This is featured post 1 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 2 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 3 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016
Hạn chế dùng 15 chất ma túy trong y tế
Chủ Nhật, tháng 1 03, 2016
sống khỏe
No comments
Chính phủ vừa ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Danh mục các chất ma túy và tiền chất. Theo đó, bổ sung 15 chất vào Danh mục II “Các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền” gồm: 25B-NBOMe; 25C-NBOMe; 25I-NBOMe; 2C-H; 5-Meo-DiPT; 5-MeO-MiPT; AH-7921; AM-2201; JWH-018; JWH-073; JWH-250; MDPV; Mephedrone; Methylone; XLR-11.
Bên cạnh đó, bổ sung 2 chất: Alpha-phenyl acetoacetonitrile (APAAN) và Gamma-butyro lactone (GBL) vào Danh mục IV "Các tiền chất".
Nghị định sửa đổi cũng sửa tên Danh mục III thành "Các chất ma túy" (quy định cũ là các chất hướng thần) được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Người cao tuổi dùng thuốc kháng sinh thế nào?
Chủ Nhật, tháng 1 03, 2016
sống khỏe
No comments
Dùng kháng sinh cho người cao tuổi phải hết sức thận trọng. Ở hầu hết người cao tuổi, mọi chức năng của cơ thể đều bị suy giảm dần theo năm tháng, kể cả hệ thống miễn dịch.
Trong suốt cuộc đời người nào cũng có ít nhiều đợt bị nhiễm khuẩn dù nặng hay nhẹ và mỗi lần như vậy có thể phải dùng một loại kháng sinh nào đó, đến khi đã có tuổi mà mắc bệnh phải dùng lại thì có nhiều loại kháng sinh sẽ mất hoặc giảm hẳn tác dụng (chưa kể có khi còn gây nguy hiểm), nhất là tình trạng sức khỏe, khả năng đáp ứng của cơ thể không được như lúc còn trai tráng.
Những trở ngại
Do đặc điểm sinh lý cơ thể của người cao tuổi cho nên có nhiều điều bất lợi khi người cao tuổi dùng thuốc kháng sinh. Khi dùng thuốc kháng sinh bằng đường uống, khả năng hấp thu thuốc ở đường tiêu hóa giảm làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị (bệnh khỏi chậm hoặc không khỏi).
Mức độ hấp thu giảm nhiều hay ít còn tùy thuộc vào mức độ lão hóa của từng người. Mức độ gắn protein vào huyết tương cũng giảm. Khi kháng sinh gắn vào protein huyết tương giảm làm xuất hiện hiện tượng kháng sinh lưu hành dưới dạng tự do và sẽ gây độc cho cơ thể.
Sự phân phối thuốc kháng sinh trong cơ thể người cao tuổi cũng có nhiều thay đổi, hiện tượng này tùy thuộc vào tính chất của từng loại thuốc kháng sinh và trạng thái bệnh lý của từng người. Ví dụ khi người cao tuổi bị viêm thận mà dùng gentamicin thì thuốc sẽ gắn nhiều vào hồng cầu làm lượng gentamicin tăng cao trong huyết tương có thể gây thiếu máu và một số tai biến khác.
Việc đào thải thuốc kháng sinh qua đường thận cũng sẽ giảm, nhất là các loại thuốc thuộc nhóm beta-lactam, amynoglycoside, sulfamide, co-trimoxazol... do người cao tuổi có hiện tượng suy giảm nephron kéo theo suy giảm chức năng của thận.
Dùng kháng sinh cho người cao tuổi phải hết sức thận trọng
Ngoài ra, ở người cao tuổi thường hay bị thiếu vitamin K. Loại vitamin này thường do một số tạp khuẩn đường ruột tổng hợp nên nhưng do dùng các thuốc kháng sinh đào thải qua đường tiêu hóa sẽ tiêu diệt một số vi khuẩn sinh vitamin K làm cho người cao tuổi thiếu đi một lượng vitamin K, giảm kali máu, đặc biệt là những người dùng thuốc nhuận tràng kéo dài.
Mặt khác một số vi khuẩn đường ruột có khả năng giáng hóa digoxin ở ống tiêu hóa, nếu dùng kháng sinh đào thải qua đường ruột quá nhiều sẽ làm tăng hấp thu digoxin và làm cho nồng độ digoxin trong huyết tương tăng cao nên độc tính cũng tăng theo. Một số thuốc có ảnh hưởng đến chức năng của gan như sulfamid, lincomycin, clindamycin, nhóm quinolon khi dùng cho người cao tuổi có chẩn đoán bị suy gan thì nên thận trọng.
Những loại kháng sinh cần lưu ý khi sử dụng
Một số kháng sinh có chứa Na+, K+ tuy hàm lượng thấp nhưng do dùng liều cao và thời gian dài như carboxypenicillin, penicillin có thể gây độc cho người bệnh. Nhóm aminoglycoside gây độc cho thận, cơ quan thính giác nên khi dùng cho người cao tuổi phải được theo dõi cẩn thận.
Một số thuốc kháng sinh như carbenicillin, colistin có khả năng làm giảm kali máu cho nên cần thận trọng khi dùng kết hợp với các thuốc nhuận tràng, thuốc lợi tiểu, thuốc glycoside trợ tim... Nên hạn chế dùng (hoặc chỉ dùng khi thật cần thiết) đối với nhóm chloramphenicol, rifamicin, nitrofurantoin.
Khi nào dùng thuốc?
Trong mọi trường hợp kháng sinh chỉ được dùng khi người thầy thuốc khám bệnh xác định là có bệnh nhiễm trùng bởi vi khuẩn hoặc mắc bệnh nhiễm virut nhưng có bội nhiễm vi khuẩn. Việc dùng kháng sinh nào là hoàn toàn do bác sĩ khám bệnh quyết định trên cơ sở biết được chắc chắn vi khuẩn gì, kết quả của thực nghiệm kháng sinh đồ là điều lý tưởng nhất, nếu không sẽ dựa vào phác đồ điều trị của Bộ Y tế ban hành (bởi vì mỗi cơ thể và mỗi một bệnh nhiễm khuẩn có thể dùng một loại kháng sinh khác nhau).
Để hạn chế vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh ngay từ đầu nên dùng kháng sinh phổ hẹp. Để tránh xảy ra hiện tượng dị ứng nên hỏi kỹ người bệnh về tiền sử sử dụng thuốc kháng sinh và cho làm phản ứng trước lúc sử dụng. Nên dùng kháng sinh sớm khi đã có chẩn đoán lâm sàng. Nên tránh các thuốc kháng sinh có ảnh hưởng đến chức năng của thận, nếu bắt buộc phải dùng thì cần giảm liêu.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
4 bệnh không nên dùng thuốc kháng sinh
Chủ Nhật, tháng 1 03, 2016
sống khỏe
No comments
Khi bị ốm, chúng ta muốn nhanh chóng khỏi bệnh nên thường dùng kháng sinh. Tuy vậy, kháng sinh chỉ chống lại vi khuẩn mà căn bệnh của bạn chưa chắc đã đến từ cùng một nguyên nhân. "Khi đó bạn sẽ nạp vào cơ thể lượng chất hóa học không cần thiết", giáo sư Jeffrey Linder từ Đại học Harvard (Mỹ) cho biết. "Điều này không giúp bạn mà chắc chắn sẽ gây hậu quả".
Thuốc kháng sinh không phải lúc nào cũng tốt. Ảnh: Men's Health.
|
Lạm dụng thuốc kháng sinh có thể dẫn đến một loạt các tác dụng phụ như phát ban, phản ứng dị ứng, vi khuẩn clostridium difficile sinh sôi quá mức. Tệ hơn, các vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh có thể được kích thích tăng tưởng khiến thuốc không còn tác dụng khi bạn thực sự cần đến.
Vì những lý do trên, trước khi dùng thuốc, hãy cân nhắc kỹ và tham khảo 4 chứng bệnh không nên dùng kháng sinh do Men's Health liệt kê.
Viêm họng
Hẳn đây là lý do phổ biến nhất khiến chúng ta dùng kháng sinh. Tuy vậy, viêm họng thường do virus chứ không phải vi khuẩn, có nghĩa kháng sinh vô tác dụng.
Cách điều trị hiệu quả viêm họng do virus là nghỉ ngơi đầy đủ, uống nhiều nước và dùng thuốc chống viêm như ibuprofen. Thời gian khỏi bệnh trung bình là sau 5-6 ngày. Nếu lo lắng chứng viêm họng của mình do vi khuẩn, bạn có thể đề nghị bác sĩ xét nghiệm liên cầu khuẩn.
Áp xe da
Áp xe da dẫn đến những vết mủ nhiễm trùng đau đớn. Bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn nhưng không nhất thiết phải dùng thuốc kháng sinh.
Cách điều trị áp xe đơn giản nhất là các bác sĩ rạch một đường rồi dùng dụng cụ lấy mủ ra ngoài. Chỉ nên dùng thuốc kháng sinh trong trường hợp vết áp xe tiếp tục mở rộng hoặc vùng da xung quanh sưng, đỏ lên.
Đừng vội dùng kháng sinh khi bị nhiễm trùng xoang. Ảnh: Men's Health
|
Nhiễm trùng xoang
Hầu hết mọi người đều trải qua thời gian nghẹt mũi và đau vùng mặt do nhiễm trùng xoang. Căn bệnh này chủ yếu do virus gây ra nhưng lại hay được kê thuốc kháng sinh.
Bạn hoàn toàn có thể điều trị xoang ở nhà bằng cách dùng ibuprofen hoặc acetaminophen để giảm đau, hạ sốt kèm thuốc thông mũi. Bạn cũng có thể dùng thuốc xịt mũi trong 5 ngày.
Nếu bị sốt cao và đau sâu trong vùng xoang ngay từ khi mới đổ bệnh hoặc kéo dài từ 10 ngày trở lên, bạn hãy đi khám bác sĩ.
Đau răng
Theo nghiên cứu của tờ British Dental Journal, 74% bệnh nhân đến nha sĩ với lý do đau răng được kê thuốc kháng sinh. Tuy nhiên các chuyên gia cho rằng các biện pháp tại chỗ như trám bít hố rãnh bằng sealant hoặc hàn răng là đủ để giúp bạn.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Cách dùng thuốc trị mũi họng dạng xịt
Chủ Nhật, tháng 1 03, 2016
sống khỏe
No comments
Hiện nay trên thị trường các thuốc trị bệnh ở mũi họng ngoài dạng uống, dạng tiêm còn có thuốc ở dạng xịt. Một số thuốc thường gặp như thuốc làm co mạch (làm thông mũi khi bị ngạt mũi), thuốc chứa corticoid trị viêm mũi, viêm xoang...
Các thuốc ở dạng phun mù này được dùng khá phổ biến. Tuy nhiên, người bệnh cần phải biết cách dùng đúng mới đạt hiệu quả điều trị để tránh hoặc hạn chế các tai biến do thuốc gây ra.
Bình xịt định liều
Nguyên tắc chung khi dùng các loại thuốc ở dạng này là khi bấm nút, thuốc sẽ được phun ra dưới dạng các hạt thuốc nhỏ li ti. Các hạt thuốc này sẽ vào sâu được trong hốc mũi, các xoang, đường hô hấp dưới...
Cách dùng: Bấm nút xịt để luồng thuốc phun ra, khi hít vào thở đều chừng 30 giây sau đó xịt lần thứ hai (nếu cần). Có hai loại bình phun (xịt): loại có van định liều và loại phun liên tục.
Với loại bình có van định liều, khi bấm nút mở van thuốc được đẩy ra với một liều lượng xác định và số lần ấn nút được tính theo liều lượng cần điều trị. Đối với loại bình này thường là chứa thuốc corticoid trị các bệnh viêm mũi, viêm xoang...
Thuốc được dùng theo chỉ định của bác sĩ. Người bệnh cần tuân thủ tuyệt đối về liều lượng, số lần dùng trong ngày và thời gian dùng (liệu trình điều trị). Nói chung đối với loại thuốc này không nên xịt nhiều lần trong ngày.
Trường hợp phải xịt trong thời gian dài, liên tục cần phải theo dõi, cân nhắc tới tác động toàn thân của corticoid như khi uống hoặc tiêm. Bởi corticoid có nhiều tác dụng phụ nguy hiểm như: gây tăng huyết áp, gây giữ nước, muối, gây béo giả, đái tháo đường, loãng xương... nhất là đối với người có tiền sử các bệnh trên.
Với các thuốc xịt gây co mạch không nên xịt liên tiếp nhiều lần và dùng lâu dài vì có thể gây viêm mũi do thuốc, việc chữa trị sẽ rất khó khăn.
Đối với loại bình không có van định liều khi bấm nút mở van thuốc được phun ra liên tục và chỉ ngừng khi ta bỏ tay, nút bấm sẽ trở về vị trí cũ và van đóng lại. Tuy nhiên không nên xịt liền 4 cái và mỗi ngày chỉ xịt chỉ nên từ 1- 4 lần.
Trường hợp trong khi xịt thuốc gây sặc, ho hoặc hắt hơi, người bệnh nên ngừng vài phút rồi mới xịt tiếp. Để thuốc đạt hiệu quả cao, trước khi xịt nên súc họng hay xì và hút sạch mũi để thuốc tới được niêm mạc.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Cẩn trọng khi dùng thuốc điều trị tăng huyết áp
Chủ Nhật, tháng 1 03, 2016
sống khỏe
No comments
Một mục tiêu của việc điều trị cao huyết áp, trong đó có dùng thuốc, là đưa huyết áp về dưới 130/85mmHg, đối với người bệnh tuổi trung niên hoặc có bệnh đái tháo đường; hoặc đưa huyết áp về dưới 140/90mmHg ở người từ 60 tuổi trở lên.
Theo Tổ chức Y Tế thế giới (WHO), số huyết áp tốt nhất là 120/80mmHg, số 120 là số huyết áp trên và 80 là số dưới. Bị cao huyết áp khi 2 số trên dưới cao hơn 140/90 mmHg.
6 nhóm thuốc thường dùng để điều trị tăng huyết áp
Nhóm thuốc lợi tiểu:
Gồm có hydroclorothiazid, indapamid, furosemid, sprironolacton, amilorid, triamteren… Cơ chế của thuốc là làm giảm sự ứ nước trong cơ thể, tức làm giảm sức cản của mạch ngoại vi đưa đến làm hạ huyết áp. Dùng đơn độc khi bị cao huyết áp nhẹ, dùng phối hợp với thuốc khác khi bệnh cao huyếp áp nặng thêm.
Nhóm thuốc tác động lên thần kinh trung ương:
Gồm có reserpin, methyldopa, clonidin… Cơ chế của thuốc là hoạt hóa một số tế bào thần kinh gây hạ huyết áp. Hiện nay ít dùng do tác dụng phụ gây trầm cảm, khi ngừng thuốc đột ngột sẽ làm tăng vọt huyết áp.
Nhóm thuốc chẹn beta:
Gồm có propranolol, pindolol, nadolol, timolol, metoprolol, atenolol… Cơ chế của thuốc là ức chế thụ thể beta-giao cảm ở tim, mạch ngoại vi, do đó làm chậm nhịp tim và hạ huyết áp. Thuốc dùng thuốc cho bệnh nhân có kèm đau thắt ngực hoặc nhức nửa đầu. Chống chỉ định đối với người có kèm hen suyễn, suy tim, nhịp tim chậm.
Nhóm thuốc đối kháng canxi:
Gồm có nifedipin, nicardipin, amlodipin, felidipin, isradipin, verapamil, diltiazem… Cơ chế của thuốc là chặn dòng ion canxi không cho đi vào tế bào cơ trơn của các mạch máu gây giãn mạch và từ đó làm hạ huyết áp. Dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt ngực, hiệu quả đối với bệnh nhân cao tuổi, không ảnh hưởng đến chuyển hóa đường, mỡ trong cơ thể.
Người bị huyết áp cao không tự ý ngưng thuốc
Nhóm thuốc ức chế men chuyển:
Gồm có captopril, enalapril, benazepril, lisinopril…, cơ chế của thuốc là ức chế một enzyme có tên là men chuyển angiotensin (angiotensin converting enzyme, viết tắt ACE). Chính nhờ men chuyển angiotensic xúc tác mà chất sinh học angiotensin
I biến thành angiotensin II và chính chất sau này gây co thắt mạch làm tăng huyết áp (THA). Nếu men chuyển ACE bị thuốc ức chế tức làm cho không hoạt động được sẽ không sinh ra angiotensin II, sẽ có hiện tượng giãn mạch và làm hạ huyết áp. Là thuốc được chọn khi người bị kèm hen suyễn (chống chỉ định với chẹn beta), đái tháo đường (lợi tiểu, chẹn beta). Tác dụng phụ: làm tăng kali huyết và gây ho khan.
Nhóm thuốc đối kháng thụ thể angiotensin II
Thuốc đầu tiên được dùng là losartan, sau đó là các thuốc irbesartan, candesartan, valsartan. Nhóm thuốc mới này có tác dụng hạ huyết áp, đưa huyết áp về trị số bình thường tương đương với các thuốc nhóm đối kháng calci, chẹn beta, ức chế men chuyển. Đặc biệt, tác dụng hạ huyết áp của chúng tốt hơn nếu phối hợp với thuốc lợi tiểu thiazid.
Lợi điểm của thuốc nhóm này là do không trực tiếp ức chế men chuyển nên gần như không gây ho khan như nhóm ức chế men chuyển hay không gây phù như thuốc đối kháng canxi. Tác dụng phụ có thể gặp là gây chóng mặt, hoặc rất hiếm là gây tiêu chảy. Chống chỉ định của thuốc là không dùng cho phụ nữ có thai hoặc người bị dị ứng với thuốc.
Dùng thuốc điều trị cao huyết áp phải có chỉ định của bác sĩ
Các thuốc thuộc các nhóm kể ở trên hiện nay đều có ở nước ta. Để được điều trị bằng thuốc, người bệnh cần đi khám và được bác sĩ điều trị chỉ định, hướng dẫn sử dụng thuốc. Bởi vì bác sĩ nắm vững tính năng các thuốc, khám bệnh trực tiếp sẽ lựa chọn thuốc thích hợp và hướng dẫn thực hiện các nguyên tắc dùng thuốc.
Sự lựa chọn thuốc trị tăng huyết áp sẽ tùy thuộc vào: yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch, có sự tổn thương các cơ quan (như: suy thận, suy tim, dày thất trái…), có kèm bị bệnh đái tháo đường… Đặc biệt, bác sĩ sẽ giúp tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Trước hết, dùng liều thấp ban đầu và tăng liều dần dần với chỉ một loại thuốc.
- Nếu không hiệu quả, mới kết hợp 2 thuốc.
- Nếu thuốc được chọn đầu tiên có hiệu quả kém và có nhiều tác dụng phụ thì đổi nhóm thuốc khác, không cần tăng liều hoặc kết hợp thêm thuốc thứ 2.
- Nên dùng loại thuốc cho tác dụng kéo dài, uống một lần trong ngày.
Người bệnh có nên tự ý đổi thuốc?
Như đã trình bày ở phần trên, thuốc trị THA có nhiều loại và vấn đề sử dụng thuốc không đơn giản mà khá phức tạp. Chỉ có bác sĩ điều trị mới là người có thẩm quyền chỉ định, hướng dẫn dùng thuốc an toàn và hiệu quả, đặc biệt, bác sĩ sẽ là người đưa ra quyết định có nên thay thuốc điều trị bấy lâu nay bằng một thuốc mới hay không.
Mọi sự thay đổi về dùng thuốc phải hỏi ý kiến của bác sĩ và thay đổi như thế nào là thuộc thẩm quyền của bác sĩ điều trị. Bệnh nhân không được tự ý thay đổi thuốc vì việc làm này rất nguy hiểm, dùng không đúng sẽ bị độc hại do thuốc hoặc bệnh THA nặng hơn đến mức nguy hiểm.
Có nên ngưng thuốc khi huyết áp không tăng?
Khi đã xác định là bị bệnh THA thì phải dùng thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ. Không vì thấy huyết áp không tăng thì ngưng thuốc, ngưng thuốc như thế có khi là nguy hiểm vì có nhiều thuốc nếu đang dùng mà lại ngưng đột ngột sẽ làm cho huyết áp tăng vọt.
Hoặc có thuốc nếu uống theo kiểu huyết áp tăng thì mới uống, uống rồi ngưng và ngưng rồi uống thì thuốc đó sẽ đến lúc không còn có tác dụng như ban đầu. Phải uống thuốc đều đặn và theo dõi huyết áp thường xuyên, khi có gì bất thường (có thể bị tác dụng phụ có hại của thuốc) thì phải đi tái khám bác sĩ ngay.
Phải uống thuốc đều đặn và theo dõi huyết áp thường xuyên, khi có gì bất thường (có thể bị tác dụng phụ có hại của thuốc) thì phải đi tái khám bác sĩ ngay.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Thuốc trị táo bón: Dùng sai có hại!
Chủ Nhật, tháng 1 03, 2016
sống khỏe
No comments
Nên dùng thuốc trị táo bón ngắn hạn, dùng sau 7 - 10 ngày nếu không hiệu quả phải đi khám bệnh để bác sĩ chẩn đoán nguyên nhân.
Nguyên nhân gây ra táo bón
- Rối loạn chức năng vận động đại tràng do: sai lầm trong ăn uống (ăn thiếu chất xơ sợi, uống quá ít nước), sinh hoạt tĩnh tại ít vận động (làm nghề ngồi nhiều: thợ may, thư ký đánh máy), thói quen đại tiện xấu (thường xuyên nín nhịn khi mót đi tiêu) làm mất phản xạ đại tiện.
- Rối loạn chuyển hóa và nội tiết (tăng canxi máu, nhược giáp).
- Tổn thương thực thể ở đại tràng, trực tràng, hậu môn gây trở ngại đường đào thải phân.
- Do thuốc: thuốc chứa opium (thuốc phiện), thuốc kháng axít trị viêm loét dạ dày - tá tràng, thuốc chống trầm cảm… có thể gây táo bón.
Điều trị
Biện pháp không dùng thuốc:
Người bị táo bón trước khi hoặc song song với sử dụng thuốc (thậm chí để phòng ngừa táo bón) nên áp dụng các biện pháp sau:
- Ăn nhiều chất xơ sợi hơn (rau cải, hoa quả), uống nhiều nước (1,5 - 2 lít nước hàng ngày, thêm nước cam, nước chanh).
- Tái huấn luyện phản xạ đại tiện (đi đại tiện đúng giờ cố định).
- Chống nếp sinh hoạt tĩnh tại (nên vận động, thể dục thể thao).
Thuốc trị táo bón:
Có thể chia làm 5 loại (trong một biệt dược thường kết hợp nhiều loại): Thuốc trị táo bón tạo khối (như methyl cellulose) khi uống không hấp thu, có tính hút nước và trương nở làm tăng khối lượng phân. Thuốc trị táo bón tăng thẩm thấu (lactulose, sorbitol, forlax) giúp giữ chất lỏng trong ruột làm dễ đi tiêu.Thuốc làm trơn phân (như dầu paraffin). Thuốc làm mềm phân (ống bơm chứa glycerol: Rectiofar) bơm vào hậu môn. Thuốc nhuận tràng kích thích(séné, rhubarbe, aloès) kích thích mạnh ruột gây xổ. Tránh dùng kéo dài
Lưu ý khi dùng thuốc trị táo bón
Nên hết sức tránh dùng thuốc táo bón, trừ trường hợp bị táo bón kéo dài hay làm nặng thêm một bệnh khác (tăng huyết áp, trĩ). Trước hết, nên dùng thuốc loại ít tác dụng phụ (thuốc tạo khối, thẩm thấu, bơm hậu môn), nếu không cải thiện mới dùng thuốc trị táo bón loại kích thích là loại cho tác dụng mạnh nhưng có nhiều tác dụng phụ có hại (làm mất trương lực ruột, mất kali).
Hiện có tình trạng lạm dụng thuốc trị táo bón loại kích thích đưa đến hai hậu quả: bị phụ thuốc và bị các tác dụng phụ của thuốc (có bệnh gọi là bệnh do thuốc nhuận trường giống như bị “hội chứng đại tràng bị kích thích”).
Không nên để bị táo bón mà phải phòng ngừa bằng các biện pháp không dùng thuốc kể ở trên.
Có một số trường hợp chưa bị táo bón vẫn phải dùng thuốc (có người bệnh được bác sĩ chỉ định thuốc trị táo bón nhưng không dùng do nghĩ rằng mình đâu bị táo bón), đó là các trường hợp bị bệnh đòi hỏi không được gắng sức: đau thắt ngực hoặc đã bị nhồi máu cơ tim, đã bị đột quỵ, đang bị bệnh phổi tắt nghẽn mạn tính... Những trường hợp này nếu đi tiêu phải rặn có thể bị tai biến do bệnh có sẵn.
Hiện nay có một số chị em làm đẹp giảm cân bằng cách uống các chế phẩm chứa các loại dược thảo gây nhuận tràng mạnh gọi là xổ. Điều rất rõ ràng là khi dùng thuốc hay chế phẩm có tác dụng làm cho xổ đến độ gây tiêu chảy trong thời gian đến mấy ngày, trong thời gian này ăn không được lại thêm tiêu tốn sức lực chạy vào cầu tiêu liên tục thì sẽ giảm cân đương nhiên. Tuy nhiên, cách làm đẹp như thế chắc chắn ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe.
Nên hết sức tránh dùng thuốc táo bón trừ trường hợp bị táo bón kéo dài.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Thuốc đặt dưới lưỡi và cách dùng
Chủ Nhật, tháng 1 03, 2016
sống khỏe
No comments
Thực tế, có loại bào chế riêng như viên chuyên đặt dưới lưỡi (subligual tablets), viên ngậm (oral release tablets) nhưng cũng có loại không có cách bào chế riêng nhưng vẫn đặt được dưới lưỡi, nếu đạt được các yêu cầu trên. Ví dụ: viên nang hay viên dập nifedipin vốn là dạng thuốc uống, nhưng khi cần thiết có thể bẻ viên dập hay tháo bỏ viên nang ra đặt vào dưới lưỡi.
Ưu điểm
Thứ hai: thuốc đi thẳng vào hệ thống tuần hoàn nên có hiệu quả nhanh, không kém như khi tiêm. Ví dụ: trong cơn tăng huyết áp cấp tính, nếu không hạ cấp thời huyết áp xuống (hoặc trong 1giờ, hoặc trong 24 giờ tuỳ theo cơn cấp) thì các cơ quan đích sẽ bị tổn thương, có thể dẫn tới tử vong.
Nhưng nếu dùng viên catopril 50 mg đặt dưới lưỡi, chỉ trong vòng 15 phút huyết áp giảm được 60mmHg. Như vậy bằng cách dùng này, có thể đưa huyết áp từ mức cao nguy hiểm (trên 200mmHg) xuống mức chấp nhận được (150-160 mmHg), tránh được các biến cố.
Tương tự, trong bệnh xơ vữa động mạch vành, có lúc máu không đi đến và cung cấp đủ ôxy cho cơ tim, dẫn đến sự thiếu máu cục bộ, gây chứng đau thắt ngực. Đặt viên nitroglycerin vào dưới lưỡi, sẽ làm giãn ngay mạch, thư giãn hệ mạch chủ yếu vùng tĩnh mạch, làm giảm máu trở về tĩnh mạch, kéo theo sự giảm áp suất trong tim và sự tái phân bố luồng mạch vành vào các lớp dưới (nhạy cảm với sự thiếu máu cục bộ) trong tim; mức tiêu thụ oxy của cơ tim do đó giảm đi, lập lại sự cân bằng cung-cầu ôxy, huỷ chứng đau thắt ngực, tránh được các biến cố nhồi máu cơ tim, đột quỵ.
Một số thuốc có tác dụng tại chỗ như viên nystatin dùng chữa nấm miệng, viên metronidazol chữa viêm lợi, viên erythromycin chữa viêm họng... khi dùng không đặt thuốc dưới lưỡi cho thuốc ngấm vào tĩnh mạch lớn, mà chỉ cho thuốc vào miệng (ngậm lại, không nhai, không nuốt) cho thuốc tự rã ra có tác dụng kéo dài tại đó.
Nhiều tài liệu không xếp các loại thuốc này vào thuốc đặt dưới lưỡi. Có loại thuốc không thể đặt dưới lưỡi như loại viên giải phóng hoạt chất chậm hay các viên sủi bọt, viên có mùi vị khó chịu, gây kích ứng. Nhiều tài liệu coi chúng là các loại thuốc cấm đặt dưới lưỡi.
Như vậy, trong phạm vi hẹp, nói chính xác, thuốc đặt dưới lưỡi là thuốc dùng đặt vào dưới vòm lưỡi nhằm tránh các tác dụng bất lợi khi dùng uống, nhằm có tác dụng nhanh.
Cách dùng
Co lưỡi lên vòm miệng trên. Đặt thuốc vào dưới, rồi hạ lưỡi xuống. Nếu viên thuốc to, khô, khó rã thì có thể thấm nước trước, hoặc ngậm một ít nước đun sôi để nguội, đợi một lúc viên thuốc ngấm đủ nước (nhưng không bị rã ra) thì nuốt nước đi, rồi cứ để viên thuốc tự rã ra dưới lưỡi. Nếu làm không khéo, làm ẩm thuốc quá nhiều hay ngậm quá nhiều nước, để quá lâu, thuốc bị rã ra khi nuốt sẽ nuốt cả thuốc vào ruột nên không đạt yêu cầu.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317