This is featured post 1 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 2 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 3 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015
Cách bổ sung canxi cho người cao tuổi
Thứ Tư, tháng 12 23, 2015
sống khỏe
No comments
Canxi không chỉ có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của xương, mà còn quan trọng cho sự phát triển của cơ bắp, thần kinh và tim được khoẻ mạnh. Vì vậy, cần bổ sung để có đủ canxi trong suốt cuộc đời.
Khi bạn tiếp cận thời kỳ mãn kinh, cơ thể bạn sản sinh ít estrogen, đặt bạn vào nguy cơ gia tăng bệnh tim, loãng xương và các biến chứng khác. Hơn nữa, ở người cao tuổi có nhiều lý do khiến cho sự hấp thu canxi giảm, sự bài tiết canxi lại tăng lên làm cho tổng lượng canxi của cơ thể giảm. Thiếu canxi sẽ dẫn đến bệnh loãng xương, mật độ xương giảm, xương xốp giòn, dễ bị gãy... nên việc bổ sung canxi cho người cao tuổi là cần thiết. Bên cạnh việc bổ sung canxi cần bổ sung đồng thời vitamin D (giúp hấp thụ tốt canxi).
Trước hết nên bổ sung canxi bằng thực phẩm như ăn thức ăn giàu canxi và dễ hấp thu (sữa bò, đậu nành, vừng, tôm, cá, cua, sò), ăn nhiều thức ăn giàu vitamin D (lòng đỏ trứng, gan động vật, cá hồi), nên ra nắng nhiều hơn vào buổi sáng để cơ thể tổng hợp được nhiều vitamin D... Trường hợp bổ sung bằng thức ăn không đủ có thể bổ sung thêm bằng thuốc. Các sản phẩm chứa canxi và vitamin D hiện có rất nhiều. Tuy nhiên, việc bổ sung như thế nào và liều lượng ra sao cần phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa, không nên tự ý sử dụng, để tránh dùng không đúng, dùng thừa sẽ gây hại.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Paracetamol không có tác dụng trị cảm cúm
Thứ Tư, tháng 12 23, 2015
sống khỏe
No comments
Paracetamol là loại thuốc chính trong các đơn thuốc trị bệnh cảm lạnh và cảm cúm. Nhưng theo nhóm nghiên cứu dược khoa ở New Zealand, thuốc này không giúp giảm được cơn sốt lẫn các triệu chứng khác như đau và nhức.
Với 80 người được thí nghiệm, nhiệt độ cơ thể họ không hề khác biệt khi uống paracetamol trong năm ngày so với người không uống thuốc. Cũng không nhóm nào có sự khác biệt về tình trạng bệnh tật.
Tiến sĩ Irene Braithwaite của Viện nghiên cứu Dược New Zealand cho biết: "Ban đầu chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng uống paracetamol có thể gây hại, vì virus cúm không thể tái tạo tốt ở nhiệt độ cao hơn và bằng cách làm giảm nhiệt độ cơ thể con người, virus có thể phát triển còn mạnh hơn. May mắn rằng kết quả thí nghiệm không cho thấy điều đó".
Hình minh họa
Mối quan ngại của các nhà khoa học bắt đầu khi thí nghiệm trên động vật bị cúm cho thấy những con được cho dùng paracetamol và những loại thuốc hạ sốt khác lại có nhiều nguy cơ chết vì virus hơn.
Trong nghiên cứu trên con người, paracetamol không chứng tỏ có gây hại, nhưng cũng không có lợi.
Trái ngược với lời khuyên của nhiều y bác sĩ hiện tại rằng nên uống paracetamol hoặc các loại thuốc chống sưng viêm khác khi bị bệnh để hạ sốt và giảm đau nhức, nghiên cứu này thấy rằng lượng paracetamol được khuyên dùng bình thường không hề có hiệu quả nào trong điều trị lâm sàng hoặc hiệu quả trị bệnh.
Theo các bác sĩ khác, đây chỉ là kết quả của một cuộc nghiên cứu. Với các bệnh nhân khác, paracetamol có thể có hiệu quả trong việc hạ sốt và giảm đau khi được uống đúng liều. Tuy nhiên, đây là điều đáng quan tâm và cần có một cuộc nghiên cứu về dùng thuốc điều trị với trẻ em, hiệu quả của thuốc khi ấy sẽ rõ ràng hơn.
Các nhà nghiên cứu đồng tình rằng thí nghiệm này vẫn có "lỗ hổng", vì tất cả các tình nguyện viên đều đã được uống thuốc chống cúm cực mạnh là Tamiflu, có thể khiến sự khác biệt về triệu chứng giảm đi.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Những sai lầm khi dùng thuốc hạ sốt
Thứ Tư, tháng 12 23, 2015
sống khỏe
No comments
Thuốc dùng để hạ sốt hiện nay rất phong phú, đa dạng, dễ kiếm, dễ sử dụng nhưng đối tượng người dùng cũng vô cùng phức tạp. Điều quan trọng là dùng thuốc sao cho đúng và an toàn, đạt hiệu quả chữa bệnh tối ưu... Trên thực tế vẫn gặp nhiều trường hợp bị ngộ độc thuốc do việc tự ý dùng thuốc chưa đúng của người dân.
Tâm lý dùng cho chắc
Nhà bên có cháu nhỏ mới 5 tháng tuổi, vừa đi tiêm phòng vaccin về cháu hâm hấp sốt. Đây cũng là phản ứng rất bình thường của cơ thể. Nhưng vì quá lo lắng nên khi cặp nhiệt độ cho con thấy 37,5 độ C, chị Thúy (mẹ của cháu) vội cho con dùng ngay thuốc hạ sốt để ngăn chặn sốt có thể tăng cao.
Chị cho rằng, sốt nhẹ thì dùng phương án nhẹ nhất là dán cao. Bởi theo chị dùng thuốc viên thì phải sốt nặng hơn, trên 38 độ C và thuốc đạn là nặng nhất (39 - 40 độ C). Nếu con sốt cao trên 38 độ C thì chị sẽ cho uống thuốc hoặc viên đạn nhét hậu môn.
Qua đó có thể thấy rằng nhiều người dùng thuốc hạ sốt mà chưa hiểu về bản chất của sốt và công dụng của các loại thuốc.
Chườm mát kết hợp với thuốc hạ sốt khi trẻ bị sốt cao |
Sự thật như thế nào?
Sự thật là các thuốc hạ sốt đều có chung hoạt chất giống nhau, chúng chỉ khác nhau ở dạng bào chế. Hiện nay, có hai loại thuốc hạ sốt cơ bản thông thường là acetaminophen (paracetamol) và axít acetylsalicylic (aspirin). Các loại thuốc khác như bạc hà chỉ tạo ra cảm giác lạnh, hydrogel chỉ là dạng tinh thể ngậm nước (như trong miếng dán lạnh) không phải là thuốc hạ sốt. Các thuốc chỉ khác nhau ở dạng bào chế là thuốc dạng viên nén, viên sủi, dạng viên đạn nhét hậu môn, dạng gel bôi, dạng bột trong gói và dạng cao dán.
Quan điểm của chị Thúy sai thứ nhất về phản ứng sốt. Thực ra sốt là một phản ứng cấp tính của hệ miễn dịch, tạo ra các chất trung gian hóa học của viêm, mà người ta cho rằng, các chất này chịu trách nhiệm tạo ra sốt bao gồm: các prostagladin, các cytokin và intereukin. Những chất trung gian này là chất làm sai lạc nhận cảm của hệ dưới đồi về thân nhiệt.
Lẽ ra cơ thể đang ở nhiệt độ bình thường thì chúng lại cảm nhận là nhiệt độ thấp và tăng tốc tạo ra phản ứng sinh nhiệt nhằm nâng nhiệt cơ thể lên. Ngay lập tức, cơ thể sốt cao. Nhưng ngoài tác dụng không có lợi là gây ra sốt, các chất trung gian này rất có ích về mặt miễn dịch. Chúng là các chất hóa ứng động (thu hút) bạch cầu hiệu quả. Chúng thu hút và hấp dẫn bạch cầu (các tế bào có thẩm quyền miễn dịch) đến vị trí nhiễm khuẩn và thực hiện phản ứng. Hoạt động này như là một quá trình tập luyện cho hệ miễn dịch khỏe thêm.
Vì thế, khi trẻ sốt không cao, bạn không cần phải can thiệp gì. Bạn cần để cho cơ thể tập chống chọi với các phản ứng sinh học bất lợi. Có thể nói rằng, trong trường hợp trên, phản ứng sốt nhẹ sẽ tập cho cơ thể bé khả năng chống đỡ. Nếu dùng ngay khi nhiệt độ mới tăng nhẹ lên như trên, thực không thu được lợi ích lớn.
Sai lầm thứ hai ở quan điểm chọn thuốc. Thuốc nặng nhẹ khác nhau ở liều của thuốc chứ không ở dạng bào chế. Quan điểm cho rằng thuốc dán thì nhẹ hơn thuốc viên, thuốc viên thì không mạnh bằng thuốc đạn là phi thực tế. Dù là thuốc dán, thuốc viên, thuốc bột hay thuốc viên đạn thì chúng đều được bào chế dưới công nghệ sao cho chất chính (là thuốc hạ sốt) có thể ngấm dễ dàng và đi vào cơ thể.
Chất thuốc từ miếng dán sẽ ngấm qua da và vào trực tiếp hệ thần kinh. Thuốc đạn và thuốc viên sẽ đi qua thành ruột, vào máu rồi cũng lên hệ thần kinh. Khả năng hạ sốt hoàn toàn phụ thuộc vào lượng thuốc tồn trong máu chứ không phụ thuộc vào việc bạn chọn miếng dán hay gói bột, gel bôi.
Dùng cho đúng
Vậy dùng đúng thuốc hạ sốt thế nào cho đúng để vừa tránh được những tai biến do thuốc gây ra và đạt được hiệu quả.
Thứ nhất, dùng đúng thời điểm: Bạn chỉ nên dùng khi em bé có nhiệt độ sốt cao từ 38,5 độ C trở lên. Từ 37,1- 38,4 độ C là mức độ sốt nhẹ, an toàn với trẻ và mang tính kích thích miễn dịch.
Thứ hai, dùng đúng loại thuốc: Bé bị trớ thì dùng thuốc cao dán, thuốc viên đạn. Bé bị tiêu chảy thì dùng thuốc cao dán và thuốc uống. Nếu bé có phát ban ở da thì không dùng miếng dán hạ sốt.
Thứ ba, dùng đúng liều: Không nên dùng quá 2.000 mg /ngày (4 viên 500 mg) với người lớn và 1.000mg/ngày (4 gói 250mg) với trẻ em. Khi dùng cho trẻ em phải tính toán liều lượng (hoặc theo sự chỉ định cụ thể của bác sĩ hoặc là phải tính toán theo cân nặng trong hướng dẫn sử dụng thuốc để tính liều).
Thứ tư, kết hợp đúng cách: Trước hết, nên hạ sốt bằng các biện pháp vật lý như chườm mát (nước từ 25 độ C trở lên), lau nước mát. Sau đó nếu bé vẫn sốt thì cho uống thuốc hoặc kết hợp uống thuốc và lau mát. Nhớ là chỉ lau tối đa 3 lần trong cơn sốt. Lau lần 1 khô thì mới lau tiếp lần 2, lần 3.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Những lầm tưởng về isotretinoin trị mụn
Thứ Tư, tháng 12 23, 2015
sống khỏe
No comments
Dạo qua một vòng các diễn đàn, hội nhóm làm đẹp và trị mụn, ta có thể dễ dàng bắt gặp các chị em tư vấn cho nhau sử dụng isotretinoin để điều trị mụn. Song, việc tự sử dụng isotretinoin tiềm ẩn những nguy cơ gì và làm thế nào để sử dụng thuốc hợp lý, an toàn là điều mà rất nhiều người còn băn khoăn...
Isotretinoin là gì?
Isotretinoin là thuốc được chỉ định để điều trị mụn trứng cá nặng không đáp ứng với các biện pháp điều trị khác, đặc biệt là mụn bọc. Ngoài ra, isotretinoin còn được dùng trong điều trị trứng cá đỏ và viêm tuyến mồ hôi nhiễm trùng, viêm nang lông sừng hóa (bệnh Darier), sừng hóa lòng bàn tay bàn chân, bệnh vảy phấn đỏ chân tóc.
Về isotretinoin, loại thuốc đầu tiên được đưa ra thị trường Mỹ vào năm 1982 và nhanh chóng trở thành một trong số những thuốc được kê đơn nhiều nhất. Tiếp sau đó là hàng loạt báo cáo về tác dụng không mong muốn gặp phải của bệnh nhân khi dùng thuốc. Các tác dụng không mong muốn thường gặp bao gồm thay đổi công thức máu, đau đầu, viêm kết mạc, khô mắt, tăng triglycerid (một loại mỡ trong máu có hại), tăng transaminase (một loại men do gan sản xuất), giảm HDL (một loại mỡ có lợi trong máu)...
Trong đó, đáng chú ý là các tác dụng không mong muốn như: quái thai, trầm cảm và có khuynh hướng tự tử. Mặc dù các tác dụng không mong muốn này đều hiếm gặp (tần suất ≤1/10.000), nhưng hậu quả nếu xảy ra thì lại rất nghiêm trọng.
Cho tới nay, không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước khác trên thế giới, các sản phẩm chứa hoạt chất isotretinoin vẫn lưu hành rộng rãi dù việc sử dụng thuốc vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi lớn như có nên cho phép sử dụng isotretinoin hay không và nếu có thì các biện pháp bảo đảm an toàn khi sử dụng thuốc là gì. Những người đang sử dụng isotretinoin vẫn còn có nhiều quan niệm sai lầm về thuốc này.
Thuốc isotretinoin có thể điều trị các dạng mụn trứng cá
Những quan niệm sai lầm thường gặp
Isotretinoin là một loại mỹ phẩm, thực phẩm chức năng: Quan niệm sai lầm này rất thường gặp dẫn đến bệnh nhân có thói quen tự mua thuốc và uống mà không có sự chỉ định sau khi thăm khám của bác sĩ dẫn đến không được tư vấn kỹ càng để lại những hậu quả rất nghiêm trọng do tác dụng không mong muốn của thuốc. Cần lưu ý rằng, isotretinoin là thuốc và chỉ được dùng khi có chỉ định của bác sĩ.
Tác dụng không mong muốn của thuốc là gây quái thai và dị tật ở thai nhi vì thế chỉ có nữ mới cần quan tâm, bệnh nhân nam có thể uống mà không cần lo lắng tới tác dụng không mong muốn này: Lầm tưởng này rất phổ biến ở nam giới và nam giới thường nghĩ rằng có thể yên tâm sử dụng thuốc. Đến nay, chưa có nghiên cứu đầy đủ nào khẳng định sử dụng isotretinoin là an toàn với phôi thai có bố sử dụng isotretinoin. Do vậy, nam giới không nên có con trong thời gian sử dụng isotretinoin.
Khi nào muốn có con thì dừng uống thuốc là được: Isotretinoin là một loại thuốc có khả năng tích lũy trong cơ thể, vì vậy khi ngừng thuốc mà có con ngay bệnh nhân vẫn có thể gặp phải những nguy cơ sinh con quái thai - dị tật tương đương như nguy cơ dùng thuốc trong thời kỳ mang thai.
Dùng thế nào cho an toàn?
Để dùng thuốc an toàn hiệu quả, bệnh nhân cần lưu ý một số điểm sau: Chỉ sử dụng thuốc khi được thăm khám và kê đơn của bác sĩ. Với cả bệnh nhân nam và nữ: không dùng thuốc nếu có dự định có thai trong vòng 3 tháng tới. Phải có biện pháp tránh thai trong vòng 3 tháng trước, trong và sau khi dùng thuốc (tốt nhất là 1 năm). Nếu là bệnh nhân nữ, phải chắc chắn không mang thai trước khi sử dụng thuốc.
Không dùng thuốc đối với phụ nữ đang cho con bú. Do thiếu các dữ liệu về an toàn và hiệu quả nên thuốc không được dùng với trẻ em dưới 12 tuổi. Lưu ý rằng, thuốc có thể gây trầm cảm và có khuynh hướng tự tử. Vì vậy, với trẻ em trên 12 tuổi khi dùng thuốc, phụ huynh cần có theo dõi sát sao, để phát hiện và phân biệt những thay đổi tâm lý của trẻ là do lứa tuổi hay do tác dụng không mong muốn của thuốc.
Một trong số những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng isotretinoin là gây khô da, tăng nhạy cảm của da và sẹo hình thành do da bị mài mòn. Vì vậy không dùng những sản phẩm có tính chất tẩy da như kem lột da mặt, sữa rửa mặt có độ pH quá cao hay thấp, đắp mặt nạ có tính acid như các mặt nạ chứa nước cốt chanh hay trái cây có tính chất tẩy da. Việc này sẽ làm tình trạng sẹo mụn trở nên trầm trọng hơn và làn da yếu hơn gây giảm hiệu quả của việc điều trị mụn.
Isotretinoin là một loại thuốc có nhiều tác dụng không mong muốn có thể để lại hậu quả nghiêm trọng nếu sử dụng không đúng cách. Vì vậy, cần cân nhắc lợi ích và nguy cơ trước khi sử dụng và khi sử dụng cần tuân thủ chặt chẽ theo hướng dẫn của bác sĩ kê đơn.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Dùng thuốc chống trầm cảm dễ sinh con tự kỷ
Thứ Tư, tháng 12 23, 2015
sống khỏe
No comments
Thai phụ bị trầm cảm dù được điều trị hay không cũng có khả năng ảnh hưởng xấu đến sức khỏe đứa trẻẢnh: HEALTHDAY NEWS
Trong khảo sát được công bố trên tạp chí JAMA Pediatrics của Hội Y khoa Mỹ, GS Anick Bérard và cộng sự đã theo dõi 145.456 trẻ em trong 10 năm đầu đời, xem xét việc sử dụng thuốc trầm cảm của mẹ các bé khi mang thai và ghi nhận có 1.054 trẻ mắc bệnh tự kỷ.
Họ nhận thấy trẻ có mẹ dùng thuốc chống trầm cảm ở 6 tháng cuối thai kỳ có tỉ lệ nguy cơ mắc bệnh tự kỷ cao hơn 87% so với trẻ khác. Nguy cơ đó còn cao hơn do mẹ dùng dạng thuốc chứa chất ức chế tái hấp thu seretonin có chọn lọc (SSRI) như escitalopram (Lexapro), fluoxetine (Prozac) và sertraline (Zoloft).
Tuy nhiên, không điều trị trầm cảm có thể khiến thai phụ ăn ít gây thiếu dinh dưỡng, không khám thai định kỳ hoặc có hành vi nguy cơ như uống rượu, hút thuốc lá... ảnh hưởng nghiêm trọng lên sức khỏe thai nhi và đứa con tương lai. GS Bérard đề xuất giải pháp khác như trị liệu tâm lý, tập thể dục đối với thai phụ bị trầm cảm nhẹ.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Thuốc trị bệnh huyết trắng
Thứ Tư, tháng 12 23, 2015
sống khỏe
No comments
Bệnh huyết trắng là một trong những bệnh phụ khoa mà hầu hết phụ nữ nào cũng đã có lần mắc phải. Bệnh ảnh hưởng tới sức khỏe và cần điều trị dứt điểm tránh tái đi tái lại.
Bệnh huyết trắng
Huyết trắng (còn gọi là khí hư) bình thường khi có màu trắng đục hoặc trong, ít, không hôi, không gây ngứa âm hộ, không đau khi giao hợp... Huyết trắng có vai trò giữ cho âm đạo luôn ẩm, chống các vi khuẩn gây bệnh xâm nhập cơ thể. Tuy nhiên, khi nhiều mầm bệnh tấn công vượt quá khả năng bảo vệ của loại dịch này dẫn đến viêm nhiễm gọi là bệnh huyết trắng.
Huyết trắng bệnh: Số lượng nhiều, hôi, có màu vàng, xanh, trắng đục đóng thành váng; gây ngứa, bỏng rát, giao khi hợp đau, tiểu đau, tiểu nhiều lần, đau âm ỉ vùng bụng dưới. Tác nhân gây ra bệnh huyết trắng có thể là do nấm men, tạp trùng hoặc trùng roi. Cũng có tình trạng huyết trắng ra nhiều do viêm lộ tuyến cổ tử cung hoặc u xơ tử cung.
Bệnh huyết trắng không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng gây phiền toái và cảm giác khó chịu cho phụ nữ. Nếu để tình trạng bệnh kéo dài, lây lan, tái phát nhiều lần sẽ dẫn đến nguy cơ vô sinh, ung thư cổ tử cung...
Đối với phụ nữ mang thai: bệnh huyết trắng nếu chữa khỏi ở giai đoạn đầu sẽ không ảnh hưởng đến thai nhi. Tuy nhiên, nếu huyết trắng do nấm kéo dài, không điều trị sẽ làm viêm nhiễm, thủng màng ối hay rỉ ối dẫn đến sinh non.
Ảnh minh họa
Và thuốc trị
Để điều trị bệnh huyết trắng, cần căn cứ vào nguyên nhân gây bệnh để dùng thuốc.
Huyết trắng do Candida albicans: có màu trắng đục, dính từng mảng, có lúc có mùi hôi, kèm theo triệu chứng ngứa ở âm hộ. Điều trị: đặt âm đạo bằng thuốc miconazole hay clotrimazole trong 6 ngày, kết hợp uống fluconazole, liều duy nhất (1 viên).
Huyết trắng do nhiễm Trichomonas Vaginalis: có màu vàng - xanh, loãng, có bọt, với số lượng nhiều, kèm theo triệu chứng ngứa rát âm hộ, có cảm giác như có con gì bò trong âm đạo, giao hợp đau, tiểu nóng. Điều trị: uống viên tinidazole hoặc secnidazole liều duy nhất.
Huyết trắng do tạp trùng: có màu vàng hoặc xám, loãng, tráng đều thành âm đạo, có mùi hôi. Điều trị: uống metronidazol liều duy nhất hoặc dùng liều uống trong 7 ngày.
Lưu ý: Các thuốc điều trị bệnh huyết trắng có nhiều tên biệt dược và hàm lượng khác nhau. Vì vậy, khi có biểu hiện bất thường ở vùng kín, chị em cần đi khám phụ khoa để được tư vấn và dùng thuốc. Cần tuân thủ chặt chẽ liều điều trị của bác sĩ. Không bỏ thuốc giữa chừng hay tự ý dùng thuốc, bệnh sẽ nặng hơn hoặc dễ tái phát, việc điều trị sẽ càng khó khăn.
Để phòng tránh bệnh huyết trắng, chị em cần vệ sinh vùng kín một cách khoa học, kết hợp với một chế độ ăn đầy đủ rau xanh, dưỡng chất và thói quen sinh hoạt lành mạnh một vợ một chồng. Không dùng dung dịch rửa quá nhiều lần trong ngày, bỏ thói quen thụt rửa âm đạo vì có thể làm thay đổi độ pH. Năng thay quần lót, tránh mặc quần ẩm ướt, luôn giữ cho vùng kín khô thoáng...
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317
Những bệnh không nên dùng vitamin
Thứ Tư, tháng 12 23, 2015
sống khỏe
No comments
Vitamin là thuốc bổ, cung cấp những dưỡng chất cần thiết cho cơ thể, có khả năng phòng chống bệnh tật. Nhưng không phải tất cả vitamin lúc nào cũng bổ, mà ngược lại có một số loại bệnh nếu dùng một số loại vitamin sẽ càng làm cho tình trạng bệnh xấu đi.
Bệnh tim mạch
Đối với bệnh nhân mắc bệnh tim mạch, nếu uống vitamin E quá liều thì tỷ lệ phát bệnh phải nhập viện tăng gần 20%. Ngoài ra, người bệnh tim không được dùng thuốc có chứa kali ở liều cao (trên 3.500mg mỗi ngày), vì lượng kali dư thừa cũng sẽ làm tim đập nhanh và loạn nhịp tim.
Vitamin & B1 thúc đẩy nhanh tiến triển bệnh ung thư
Bệnh đái tháo đường
Vitamin B3 giúp giảm lượng cholesterol, giúp ích cho quá trình tuần hoàn máu và hình thành hệ thần kinh. Nhu cầu vitamin B3 hàng ngày của người trưởng thành là từ 15 - 18mg. Nhưng với người bệnh đái tháo đường, nếu dùng vitamin B3 hàng ngày gây tăng cường phân giải glycogen nên làm tăng đường huyết. Do đó, người mắc bệnh đái tháo đường cần lưu ý điều chỉnh liều dùng thuốc kiểm soát đường huyết khi phối hợp với vitamin B3.
Bệnh tăng huyết áp
Trong khi dùng thuốc chữa tăng huyết áp, nhiều người thường phối hợp dùng vitamin C làm tăng cường khả năng miễn dịch. Loại vitamin C dạng sủi được ưa chuộng. Trong viên sủi chứa nhiều natribicarbonat (NaHCO3) làm tăng lượng Na như người dùng nhiều muối trong bữa ăn hàng ngày. Na kéo ion canxi (Ca 2) vào nhiều trong nội bào.
Chính Ca 2 khi vào nội bào nhiều sẽ gắn kết với phức tropomin C làm thay đổi cấu trúc không gian của phức này, bộc lộ actin, tạo điều kiện cho actin kết hợp với myosin gây co cơ. Sự co cơ thành tiểu động mạch tăng sẽ cản trở lưu thông máu dẫn tới tăng huyết áp. Như vậy, tá dược NaHCO3 trong viên sủi C làm giảm hiệu lực của thuốc chữa tăng huyết áp.
Bệnh ung thư
Người ta đã nói tới nhiều loại vitamin có khả năng phòng chống ung thư, nhưng ngược lại cũng có nhiều loại vitamin không những không góp phần ngăn chặn sự phát triển của ung thư mà lại “tiếp tay” cho các tế bào ác tính có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng lớn lên và di căn đến nhiều nơi khác.
Vitamin B1: Đây là loại vitamin không thuộc diện chống chỉ định cho những bệnh nhân ung thư nhưng phải hết sức thận trọng khi dùng cho các bệnh nhân này. Một số bệnh nhân ung thư như bệnh ung thư máu (bệnh bạch cầu), bệnh ung thư đường tiêu hóa và một số khối u ác tính tiến triển nhanh đều gây ra hậu quả thiếu hụt vitamin B1.
Hơn nữa, khi dùng các thuốc điều trị khối u cũng phát sinh ra sự thiếu hụt này dẫn đến những hậu quả như tê bì, suy giảm trí nhớ và tăng lượng acid lactic trong máu (gây tình trạng toan hóa máu).
Vì vậy, người bệnh ung thư thường được bác sĩ chỉ định cho dùng bổ sung vitamin B1 trong quá trình điều trị. Nhưng nếu dùng quá nhiều vitamin B1 cho bệnh nhân thì lại gây ra sự tăng trưởng của các khối u làm cho ung thư tiến triển mau hơn.
Vitamin B12: Vitamin B12 được biết đến đầu tiên với tác dụng chống lại bệnh thiếu máu có hồng cầu to (bệnh Biermer) và tăng cường chuyển hóa đối với các nơron thần kinh nên thường được dùng phối hợp với vitamin B1 và vitamin B6để điều trị nhiều căn bệnh đau nhức, tê bại...
Về tác dụng được lý, vitamin B12 có khả năng làm cho các tế bào tăng trưởng mạnh, vì thế bệnh nhân mắc bệnh thiếu máu hồng cầu to sau khi được điều trị bằng vitamin B12 đã nhanh chóng hồi phục.
Về mặt cơ chế bệnh sinh, ung thư cũng là một căn bệnh mà sự phát triển các tế bào ác tính là vô tổ chức và không thể kiểm soát nổi. Các thuốc điều trị ung thư đều nhằm tiêu diệt tế bào hoặc là kìm hãm sự phát triển của chúng. Nhưng vitamin B12 lại tác dụng ngược lại kích thích các tế bào phát triển nhanh hơn. Vì vậy, việc dùng vitamin B12 cho bệnh nhân ung thư chỉ là làm cho bệnh càng tiến triển nhanh hơn mà thôi.
Lời khuyên của thầy thuốc
Vitamin là loại thuốc dễ bị lạm dụng nhất vì mọi người thường nghĩ đó là thuốc bổ thì ai cũng có thể dùng được. Đây là thói quen không có lợi cho sức khỏe. Hơn nữa, một số vitamin không phải lúc nào cũng tốt mà thậm chí còn gây hại cho sức khỏe nếu dùng không đúng. Vì vậy, khi cần dùng vitamin, mọi người nên tham khảo ý kiến của thầy thuốc. Cách tốt nhất để bổ sung vitamin cho cơ thể là thông qua thực phẩm ăn uống hàng ngày.
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317