũng không nên dùng NaCl 0,9% thường xuyên hàng ngày trong thời gian dài. Khi đã mở lọ thuốc ra chỉ nên dùng trong vòng 15 ngày, sau thời gian đó thuốc có nguy cơ không còn đạt được độ vô khuẩn. Vì vậy khi nhỏ mắt sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn yếm khí hoặc vi nấm phát triển và gây bệnh ở mắt. 
Thực ra nếu mắt đang bình thường, không có gì khác thường (ngứa, đỏ mắt..) thì không nên dùng thuốc nhỏ mắt (bất cứ loại thuốc nào) để nhỏ vào mắt. Chỉ khi nào làm việc bằng mắt nhiều, cảm thấy mỏi mắt, khô mắt hoặc khi tiếp xúc với môi trường có nhiều bụi, thì có thể nhỏ mắt bằng nước muối sinh lý để làm sạch mắt.
Nên đi khám khi thấy có bất thường tại mắt
Một số người dùng thuốc nhỏ mắt có chứa thêm chất làm tăng độ nhầy, chống khô mắt. Các thuốc này thực ra không phải là thuốc nhỏ để dưỡng mắt mà còn được gọi là “nước mắt nhân tạo”. 
Trong “nước mắt nhân tạo” có chứa các chất tăng độ nhầy gọi chung là hydrogel (một số loại hydrogel thường gặp: hydroxypropyl methylcellulose, carboxy methylcellulose, hyaluronic acid...), là thành phần chính để tăng độ nhầy, giúp nước mắt nhân tạo lưu giữ lâu hơn trên bề mặt nhãn cầu. Việc này lại càng không cần thiết bởi mắt luôn luôn có nước mắt tiết ra tạo lớp phim mỏng bảo vệ mắt. 
Nước mắt nhân tạo được kê đơn trong những trường hợp có bệnh lý làm cho mắt bị khô, không tiết đủ nước mắt, nên mắt không có đủ độ trơn nhầy. Còn với mắt bình thường, lượng nước mắt luôn được tiết ra đủ để bảo vệ  mắt thì việc dùng nước mắt nhân tạo là thừa.
Khi nhỏ mắt bằng thuốc nhỏ mắt để rửa mắt, làm dịu mắt hoặc dùng “nước mắt nhân tạo” để chống khô mắt cũng cần lưu ý, nhỏ mắt một thời gian thấy cải thiện thì ngưng, chỉ khi nào triệu chứng mỏi mắt, khô mắt tái phát mới dùng các thuốc này trở lại. 
Đừng lạm dụng “nước mắt nhân tạo” chỉ vì tưởng lầm đó là thuốc bổ mắt dùng sao cũng được. Khi dùng loại thuốc này vẫn có thể bị tác dụng phụ như kích ứng làm ngứa mắt, nóng rát, xốn mắt, dị ứng gây đỏ mắt, sung huyết kết mạc, viêm bờ mi... Nếu nhỏ thuốc mà bị các rối loạn vừa kể phải ngưng ngay và đi khám.
Để bảo vệ hoặc phòng các bệnh ở mắt, một số người còn rỉ tai nhau mua những loại thuốc nhỏ mắt chứa kháng sinh (chloramphenicol, polymyxin B và neomycin) hoặc loại thuốc phối hợp kháng sinh và corticoid về tra, nhỏ. Việc này thực chất là lạm dụng thuốc vì kháng sinh nhỏ mắt chỉ có tác dụng khi mắt bị nhiễm khuẩn (đau mắt đỏ, viêm giác mạc, viêm mi mắt...), chứ không có tác dụng phòng bệnh. 
Hơn nữa, corticoid là chất kháng viêm rất mạnh, dùng đúng chỉ định sẽ đem lại kết quả tốt trong điều trị, còn sử dụng không đúng, lạm dụng thuốc sẽ gây biến chứng rất nghiêm trọng. Trường hợp bệnh nhân bị viêm loét giác mạc do nấm hay herpes, nếu nhỏ corticoid sẽ làm bệnh bùng phát và nặng thêm, gây biến chứng thủng giác mạc. Trong trường hợp sử dụng kéo dài sẽ gây đục thủy tinh thể (cườm khô) và tăng nhãn áp (cườm nước) dẫn đến giảm thị lực, thậm chí mù mắt vĩnh viễn.
Thuốc bổ mắt không có tác dụng chữa bệnh
Hiện nay, có khá nhiều loại thuốc bổ mắt dạng viên uống được quảng bá rộng rãi với nhiều tác dụng như: giúp sáng mắt, chống khô mắt, nhìn mờ, phòng ngừa các bệnh như đục thủy tinh thể, giảm thị lực... Thực chất thành phần chính trong các thuốc bổ mắt kể trên chứa các vitamin như: vitamin A, vitamin E, vitamin C, một số vitamin nhóm B, lutein, zeaxanthin... Đây là những chế phẩm hỗ trợ dinh dưỡng cho mắt chứ không có tác dụng chữa bệnh, phòng bệnh. Thậm chí có người còn cho con dùng như một giải pháp để phòng bệnh cận thị. 
Thật ra, không có loại thuốc bổ mắt nào có thể ngăn ngừa được bệnh cận thị và ngay cả những người đã bị cận rồi mà uống thuốc bổ mắt cũng không thể làm mắt sáng hơn được. Dù nhiều loại thuốc bổ mắt ghi rõ ngăn ngừa và điều trị bệnh đục thủy tinh thể, nhưng xem kỹ các thành phần của thuốc không hề có tác dụng phòng ngừa bệnh này.
Lời khuyên của thầy thuốc
Việc chăm sóc mắt hàng ngày là rất cần thiết cho mọi người. Nếu làm việc với máy tính, giảm ánh sáng và sự chiếu sáng của màn hình hoặc đeo kính bảo vệ mắt. Cho mắt nghỉ ngơi sau mỗi 30 phút làm việc. Chớp mắt thường xuyên hơn khi đang làm việc để mắt khỏi khô. Đeo kính râm khi ra nắng gay gắt. Đặc biệt cung cấp đầy đủ dưỡng chất qua thực phẩm hàng ngày để nuôi dưỡng cho mắt sáng khỏe từ bên trong. 
Nên ăn nhiều rau, trái cây tươi là cách tốt nhất bổ sung vitamin và chất khoáng thiên nhiên cần thiết, đặc biệt là các dưỡng chất có tác dụng chống ôxy hóa. Cần khám mắt ở bác sĩ chuyên khoa khi phát hiện có những bất thường, không tự ý dùng thuốc nhỏ mắt ngay cả thuốc uống bổ mắt khi không hiểu rõ về tác dụng và chất lượng của thuốc.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons