This is featured post 1 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 2 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 3 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015
Cách dùng thuốc chữa táo bón
Thứ Bảy, tháng 12 26, 2015
sống khỏe
No comments
Khi bị táo bón có thể xuất hiện các triệu chứng như đầy bụng, trướng bụng, mệt mỏi, buồn nôn, nhức đầu... táo bón lâu ngày có thể gây nổi mụn trên da, trĩ, nhiễm độc cơ thể, nặng hơn là ung thư đại - trực tràng.
Nguyên nhân dẫn đến táo bón do ăn uống không hợp lý như trong khẩu phần ăn thường ngày bị thiếu chất xơ, uống ít nước làm cho phân cứng khó đào thải ra ngoài, ít vận động, stress, do uống thuốc tây có tác dụng phụ gây táo bón như các loại thuốc chữa dạ dày, tăng huyết áp...
Tuy nhiên còn tùy theo cơ chế tác dụng, nên các thuốc điều trị bệnh táo bón được chia ra các loại sau:
Thuốc trị táo bón tạo khối (igol, metamucil): nhóm thuốc này chứa chất xơ, chất sợi (từ vỏ, hạt, củ), chất nhầy (thạch rau câu), cám lúa mì, được cấu tạo gồm những hạt rất nhỏ có thể giữ một thể tích nước gấp nhiều lần thể tích của chúng.
Khi uống vào thuốc sẽ hút nước làm tăng thể tích phân ở trực tràng tạo phản xạ đi tiêu tự nhiên. Nhóm thuốc này có tác dụng tương đối chậm nhưng ít can thiệp vào hoạt động bình thường của đại tràng hơn những thuốc nhuận tràng khác.
Thuốc trị táo bón thẩm thấu (sorbitol, forlax, lactitol): chứa các muối vô cơ, đường. Khi uống vào, thuốc giữ nước trong lòng ruột giúp thải phân ra ngoài dễ dàng hơn.
Các thuốc làm mềm phân (docusat) giúp nước thấm vào khối phân, làm phân mềm và dễ di chuyển hơn.
Các thuốc bôi trơn (norgalax, microlax): dùng bơm hậu môn. Thuốc chứa dầu khoáng chất (parafin) và các chất giúp thấm nước tốt (glycerin). Không dùng thuốc quá lâu ngày vì có thể làm kích ứng niêm mạc trực tràng, làm tổn thương niêm mạc trực tràng.
Thuốc trị táo bón kích thích (bisacodyl, cascara): thuốc tác động trực tiếp lên thần kinh chức năng vận động bài tiết của ruột, gây co bóp các cơ thành ruột tạo nhu động ruột đẩy phân ra ngoài. Không nên dùng thuốc này quá một tuần vì chúng có thể gây đau quặn bụng và tiêu chảy. Không dùng nhóm thuốc này cho phụ nữ có thai và chỉ dùng khi những điều trị khác bị thất bại.
Mặt khác, có thể dùng phương pháp điều trị kết hợp hỗ trợ như dùng sữa chua hoặc sữa bột có bổ sung chất xơ, trà thảo dược...
Chú ý không được sử dụng bất kỳ một loại thuốc điều trị bệnh táo bón nào kéo dài quá 8 - 10 ngày. Sử dụng thuốc phải có chỉ định của bác sĩ. Sau khi điều trị bằng thuốc giúp cơ thể vượt qua giai đoạn bất bình thường trong bài tiết, cần điều chỉnh lại lối sống, chế độ ăn uống, luyện tập cho phù hợp.
Để phòng tránh táo bón: cần tạo ra thói quen đi tiêu hàng ngày vào một thời gian nhất định (tốt nhất vào buổi sáng khi thức dậy); không được nhịn đi tiêu; nên ăn nhiều rau, hoa quả chứa nhiều chất xơ; tập thể dục đều đặn (điều này không chỉ giúp chúng ta có được sức khỏe tốt, thân hình cân đối mà còn rất tốt cho hệ tiêu hóa); uống nhiều nước hàng ngày sẽ giúp làm sạch hệ tiêu hóa và làm mềm phân để đẩy ra ngoài được dễ dàng.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Cẩn trọng bệnh hen phế quản ở trẻ viêm phế quản lâu ngày
Thứ Bảy, tháng 12 26, 2015
sống khỏe
No comments
Viêm phế quản và hen phế quản đều là tình trạng phế quản bị viêm. Viêm phế quản là các đường thở hay các ống đưa không khí từ ngoài vào phổi bị viêm, thường do siêu vi gây ra.
Viêm phế quản và hen phế quản đều là tình trạng phế quản bị viêm. Viêm phế quản là các đường thở hay các ống đưa không khí từ ngoài vào phổi bị viêm, thường do siêu vi gây ra. Bệnh thường tự khỏi trong 5-10 ngày. Hen phế quản thường khởi phát là viêm phế quản lâu ngày kết hợp với yếu tố cơ địa dị ứng.
Viêm phế quản thường là một tiến trình cấp tính,và hầu hết trẻ có thể hồi phục trong vòng 5- 10 ngày. Trẻ có thể mắc viêm phế quản nhiều lần trong năm, từ 8 – 12 lần hoặc nhiều hơn gọi là viêm phế quản tái phát.
Đối với viêm phế quản cấp tính hoặc viêm phế quản tái phát, dấu hiệu và triệu chứng thường gặp bao gồm:
- Ho.
- Tạo đờm, đờm màu trong hoặc màu trắng hoặc màu xám vàng hoặc màu xanh lục.
- Khó thở, tình trạng khó thở tồi tệ hơn bởi gắng sức.
- Thở khò khè.
- Mệt mỏi.
- Sốt và ớn lạnh.
- Tức ngực.
Viêm phế quản thường là một tiến trình cấp tính,và hầu hết trẻ có thể hồi phục trong vòng 5- 10 ngày. Trẻ có thể mắc viêm phế quản nhiều lần trong năm, từ 8 – 12 lần hoặc nhiều hơn gọi là viêm phế quản tái phát.
Đối với viêm phế quản cấp tính hoặc viêm phế quản tái phát, dấu hiệu và triệu chứng thường gặp bao gồm:
- Ho.
- Tạo đờm, đờm màu trong hoặc màu trắng hoặc màu xám vàng hoặc màu xanh lục.
- Khó thở, tình trạng khó thở tồi tệ hơn bởi gắng sức.
- Thở khò khè.
- Mệt mỏi.
- Sốt và ớn lạnh.
- Tức ngực.
Hen phế quản hay còn gọi là hen suyễn gây nên bởi các yếu tố khởi phát là phế quản tăng mẫn cảm với các yếu tố kích ứng, tạo nên hiện tượng co thắt phế quản và viêm mạn tính phế quản. Viêm phế quản mạn tính thường gặp ở người lớn trên 40 tuổi. Trẻ nhỏ không bị mắc viêm phế quản mạn tính do hệ hô hấp chưa phát triển hoàn thiện.
Nếu mẹ thấy trẻ ho, khò khè và khó thở lặp đi lặp lại của trong một khoảng thời gian dài, nhiều khả năng thủ phạm là bệnh hen suyễn. Hoặc nếu các triệu chứng vẫn tồn tại qua thời gian chữa bệnh thông thường, thì có thể là hen suyễn.
Hen suyễn có thể liên quan yếu tố cơ địa dị ứng của bản thân và có bệnh sử gia đình thí dụ như trẻ bị suyễn cũng có cha hay mẹ bị suyễn, gia đình bị chàm, dị ứng. Nếu trẻ có các dấu hiệu bệnh trên, mẹ cần đưa trẻ đi khám để chẩn đoán và xác định bệnh hen suyễn. Bệnh hen suyễn cần điều trị lâu dài với phác đồ điều trị kết hợp kháng viêm, chống co thắt phế quản và giảm ho. Đặc biệt là tìm yếu tố khởi phát cơn suyễn để phòng tránh là quan trọng. Suyễn là bệnh không chữa khỏi nhưng kiểm soát được, điều trị hợp lý sẽ có cuộc sống có chất lượng.
Co thắt phế quản gây nên cơ ho, khó thở trong bệnh lý hen phế quản
Ho là triệu chứng điển hình trong các bệnh lý hô hấp trên ở trẻ em. Ho là phản ứng của cơ thể giúp tống các chất tiết, chất đờm kèm theo virus và vi khuẩn gây bệnh ra khỏi đường hô hấp, đồng thời giúp trẻ thở ra dễ dàng hơn khi đường hô hấp bị co thắt.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Dùng nhiều thuốc - Hại nhiều hơn lợi
Thứ Bảy, tháng 12 26, 2015
sống khỏe
No comments
Có nhiều người khi đi khám bệnh, bác sĩ kê đơn cho dùng 1 - 2 loại thuốc thì có vẻ không hài lòng và đánh giá trình độ của bác sĩ còn hạn chế. Vậy việc dùng nhiều thuốc cùng một lúc có lợi hay không?
Nguyên nhân dẫn tới dùng nhiều thuốc
Không biết, vô ý dùng trùng thuốc: Một thuốc gốc có nhiều tên biệt dược khác nhau. Khi đang dùng thuốc này thấy chưa đỡ, người bệnh lại dùng thêm thuốc khác. Song thực chất hai thuốc này lại chứa cùng một hoạt chất. Hay gặp nhất là các thuốc có chứa paracetamol (hạ sốt, giảm đau).
Bị nhiều bệnh, dùng cùng lúc nhiều loại thuốc: Lẽ ra khi bị nhiều bệnh, cần đi khám. Thầy thuốc xem bệnh nào là bệnh chính, cấp thiết, cần tập trung điều trị trước, bệnh nào thứ yếu có thể tự khỏi khi chữa xong bệnh chính hoặc chỉ dùng thuốc phụ trợ chữa triệu chứng, theo nguyên tắc chữa bệnh này không làm nặng thêm bệnh kia. Người già thường bị nhiều bệnh lại hay tự ý dùng thuốc và theo kiểu “đau đâu chữa đó”.
Các thuốc này có khi làm mất tác dụng của nhau hay ngược lại làm tăng tác dụng, đặc biệt là tác dụng không mong muốn (chuyên môn gọi là tương tác). Một ví dụ: bị đau dạ dày đã dùng cimetidin, khi thấy mất ngủ lại tự dùng thêm thuốc ngủ. Cimetidin vốn có tác dụng phụ gây lú lẫn, kích động, hoang tưởng khi dùng thêm thuốc ngủ thì các tác dụng phụ này nặng thêm làm cho buồn ngủ kéo dài, lú lẫn, không chủ động được, đi lại dễ bị ngã.
Thực tế, có trường hợp dùng nhiều thuốc phức tạp hơn nhiều. Nếu đi khám, thầy thuốc sẽ cân nhắc cho ít loại thuốc hơn (ví dụ như có thể thay một thứ thuốc tiểu đường thế hệ mới có tác dụng giảm bớt sự tăng huyết áp và nếu có cho thuốc hạ huyết áp cũng chỉ cho ở mức vừa đủ.)
Tư vấn cho người bệnh về những nguy cơ xảy ra khi dùng thuốc.
|
Hiểu nhầm một số thuốc là thuốc bổ, dùng kéo dài: Thường có quảng cáo thuốc bổ dưỡng cho gan, thận, phổi... chế từ các thảo mộc. Có người bị bệnh liên quan đến các bộ phận đó, dùng theo quảng cáo với ý muốn làm cho chúng mạnh lên, nhưng kết quả thì ngược lại. Ví dụ: khi bị viêm gan B, vào giai đoạn virut đã ổn định, thầy thuốc cho thuốc tăng cường chức năng gan (như các sản phẩm có diệp hạ châu). Khi chức năng gan đã bình thường thì cắt thuốc này. Người bệnh tưởng thuốc đó là thuốc bổ gan, cứ mua dùng, làm cho gan mệt thêm (vì gan phải làm việc để chuyển hóa thuốc).
Sẵn có thuốc trong nhà, khi thấy có khó chịu thì dùng tăng liều: Đối với người bị tăng huyết áp, dùng mỗi ngày một viên thuốc hạ huyết áp là đủ. Khi ồn ào hay khi suy nghĩ căng thẳng sẽ bị nhức đầu, huyết áp tăng nhẹ, chỉ cần nghỉ ngơi yên tĩnh là huyết áp quay về mức đã kiểm soát mà không phải dùng thêm thuốc hoặc tăng liều thuốc cũ. Tuy nhiên, một số người tự ý dùng thêm 1 - 2 lần. Dùng liều quá cao như thế, huyết áp tụt đột ngột, nguy hiểm.
Kê đơn, bán thuốc không đúng: Do thời gian khám eo hẹp, thiếu phương tiện xét nghiệm, trình độ chuyên môn chưa cao, chẩn đoán chưa chính xác bệnh nên một số thầy thuốc cho dùng thuốc bao vây. Ví dụ, một người khi bị ho không có sốt, ngoài việc dùng thuốc ho, cộng thêm kháng sinh (nhằm dự phòng nhiễm khuẩn), thuốc kháng histamin, corticoid (nhằm dự phòng có thể ho do dị ứng), thuốc an thần gây ngủ (làm cho ngủ đi, đỡ bị ho). Phổ biến nhất hiện nay là khi bị một bệnh nhiễm khuẩn chưa chẩn đoán chắc chắn lại cho dùng kháng sinh phổ rộng hay cho dùng nhiều loại kháng sinh. Dùng như vậy là chưa theo đúng nguyên tắc, sẽ làm tăng sự kháng thuốc.
Do muốn kê đơn nhiều thuốc sẽ có hoa hồng, bán nhiều thuốc sẽ có nhiều lãi nên thầy thuốc, người bán thuốc cố ý cho người bệnh dùng rất nhiều thuốc. Trung bình mỗi đơn thuốc, mỗi lần bán thuốc có đến 5 - 6 loại, có không ít đơn 8 - 9 loại, thậm chí 10 - 15 loại.
Điều cần phải làm
Các nghiên cứu trên thế giới cho biết, nếu dùng 2 loại thuốc chỉ có 5% nguy cơ xảy ra tương tác thuốc. Nếu dùng 5 loại thuốc, nguy cơ này là 50%, nếu dùng 8 loại thuốc, nguy cơ này lên tới 100%.
Tại nước ta chưa có nghiên cứu chung nhưng những đơn thuốc cho đến 8 - 9 loại thuốc không phải là hiếm. Khuyến cáo của WHO và thực tế một số nước công nghiệp phát triển (như Thụy Điển) đã thực hiện được thì trung bình mỗi đơn thuốc chỉ có 1,5 loại (một thứ thuốc chính, cần lắm mới thêm một thứ hỗ trợ). Chi phí tiền thuốc trong chi phí chung chỉ chiếm 25 - 30%. Ở nước ta, theo khảo sát tại một số bệnh viện, mỗi đơn thuốc trung bình có tới 5 - 6 loại, chi phí tiền thuốc chiếm tới 60 - 70%. Như vậy, dùng nhiều thuốc còn gây cả tác hại về sức khỏe và kinh tế.
Khi bị bệnh cần khám mới dùng thuốc. Mục tiêu đặt ra khi khám là để biết bệnh, dùng đúng thuốc chứ không phải là để được cấp nhiều thuốc. Có nhiều người bệnh BHYT khi thấy cho ít thuốc thì cho rằng không đối xử tốt, đơn chẳng có gì. Đây là quan niệm hết sức sai lầm.
Theo qui chế kê đơn, thầy thuốc chỉ được kê đơn vì mục đích chữa bệnh. Nếu vì mục đích chưa trong sáng mà kê nhiều thuốc là vi phạm qui định. Điều này bản thân người kê đơn thuốc, người bán thuốc cần tự giác khắc phục, mặt khác, về quản lý cần có chế tài xử lý thích đáng.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2015
Thuốc kháng axít: Không thể dùng tùy thích
Thứ Sáu, tháng 12 25, 2015
sống khỏe
No comments
Thuốc kháng axít là những loại dược phẩm có nhiệm vụ thực hiện một phản ứng trung hòa hydrochloric acid tiết ra trong dịch tiêu hóa ở dạ dày; nó cũng hoạt động như một chất đệm cho axít dạ dày bằng cách làm tăng độ pH nhằm giảm tính axít ở dạ dày. Khi dạ dày có quá nhiều axít sẽ gây ra hiện tượng đau, lở loét hệ tiêu hóa...
Vì vậy, những loại thuốc kháng axít được chỉ định dùng để giảm đau và khó chịu trong các rối loạn về hệ tiêu hóa. Những loại thuốc kháng axít “đình đám” nhất phải kể tới aluminium hyfroxide, calcium carbonate, magnesium hydroxide, sodium carbonate...
Thực tế, có những trường hợp “trục trặc kỹ thuật” ở hệ tiêu hóa là do lượng axít ở dạ dày thấp, thiếu các loại enzyme tiêu hóa, thức ăn không được nhai kỹ trước khi nuốt nên lượng thức ăn này sẽ “đình công” tại bộ máy tiêu hóa và “nằm vạ” ở đấy lâu hơn bình thường.
Ảnh minh họa
Kết quả là thực phẩm sẽ được lên men và sinh ra khí độc. Nếu khí độc này tràn ra thực quản có thể gây nên những cơn đau ngực dữ dội và bệnh nhân tưởng lầm là đau tim. Đồng thời, axít sẽ tràn vào thực quản, gây ra cảm giác nóng rát mà ta thường gọi là ợ nóng, ợ chua.
Trong những trường hợp ợ nóng, sử dụng loại thuốc kháng axít có thể tạm thời cải thiện được cảm giác nóng rát vì như đã nói, những thuốc này có tác dụng làm giảm axít dạ dày, thế nhưng sau đó lại bị “tổ trác” bởi do thiếu axít ở dạ dày nên sự tiêu hóa không đúng cách sẽ xảy ra, dẫn đến tình trạng thực phẩm lại bị lên men, tạo ra vòng luẩn quẩn.
Nếu tiếp tục sử dụng thuốc kháng axít thì dạ dày sẽ bị thiếu axít dẫn đến những khiếm khuyết trong quá trình tiêu hóa thức ăn và hấp thụ các chất dinh dưỡng, nhất là vitamin nhóm B và sắt.
Axít trong dịch tiêu hóa còn có thêm chức năng tiêu diệt một số vi khuẩn có trong thức ăn. Nếu cứ bị thuốc kháng axít trung hòa hết axít thì dạ dày sẽ “nổi cáu” và trả đũa bằng cách tiết ra nhiều axít hơn. Vì vậy, sử dụng thuốc kháng axít một cách vô tội vạ thì chẳng khác nào tự chuốc họa vào người!
Ngoài ra, bản thân các loại thuốc kháng axít còn có những tác dụng phụ đáng lưu ý như sau:
Muối nhôm: Những muối nhôm sẽ can thiệp vào sự hấp thu của phốt phát nên có thể gây táo bón, mệt mỏi, ăn không ngon miệng, gây tổn hại xương. Muối nhôm càng trở nên “khó ưa” hơn đối với những người bị các bệnh về thận, xương và Alzheimer.
Muối canxi: Nếu sử dụng không đúng cách, các muối canxi có thể gây táo bón, bệnh về đường tiểu, nhức đầu, thay đổi tâm trạng, yếu cơ, ói mửa...
Sodium bicarbonate: Chất này có tác dụng nhuận tràng, làm thay đổi huyết áp, gây sưng chân...
Magnesium hydroxide: Lưu ý khi sử dụng thuốc này ở những bệnh nhân suy thận, tim mạch và bị biến chứng thần kinh.
Ngoài những tác dụng phụ nguy hiểm kể trên, các thuốc kháng phốt phát còn làm thay đổi tính sinh khả dụng của một số loại thuốc, đặc biệt là các thuốc kháng sinh như tetracycline, thuốc kháng nấm như ketoconazole...
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
6 lỗi sai hay gặp khi sử dụng thuốc giảm đau
Thứ Sáu, tháng 12 25, 2015
sống khỏe
No comments
Trước khi dùng thuốc để trị bệnh, bạn hãy suy nghĩ thật kỹ càng. Hầu hết chúng ta có xu hướng sử dụng thuốc giảm đau quá thường xuyên mà không lường trước các rủi ro. Prevention liệt kê dưới đây những lỗi sai thường mắc bạn cần tránh.
Ảnh: tribune.com.pk.
|
Dùng thuốc cho mọi cơn đau
Cơn đau đầu có thể rất tồi tệ nhưng sử dụng thuốc giảm đau trong trường hợp này có thể làm hại cơ thể nhiều hơn bạn nghĩ. Martin Hoffman, chuyên gia y tế từ Hệ thống Chăm sóc Sức khỏe Thương binh Bắc California (Mỹ) cho biết thuốc giảm đau ngăn chặn sự sản sinh prostaglandin khiến bạn trở nên nhạy cảm hơn với cơn đau. Bởi vậy, khi đau đầu, bạn nên thử các phương pháp như nghỉ ngơi, chườm nóng hoặc lạnh, thiền hay tập yoga trước.
Dùng quá liều
Khi bị cảm cúm, bạn thường kết hợp thuốc đa triệu chứng với thuốc giảm đau mà không biết chúng có chung một số thành phần, rất dễ dẫn đến dùng quá liều. Tốt nhất, hãy chỉ uống loại thuốc đặc trị triệu chứng bạn đang gặp. Trong trường hợp ho nhiều, bạn dùng siro ho là đủ.
Nghĩ rằng chỉ người uống nhiều mới gặp nguy hiểm
Từ lâu, các chuyên gia đã khuyến cáo thuốc giảm đau làm tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ. Gần đây, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ phát hiện nguy cơ này tăng lên ngay từ tuần đầu tiên dùng thuốc.
Một báo cáo năm 2013 khẳng định sử dụng thuốc giảm đau nhiều hơn liều được kê sẽ dẫn đến tổn thương gan nghiêm trọng hoặc nặng hơn là tử vong chỉ sau vài ngày. "Hãy uống thuốc giảm đau trong thời gian ngắn nhất với liều lượng ít nhất có thể", Jennifer L Bacci, trợ lý giáo sư tại Khoa Dược, Đại học Washington (Mỹ) khuyên.
Uống thuốc thường xuyên khi đang cố thụ thai
Thuốc giảm đau và chống viêm ngăn chặn rụng trứng do ức chế giải phóng prostaglandin. Trong một nghiên cứu gần đây, 90% phụ nữ không thể rụng trứng có thói quen uống thuốc giảm đau. Tin vui là hiện tượng này sẽ chấm dứt khi chị em ngừng dùng thuốc.
Giảm sốt cấp tốc
Sốt 38 độ chưa cần thiết để dùng tới brufen hay acetaminophen. Sốt là phản ứng tự nhiên của cơ thể trước một số loại bệnh và bản thân nó không phải là một điều xấu. Bạn chỉ nên sử dụng thuốc giảm đau với liều lượng tối thiểu nếu nhiệt độ vượt quá 38,5 độ và bạn cảm thấy đau nhức toàn thân. Trong trường hợp sốt từ 39 độ trở lên, hãy đi gặp bác sĩ. Một số loại thuốc có tác dụng cắt cơn sốt để phòng tránh co giật ở trẻ em hoặc hạn chế nhiễm trùng nhưng chỉ được uống nếu được bác sĩ chỉ dẫn.
Dùng thuốc trước khi luyện tập
Thuốc giảm đau giúp ích cho bệnh nhân đang trị liệu vật lý nhưng không thể áp dụng vào mục đích luyện tập. Trên thực tế, cảm giác đau được coi như cơ chế an toàn báo hiệu cho bạn biết chuyện gì đang xảy ra với cơ thể.
Sử dụng thuốc giảm đau để tập nhiều hơn khiến bạn dễ bị chấn thương, đồng thời làm trầm trọng thêm các vấn đề vốn có. Ngoài ra, chúng gây hại cho thận vì làm cơ thể mất nước vì vậy hãy chắc chắn bổ sung đủ chất lỏng trong trường hợp bắt buộc phải dùng.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Vitamin C và nhu cầu cho sức khỏe con người
Thứ Sáu, tháng 12 25, 2015
sống khỏe
No comments
Vitamin C (acid ascorbic) là vi chất dinh dưỡng giữ vai trò hết sức quan trọng đối với sức khỏe của con người, nếu thiếu nó sẽ để lại nhiều tác hại to lớn.
Cho nên, chúng ta cần chế độ ăn hợp lý hằng ngày, trong đó phải chú trọng vitamin C đủ cả về số lượng cũng như chất lượng.
Vai trò của vitamin C
Vitamin C là một chất dinh dưỡng thiết yếu cho các loài linh trưởng bậc cao, và cho một số nhỏ các loài khác. Vitamin C có nguồn gốc nhiều trong các loại rau quả tươi như: cam, chanh, quít, và có hàm lượng cao trong rau xanh, đặc biệt là bông cải xanh, tiêu, khoai tây, rau cải, cà chua, cam, quít, chanh, bưởi…
Vitamin C với nhiều chức năng quan trọng, là thành phần chính để giúp cơ thể sản xuất collagen, một protein quan trọng cho các mô liên kết, cấu trúc cơ thể với nhau đặc biệt trong sụn khớp và các dây chằng.
Vitamin C giúp cho sự mau lành vết thương, sự chắc khỏe cho hệ thống nướu răng, ngăn ngừa các mảng bầm ở trên da.
Thiếu vitamin C sẽ dễ bị cảm cúm
Đặc biệt, vitamin C còn có chức năng miễn dịch. Các nhà khoa học đã thấy rằng vitamin C làm tăng cường hệ thống miễn dịch, giúp cơ thể ngăn ngừa và điều trị cảm cúm thông thường, chống nhiễm trùng, nếu thiếu hoặc suy giảm lượng dự trữ trong các bạch cầu, nhất là Lymphocyte, thì nhiễm trùng nhanh chóng tăng lên.
Vitamin C cũng hoạt động cùng với các enzyme chống oxy hóa khác như: Glutathione peroxidadase, Catalase và Superoxide dismutase; hỗ trợ cho vitamin E trong vai trò chống oxy hóa trong cơ thể, tăng cường hiệu lực của vitamin E; cùng với vitamin E, glutathione đảm đương vai trò chống đỡ và ngăn ngừa các tổn thương do các gốc tự do.
Nếu thiếu glutathione sẽ dẫn đến các tế bào hồng cầu, bạch cầu và mô thần kinh bị ảnh hưởng, hậu quả là vỡ hồng cầu, giảm chức năng bạch cầu và thoái hóa mô thần kinh. Với liều 500mg mỗi ngày, vitamin C đảm bảo duy trì nồng độ phù hợp glutathione hồng cầu.
Vitamin C cũng là một chất dinh dưỡng chống oxy hóa rất quan trọng, tham gia sản xuất một số chất dẫn truyền thần kinh và hoóc-môn, tổng hợp hấp thụ và sử dụng các yếu tố dinh dưỡng khác.
Các nhà khoa cũng thấy rằng, vitamin C rất hữu ích cho người bệnh nhân hen suyễn, nhờ làm giảm nồng độ histamine, và được xem như là một chất kháng histamine tự nhiên…
Không để thừa - thiếu
Tuy nhiên, với chức năng quan trọng đối với cơ thể thì vitamin C vẫn là con dao hai lưỡi, vì thiếu hay thừa đều có thể tác hại nhất định cho cơ thể.
Giai đoạn đầu thiếu vitamin C thường có các dấu hiệu không điển hình, chủ yếu là mệt mỏi, suy nhược.
Khi bệnh phát triển, một số triệu chứng sẽ xuất hiện như: tăng sừng hóa quanh lỗ chân lông, ban xuất huyết, đau ở các chi, chảy máu xung quanh các nang lông, thường gặp ở chi dưới như: đầu gối, bàn chân, mặt sau đùi, ở các chỗ hay bị đè ép, va chạm; hiện tượng chảy máu dưới da và trong cơ thể xuất hiện ở vùng bả vai, mắt cá, cùng với chảy máu dưới màng xương, màng phổi.
Thiếu vitamin C, sức đề kháng của cơ thể giảm, dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và viêm phổi; là nguyên nhân của thiếu máu nhược sắc do thiếu sắt, giảm hàm lượng cholesterol trong máu.
Thiếu vitamin C gây ra bệnh Scorbut, với biểu hiện ở người lớn thì viêm lợi, chảy máu chân răng; tụ máu dưới màng xương, đốm xuất huyết, tăng sừng hóa ở nang lông.
Nếu không điều trị có thể tử vong do chảy máu ồ ạt hoặc do thiếu máu cục bộ cơ tim. Ở trẻ còn bú, thường do chế độ ăn nhân tạo, bị chảy máu dưới màng xương, nhất là chi dưới; dễ chảy máu dưới da; vết thương lâu lành.
Vitamin C tuy ít khi tích lũy trong cơ thể, nhưng nếu dùng vitamin C liều cao trên 1g/ngày với thời gian dài sẽ dẫn đến viêm loét dạ dày-tá tràng, tiêu chảy và đau bụng, ngoài ra còn có thể đọng oxalate, urat dễ gây sỏi thận.
Nếu dùng đường tiêm liều cao có thể gây tán huyết làm giảm thời gian đông máu, giảm độ bền hồng cầu. Ở sản phụ, nếu dùng vitamin C liều cao kéo dài sẽ gây tăng nhu cầu bất thường về vitamin C ở thai dẫn đến bệnh Scorbut sớm ở trẻ sơ sinh, có khả năng tăng nguy cơ gây dị tật bẩm sinh ở trẻ.
Với tính chất quan trọng như vậy, nhu cầu vitamin C của mỗi người chúng ta hàng ngày là bao nhiêu? Theo khẩu phần dinh dưỡng được khuyến khích (RDA), nhu cầu vitamin C là 60mg/ngày.
Nhu cầu này tăng lên với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con bú, giai đoạn cần tăng trưởng nhanh như: thiếu niên tuổi dậy thì, người già, người làm việc ở môi trường nhiệt độ cao… liều dùng hằng ngày đối với trẻ sơ sinh đến 3 tuổi ở vào khoảng 25 - 30mg từ 4 - 18 tuổi cơ thể có nhu cầu khoảng 30 - 40mg mỗi ngày. Đối với người trưởng thành, nhu cầu trung bình là 45mg/ngày. Ở phụ nữ mang thai, nhu cầu là 55mg/ngày và phụ nữ cho con bú là 70mg/ngày.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Cẩn trọng khi dùng thuốc ho thuốc cảm cho trẻ
Thứ Sáu, tháng 12 25, 2015
sống khỏe
No comments
Các chuyên gia Mỹ nhất trí rằng, mỗi năm một em nhỏ có thể bị khoảng 10 đợt nhiễm virus, với các triệu chứng ho và cảm. Trên thị trường Mỹ hiện có tới hơn 800 loại thuốc ho và thuốc cảm dành cho trẻ em.
Bốn thành phần chính của các loại thuốc ho thuốc cảm:
- Chống ngạt mũi: Làm thông thoáng mũi, giúp bé dễ thở. Thuốc làm khô niêm mạc, giúp giảm phần nào hiện tượng chảy nước mũi. Tác dụng phụ là khiến trẻ kích thích, khó ngủ.
- Kháng histamin: Trị chứng hắt hơi, sổ mũi. Tác dụng phụ gây buồn ngủ.
- Ức chế cơn ho: Ức chế phản xạ ho ở họng và phổi, ngăn chặn cơn ho.
- Long đờm: Giúp đờm loãng hơn và dễ long ra.
Ảnh minh họa
Thuốc ho có an toàn cho trẻ em?
Các loại thuốc ho, thuốc cảm đã được sử dụng từ hàng chục năm nay, vẫn có rất ít nghiên cứu về độ an toàn và tính hiệu quả của chúng ở trẻ em. Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) lần đầu tiên đưa ra hướng dẫn sử dụng thuốc ho thuốc cảm ở trẻ em năm 1976.
Lúc đó, liều lượng thuốc dùng cho trẻ hoàn toàn dựa vào liều dùng cho người lớn: Trẻ 5-12 tuổi dùng 1/2 liều người lớn, trẻ 2-5 tuổi dùng 1/4 liều người lớn. Tại thời điểm đó chưa có quy định về việc sử dụng thuốc ở trẻ dưới 2 tuổi.
Bản hướng dẫn này tồn tại trong hơn 30 năm, và được FDA xem xét lại khi nổi lên những nghi vấn về độ an toàn của các thuốc ho đối với trẻ em. Ngày 17/01/2008, cơ quan này đưa ra khuyến cáo cuối cùng: Không dùng thuốc ho, thuốc cảm cho trẻ dưới 2 tuổi vì chúng không an toàn, không hiệu quả. FDA đang tiếp tục xem xét khả năng sử dụng thuốc ho thuốc cảm cho trẻ 2-12 tuổi.
Nghiên cứu của Trung tâm Phòng và Kiểm soát Bệnh tật của Mỹ (CDC) thực hiện năm 2007 cho thấy, trong khoảng thời gian 2004-2005, hơn 1.500 trẻ dưới 2 tuổi được đưa tới điều trị tại các phòng cấp cứu của Mỹ vì tác dụng phụ của thuốc ho và cảm.
Các tai biến nguy hiểm nhất bao gồm nhịp tim nhanh, kém tỉnh táo, co giật, tử vong. Trong số các nạn nhân, cả 3 trường hợp trẻ dưới 6 tuổi tử vong vì dùng thuốc cảm năm 2005 đều có nguyên nhân sử dụng thuốc quá liều do vô ý.
Các chuyên gia cho rằng, phần lớn các tai biến nghiêm trọng thường liên quan tới việc sử dụng thuốc không đúng cách. Thống kê năm 2004 ở Mỹ cho thấy có tới 25% trẻ được dùng thuốc đúng liều nhưng vẫn bị tai biến. Trẻ dưới 2 tuổi có tỷ lệ tai biến cao nhất.
Năm 2008, những tranh cãi xung quanh độ an toàn của thuốc cảm ở trẻ em đã khiến nhiều nhà sản xuất phải thay đổi nhãn mác và đưa ra cảnh báo trên bao bì: “Không dùng thuốc này cho trẻ dưới 4 tuổi”, “Không dùng thuốc kháng histamime như thuốc an thần hay thuốc ngủ cho trẻ”.
Thuốc ho trẻ em có hiệu quả?
Năm 2009, nghiên cứu do Bệnh viện Nhi đồng BC ở Vancouver (Canada) tiến hành cho thấy, chẳng những thuốc ho, thuốc cảm có thể gây nguy hiểm mà còn không mang lại lợi ích gì cho trẻ dưới 5 tuổi.
Bệnh nhiễm virus cần thời gian để đi hết quãng đường của mình. Không có phương thuốc gì chữa khỏi các căn bệnh này. Thuốc ho và cảm chỉ giúp làm giảm nhẹ triệu chứng. Nhiều khi tác hại do sử dụng thuốc không đúng cách còn lớn hơn nhiều so với lợi ích mà các thuốc này mang lại. Cân nhắc giữa lợi và hại, ngày càng có nhiều cha mẹ chọn cách không dùng thuốc ho thuốc cảm cho con.
Hướng dẫn sử dụng thuốc ho một cách an toàn
- Đọc kỹ nhãn thuốc, đặc biệt là các thành phần của thuốc.
- Không sử dụng cùng lúc 2 loại thuốc có cùng thành phần.
- Chọn thuốc phù hợp với triệu chứng bệnh.
- Không dùng thuốc lâu hơn quy định.
- Không dùng thuốc thường xuyên hơn chỉ dẫn.
- Không cho trẻ dùng thuốc của người lớn, dù có giảm liều.
- Dùng thìa hoặc cốc đo chính xác hàm lượng thuốc, không được áng chừng.
Làm gì để giúp bé cảm thấy dễ chịu hơn?
Phần lớn các bệnh nhiễm virus sẽ tự khỏi sau khoảng một tuần. Thông thường nếu được chăm sóc đúng cách, các bé sẽ khá lên nhiều kể từ ngày thứ 5.
Hãy giúp trẻ bằng cách:
- Cung cấp đủ nước: Cho bé uống nhiều nước, nước hoa quả, bú mẹ để giữ cho cơ thể không bị mất nước, phòng ngừa hiện tượng đờm dãi bị cô đặc, gây bít tắc đường hô hấp.
- Khuyến khích bé ho: Ho là phản xạ bảo vệ tự nhiên của cơ thể, giúp tống đờm dãi ra ngoài. Nếu bé muốn ho, hãy đặt bé ngồi trên lòng bạn, nghiêng người bé về phía trước khoảng 30 độ và vỗ rung nhẹ ở vùng lưng.
- Làm ẩm đường mũi: Dùng nước muối sinh lý nhỏ đều đặn vào hai bên lỗ mũi, khoảng 30 phút một lần. Nếu mũi bé có nhiều dịch tiết thì cần hút sạch bằng dụng cụ hút mũi dành cho trẻ em.
- Súc miệng bằng nước muối: Các bé từ 4 tuổi trở lên cần được khuyến khích súc miệng nước muối để giảm triệu chứng đau họng.
- Khuyến khích bé nghỉ ngơi: Nếu bé sốt hoặc ho nhiều, nên giữ bé ở nhà, hạn chế hoạt động.
- Mặc ấm cho bé và giữ nhiệt độ phòng ở mức mát mẻ, nhiệt độ cao quá sẽ không tốt vì làm khô đường hô hấp.
- Làm ẩm không khí: Dùng máy phun sương duy trì độ ẩm trong phòng ở mức 50-70%. Không khí mát và ẩm tạo điều kiện tối ưu cho đường thở.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317