Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015

Ngứa dương vật dùng thuốc gì?

Ngứa dương vật, còn ảnh hưởng đến quan hệ tình dục và những sinh hoạt hàng ngày, khi cơn ngứa xảy ra vào ban đêm thường gây ra mất ngủ.
Nguyên nhân và triệu chứng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngứa dương vật như:
- Do ẩm ướt, vệ sinh kém.
- Dị ứng hoặc kích ứng với các thành phần của xà phòng, chất tẩy rửa, chất liệu của quần lót hay mặc quần lót quá chật…
- Các bệnh lý gây ra do virút (mụn rộp sinh dục), vi khuẩn (viêm bao quy đầu, bệnh lậu…), ký sinh trùng (bệnh ghẻ, rận mu, nhiễm trichomonas…) hay do nhiễm nấm (nấm bẹn).
Ngoài những nguyên nhân đã xác định trên, còn có dạng không xác định được nguyên nhân, được gọi là vô căn.
Triệu chứng: ngứa; đỏ da; sưng; đau; bỏng rát; nổi mụn nước.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngứa dương vật
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngứa dương vật
Nhiễm khuẩn: tiết dịch, có mùi hôi.
Các triệu chứng có thể biểu hiện với mức độ nặng nhẹ khác nhau và xảy ra trong một thời ngắn hay kéo dài tùy theo nguyên nhân gây bệnh.
Thuốc điều trị ngứa dương vật
Thuốc được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật tùy theo nguyên nhân gây ra bệnh. Sau đây là các nhóm thuốc thường được sử dụng:
Nhóm thuốc kháng histamin H1:
Nhóm thuốc kháng histamin H1 thường được dùng ở dạng thuốc viên, có tác dụng ngăn chặn sự hoạt động của histamin gây ngứa, nên thường được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật.
Thuốc kháng histamin H1 được chia làm 2 loại:
Loại thế hệ cũ (chlorpheniramin, dexchlorpheniramin…) tác động ức chế lên hệ thần kinh trung ương nên gây buồn ngủ (cần tránh sử dụng khi lái xe, vận hành máy móc..). Các thuốc này sử dụng thích hợp khi NAD gây mất ngủ.
Loại thế hệ mới (Loratadin, cetirizin…) do không tác động lên hệ thần kinh trung ương nên không gây buồn ngủ.
Nhóm thuốc corticosteroid:
Nhóm thuốc corticosteroid (hydrocortison, betamethason, prednisolon..) thường được dùng ở dạng thuốc viên, thuốc mỡ, kem…, có tác dụng kháng viêm, kháng dị ứng chống ngứa, nên được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật.
Hai nhóm thuốc trên thường được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do dị ứng.
Nhóm thuốc bảo vệ da:
Nhóm thuốc bảo vệ da (glycerin, bơ ca cao, mỡ cừu…) được dùng ở dạng thuốc dùng ngoài như: thuốc mỡ, kem… tạo thành một lớp bảo vệ da ngăn chặn các mô bị khô, giúp giảm ngứa, bỏng rát… do ngứa dương vật gây ra.
Nhóm thuốc làm se da:
Nhóm thuốc làm se da (calamin, oxid kẽm…) được dùng ở dạng thuốc dùng ngoài như: thuốc mỡ, kem… có tác dụng làm đông tụ protein tại chỗ nên làm se da, bảo vệ da khỏi bị ngứa, bỏng rát… do ngứa dương vật gây ra.
Hai nhóm thuốc trên thường được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do kích ứng.
Nhóm thuốc kháng virút:
Nhóm thuốc kháng virút thường dùng ở dạng thuốc dùng ngoài, thuốc viên có chứa hoạt chất kháng virút như: acyclovir, famciclovir, valacyclovir… được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do bệnh mụn rộp sinh dục (còn gọi herpes sinh dục). Bệnh mụn rộp sinh dục do virút HSV2 (Herpes simplex virút 2) gây ra.
Nhóm thuốc kháng nấm:
Nhóm thuốc kháng nấm thường dùng ở dạng thuốc dùng ngoài, thuốc viên có chứa hoạt chất kháng nấm như: nystatin, clotrimazol, miconazol… được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do nấm bẹn. Nấm bẹn (tinea cruris) do một loại nấm da gây ra, xuất hiện ở bẹn và quanh cơ quan sinh dục, với những mảng đỏ nâu, có vảy và bờ viền, gây ngứa.
Nhóm thuốc kháng Trichomonas:
Nhóm thuốc kháng Trichomonas thường dùng ở dạng thuốc viên, thuốc dùng ngoài có chứa hoạt chất như: metronidazol, ternidazol… được sử dụng trong điều trị do nhiễm Trichomonas.
Nhóm thuốc kháng sinh:
Nhóm thuốc kháng sinh thường dùng ở dạng thuốc viên, thuốc dùng ngoài có chứa kháng sinh phổ rộng như neomycin, polymycin, chloramphenicol… được sử dụng trong điều trị do vi khuẩn.
Nhóm thuốc trị rận mu:
Rận mu (pubic lice) là một loại ký sinh trùng nhỏ sống ký sinh và đẻ trứng ở lông mu của bộ phận sinh dục nam gây ra ngứa dương vật. Rận mu được lây truyền khi tiếp xúc khăn tắm, áo quần… hay quan hệ tình dục với người bị nhiễm rận mu.
Nhóm thuốc trị rận mu thường ở dạng thuốc dùng ngoài (dầu gội đầu, kem) có chứa hoạt chất pyrethrins hay permethrin 1%... được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do rận mu.
Nhóm thuốc trị bệnh ghẻ:
Bệnh ghẻ do một loại ký sinh trùng rất nhỏ gọi là con mạt (mite) sống ký sinh ở quanh bộ phận sinh dục nam gây ra ngứa dương vật. Bệnh ghẻ lây truyền nhanh khi giữ vệ sinh kém hay có sự tiếp xúc với áo quần, khăn tắm… hay quan hệ tình dục với người bị nhiễm bệnh ghẻ.
Nhóm thuốc trị bệnh ghẻ thường ở dạng thuốc dùng ngoài (kem, lotion) có chứa hoạt chất Permethrin 5% hay Crotamiton 10% được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do bệnh ghẻ.
Bên cạnh việc sử dụng thuốc, việc phòng tránh là rất quan trọng như: thường xuyên tắm rửa vệ sinh thân thể, giữ khô vùng sinh dục, tránh sử dụng các chất gây kích ứng hay dị ứng, không dùng chung khăn tắm, áo quần hay quan hệ tình dục với người nhiễm bệnh, không mặc quần lót bó sát…


Bổ sung canxi, tăng nguy cơ sỏi thận

Đối với những người có tiền sử sỏi thận, nguy cơ tái phát có thể tăng cao do bổ sung canxi.

Theo một nghiên cứu dự kiến được báo cáo tại hội nghị thường niên Hội Thận học Mỹ ở TP San Diego vào tháng tới của nhóm nghiên cứu thuộc Học viện Y khoa Lerner - BV Cleveland tại bang Ohio của Mỹ.

Theo trang tin HealthDay News, các nhà khoa học đã tham khảo hồ sơ của 2.060 bệnh nhân sỏi thận trong 2 năm, phát hiện thêm bằng chứng về mối liên quan giữa việc bổ sung canxi với nguy cơ sỏi thận tăng cao. Khoảng 1.500 bệnh nhân đã bổ sung canxi; 471 người chỉ dùng vitamin D và số còn lại không bổ sung cả 2 thứ.

Hầu hết sỏi thận có chứa canxi Ảnh: HealthDay News
Hầu hết sỏi thận có chứa canxi Ảnh: HealthDay News
Qua ảnh chụp cắt lớp vi tính (CT scan) nhóm nghiên cứu phát hiện ở những bệnh nhân bổ sung canxi, tỉ lệ hình thành sỏi mới tăng cao hơn nhiều so với 2 nhóm kia. Điều các nhà khoa học nhấn mạnh là khác với bổ sung canxi tổng hợp, việc dùng thực phẩm tự nhiên chứa nhiều canxi vẫn an toàn. Thành phần oxalate trong thực phẩm gắn kết vào canxi và được bài tiết ra ngoài chứ không dễ đọng lại thành sỏi.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu khuyến cáo bệnh nhân được thầy thuốc cho toa bổ sung canxi không nên tự ý bỏ thuốc vì một số bệnh nhân loãng xương vẫn cần bổ sung canxi theo chỉ định của bác sĩ. 
Sỏi thận phát triển do các tinh thể như canxi, axít uric và oxalate hình thành trong nước tiểu. Hầu hết sỏi thận có chứa canxi nhưng cũng có dạng sỏi khác. Bệnh nhân có dạng sỏi chứa axít uric được khuyến cáo không nên dùng hơn 170 g thịt/ngày.


Thuốc đã mở nắp: dùng được bao lâu?

Thuốc phải để nơi khô ráo, thoáng mát, tránh tiếp xúc ánh sáng trực tiếp. Sau khi mở nắp lọ thuốc, ta bảo quản thuốc theo như hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên tờ hướng dẫn sử dụng.

Ở phần hạn dùng, nhà sản xuất sẽ ghi hạn dùng sau khi mở nắp, ngày hết hạn. Chúng ta dùng thuốc trong khoảng thời gian nhà sản xuất đã khuyến cáo.
Ảnh minh họa: TL
Còn với các thuốc không có hướng dẫn cụ thể, ta bảo quản theo hướng dẫn chung sau:
- Đối với thuốc nhỏ mắt, mũi chúng ta chỉ dùng trong 14 ngày sau khi mở nắp.
- Đối với thuốc siro, hỗn dịch chứa kháng sinh, sau khi mở nắp, sử dụng trong một tuần, nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng, sử dụng trong 10-14 ngày nếu bảo quản ở tủ lạnh.
- Đối với thuốc siro, hỗn dịch không chứa kháng sinh, chỉ sử dụng trong một tháng sau khi mở nắp.
- Hỗn dịch tiêm insulin, bảo quản trong tủ lạnh (2 - 8 độ C), không để đông lạnh. Sau khi mở lần đầu, không để trong tủ lạnh. Khi đang sử dụng, hạn dùng là sáu tuần khi bảo quản dưới 25 độ C hoặc 5 tuần khi bảo quản dưới 30 độ C.
- Đối với các thuốc nước dùng ngoài da như oxy già, thuốc sát trùng (Povidine…) thì sau khi mở nắp, chỉ sử dụng trong hai tháng.
Tuy nhiên, các thuốc sau khi mở nắp thì đã tiếp xúc với không khí, có thể bị oxy hóa, biến đổi cấu trúc…và còn tùy thuộc vào cách chúng ta bảo quản nên khó nói chính xác thuốc dùng được bao lâu sau khi mở nắp. Nếu chúng ta quan sát thấy thuốc có mùi lạ, biến đổi màu sắc, hình dạng, trở nên đục, có cặn… khác với dạng của thuốc lúc ban đầu thì nên dừng sử dụng thuốc đó cho dù vẫn còn hạn dùng.
Ta chỉ nên dùng thuốc trong đợt điều trị, sau đó bỏ, không nên sử dụng thuốc kéo dài qua nhiều đợt điều trị. Để kiểm soát tốt, sau khi mở nắp, nên ghi ngày sử dụng trên vỏ thuốc để theo dõi, bảo quản được tốt hơn.


Dùng aspirin như lá chắn chống bệnh ung thư

Các nhà khoa học dự đoán nếu tất cả mọi người ở độ tuổi 50 trở lên ở Anh dùng thuốc trong 10 năm thì sẽ có cơ hội kéo dài cuộc sống thêm 20 năm cho khoảng 122.000 trường hợp. Tuy nhiên, họ cũng cảnh báo rằng aspirin có thể gây chảy máu trong và phải có tư vấn của bác sĩ trước khi sử dụng. 

Gần đây, tạp chí Annals of Oncology đã công bố một báo cáo của Đại học Queen ở London: Uống aspirin hàng ngày là chìa khóa giúp chúng ta có thể giảm thiểu bệnh ung thư sau khi ngừng hút thuốc và giảm béo phì.
chống ung thưUống Aspirin mỗi ngày có thể giúp giảm 30 - 40% các trường hợp bị ung thư ruột, dạ dày và thực quản. Ảnh BBC
Các nhà khoa học đã tiến hành kiểm tra khoảng 200 nghiên cứu về những lợi ích và tác hại của việc dùng aspirin. Họ phát hiện ra rằng thuốc làm giảm 30 - 40% các trường hợp ung thư và tử vong do ung thư ruột, dạ dày và thực quản. Theo đó, để  thấy được hiệu quả của nó thì cần uống thuốc ít nhất là 5 năm.
Bên cạnh đó cũng có những bằng chứng khác, dù còn chưa đủ thuyết phục, về việc thuốc cũng giúp giảm tử vong do ung thư vú và phổi.
GS Jack Cuzick, trưởng nhóm nghiên cứu từ trường Đại học Queen Mary ở London, kêu gọi tất cả những người khỏe mạnh trong độ tuổi từ 50 - 65 nên uống một lượng nhỏ (khoảng 75mg) thuốc mỗi ngày trong vòng 10 năm. Nó sẽ giúp giảm được ít nhất 9% trong số đó sẽ tránh được các bệnh ung thư, đột quỵ và tim mạch ở nam giới và 7% đối với nữ giới.
Ông cũng đã uống aspirin trong 4 năm qua và cho biết thêm: "Trong khi có một số tác dụng phụ nghiêm trọng mà không thể bỏ quang như loét dạ dày và chảy máu trong nếu bất cẩn, dùng aspirin hàng ngày có vẻ là điều quan trọng nhất chúng ta có thể làm để giảm thiểu bệnh ung thư sau khi ngừng hút thuốc và giảm béo phì mà cũng không hề khó để thực hiện".


Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

Ngộ độc thuốc ở trẻ em

Việc cho trẻ uống thuốc nếu không cẩn thận có thể gây nhiều tác hại xấu đến sức khỏe. Nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời có thể dẫn đến tử vong.

Thực tế cho thấy, với trẻ dưới 5 tuổi sức đề kháng còn yếu kém nên rất dễ bị các bệnh truyền nhiễm thông thường như: viêm họng, viêm mũi, viêm phổi, viêm phế quản, bệnh tay chân miệng, bệnh sốt xuất huyết, nhiễm siêu vi… 
Hầu hết trẻ bệnh đều được bác sĩ khám và kê toa thuốc để điều trị, đơn giản nhất là thuốc hạ sốt khi trẻ bị sốt cao hoặc phải uống kháng sinh khi trẻ có dấu hiệu nhiễm vi khuẩn.
Ngộ độc thuốc ở trẻ em
Biểu hiện ngộ độc thuốc ở đường tiêu hóa thường xuất hiện sớm nhất
Những nguyên nhân
Theo số liệu thống kê của ngành Y tế, ở Việt nam hàng năm có khoảng 30% số bệnh nhân đến bệnh viện cấp cứu là do ngộ độc cấp và con số tử vong chiếm khoảng 12%, trong đó không ít bệnh nhân bị ngộ độc thuốc, chủ yếu vẫn là trẻ em. 
Theo ghi nhận từ các bệnh viện chuyên Nhi đã từng xử trí ngộ độc thuốc ở trẻ em, một số loại thuốc thường gây ngộ độc cho trẻ là thuốc kháng histamine (thuốc chống dị ứng), thuốc á phiện, thuốc ngủ, thuốc nhỏ mũi (Naptazoline), thuốc hạ sốt, thuốc giảm đau nhức các loại… Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngộ độc thuốc ở trẻ phụ huynh cần chú ý như sau:
Người nhà tự ý mua thuốc về nhà điều trị cho trẻ mà chưa có chỉ định của bác sĩ, vì không rõ liều dùng an toàn nên khi cho trẻ em uống phụ huynh có thể cho trẻ uống quá liều có thể làm cho trẻ bị ngộ độc.
Một số phụ huynh vì tâm lý "nóng vội" muốn trẻ mau chóng hết bệnh nên tự ý tăng liều thuốc cho trẻ cũng dễ dẫn đến ngộ độc, cũng không ít cha mẹ vì quá bận rộn nên sử dụng toa thuốc cũ cho trẻ uống cũng vô tình gây hại cho trẻ.
Trẻ nhỏ bị ngộ độc thuốc đôi khi do người lớn bất cẩn để thuốc điều trị thường dùng trong các hộp đựng bánh/kẹo hoặc hộp đựng bánh/mứt (nhất là những loại thuốc có màu xanh, đỏ) làm trẻ nhỏ lầm tưởng là thức ăn hay "kẹo" nên bỏ vô miệng ăn dẫn đến nguy cơ bị ngộ độc. 
Nhiều gia đình chưa chú ý việc cất giữ thuốc cẩn thận trong nhà, đặc biệt là những gia đình có trẻ tầm 2 - 3 tuổi trẻ rất thích khám phá nên nguy cơ uống nhầm thuốc của người lớn dẫn đến ngộ độc là điều khó tránh.
Một số phụ huynh thấy con biếng ăn thường xuyên, người gầy (ốm) nên khi nghe bất cứ ai mách bảo có những loại thuốc "thần dược giúp trẻ ham ăn chóng lớn" là tìm mua bằng được cho trẻ uống. Cũng đã có nhiều trường hợp ngộ độc thuốc xảy ra do cha mẹ cho trẻ uống những loại thuốc không rõ nguồn gốc, không rõ thành phần rất nguy hiểm cho sức khỏe của trẻ.
Ở lứa tuổi lớn hơn, khoảng tầm 10 - 17 tuổi, tâm sinh lý của trẻ đang có nhiều thay đổi nên trẻ rất nhạy cảm với những xung đột trong cuộc sống như trẻ bị cha mẹ hoặc thầy cô chê bai hoặc chỉ trích vì trẻ học hành sút kém, cha mẹ thường xuyên cãi vã, to tiếng khiến trẻ dễ bị tổn thường. Đã có nhiều trường hợp ngộ độc thuốc do tự tử ở trẻ em được cấp cứu tại bệnh viện là do buồn chuyện gia đình, do bị điểm kém hay bị cha mẹ, thầy cô la mắng.
Ngộ độc thuốc ở trẻ em
Không tự ý mua thuốc cho trẻ uống khi chưa được bác sĩ khám và kê đơn
Dấu hiệu nhận biết trẻ bị ngộ độc thuốc
Dấu hiệu giá trị nhất trong việc xác định trẻ có nguy cơ bị ngộ độc thuốc là cha mẹ phát hiện xung quanh trẻ có những vỉ thuốc dở dang, những bao đựng thuốc bột bị xé hoặc những chai đựng thuốc của người lớn bị văng tung tóe… Trẻ thực sự bị ngộ độc thuốc khi có những biểu hiện sau đây:
Biểu hiện ở đường tiêu hóa: thường xuất hiện sớm nhất, vì thuốc gây ngộ độc sau khi trẻ uống sẽ tác động trực tiếp tại đây khiến trẻ kêu đau bụng nhiều, trẻ buồn nôn, nôn ói nhiều, một số trẻ bị tiêu chảy.
Biểu hiện ở đường hô hấp: trẻ đột ngột ho sặc sụa nhất là trẻ nhỏ vì tâm lý hoảng sợ, nặng hơn trẻ có biểu hiện thở nhanh, tím môi, thậm chí khó thở.
Biểu hiện ở hệ thần kinh: với nhiều mức độ nặng nhẹ khác nhau như trẻ bị hôn mê hoặc co giật toàn thân, run tay chân, run giật cơ (ở mặt, ngực, đùi, cánh tay), yếu cơ sau đó là liệt cơ. Nặng hơn có thể gây liệt hô hấp, rối loạn nhịp tim.
Biểu hiện tăng tiết: trẻ bị tăng tiết đàm nhớt ở cổ họng hay đường hô hấp, dịch tiêu hóa tăng bất thường, tay chân lạnh vì vã mồ hôi, chảy nước miếng nhiều.
Điều quan trọng đối với các bậc phụ huynh khi đứng trước tình huống trẻ bị ngộ độc thuốc là phải "thật bình tĩnh thực hiện biện pháp sơ cứu ban đầu đúng cách" sau đây để bảo vệ trẻ trước những tác hại gây ra do tình trạng ngộ độc thuốc.
Nguyên tắc xử trí sơ cứu ban đầu
Cách tốt nhất là cha mẹ cần xác định xem trẻ đã uống nhầm loại thuốc gì? Với liều lượng bao nhiêu? Cần mang theo mẫu thuốc hoặc chai/lọ đựng thuốc mà trẻ đã uống báo cho bác sĩ biết, sẽ giúp trẻ được điều trị tích cực bằng những biện pháp giải độc thích hợp nhất, giúp trẻ vượt qua cơn nguy hiểm nhanh chóng.
Khi biết trẻ bị ngộ độc thuốc, phụ huynh hãy giữ trẻ ở tư thế ngồi hoặc đứng, tuyệt đối không đặt trẻ ở tư thế nằm để các chất trong dạ dày khi trẻ đang bị nôn ói nhiều không trào lên thực quản, rồi vào khí phế quản, vào phổi sẽ gây nguy hiểm cho trẻ.
Nếu thấy trẻ tỉnh táo, chưa bị nôn trớ, quan sát trẻ thấy còn phản ứng tốt, cha mẹ hãy giúp trẻ nôn/ói để loại bớt chất độc hại ra ngoài cơ thể, cha mẹ có thể dùng ngón tay của mình (tốt nhất nên quấn thêm miếng gạc mềm, sạch) kích thích nhẹ nhàng vào vùng sàn họng trẻ (chỗ lưỡi gà) giúp trẻ có thể nôn/ói bớt loại thuốc đã uống, chú ý động tác kích thích gây nôn cần nhẹ nhàng để tránh gây tổn thương vùng họng của trẻ. 
Tuyệt đối không được gây nôn trong trường hợp trẻ đã bị hôn mê, trẻ đang lên cơn co giật, đặc biệt là những trường hợp nghi ngờ trẻ vừa bị ngộ độc thuốc vừa uống nhầm hóa chất bay hơi, dung dịch tẩy rửa gây ăn mòn mạnh như axít, bazơ hoặc xăng dầu, người lớn tuyệt đối không được gây nôn cho trẻ. Nếu trẻ than đau rát vùng họng phụ huynh có thể cho trẻ uống vài ngụm nước lọc sạch hoặc nước sôi nguội để làm dịu cơn đau, chú ý cho trẻ uống thật từ từ để tránh tình trạng trẻ bị nuốt sặc.
Sau sơ cứu ban đầu, người nhà cần nhanh chóng đưa trẻ tới ngay bệnh viện gần nhất để được các bác sĩ tiếp tục cấp cứu, giải độc cho trẻ.
Nâng cao ý thức phòng ngừa tình trạng ngộ độc thuốc ở trẻ em
Để đảm bảo sự an toàn cho trẻ trước nguy cơ ngộ độc thuốc có thể gây ngại đến tính mạng của trẻ, phụ huynh cần chú ý những nguyên tắc phòng ngừa sau đây:
- Không tự ý mua thuốc cho trẻ uống khi chưa được bác sĩ khám và kê đơn. Cần cho trẻ uống thuốc đúng và đủ liều theo hướng dẫn của bác sĩ. Tuyệt đối không tự ý giảm hoặc tăng liều thuốc khi chưa có ý kiến của bác sĩ.
- Để thuốc ngoài tầm thấy, tầm với của trẻ, tốt nhất là nên cất giữ tất cả các loại thuốc điều trị của gia đình trong tủ có khóa an toàn.
- Không nên uống thuốc trước mặt trẻ, trẻ sẽ để ý và bắt chước lấy thuốc uống một cách vô tình.
- Không để thuốc trong các chai nước uống (các loại thuốc nước), hộp kẹo, hộp đựng thức ăn đề phòng trẻ nhầm tưởng là nước ngọt hoặc bánh/kẹo sẽ lấy uống.
- Không lấy các loại thuốc viên có màu xanh, màu đỏ cho trẻ chơi để dỗ trẻ ăn.
- Với các bà mẹ đang cho con bú, khi dùng thuốc phải có sự tư vấn kỹ lưỡng của bác sĩ điều trị, vì có một số loại thuốc có thể truyền qua sữa mẹ gây ngộ độc cho trẻ khi bú sữa mẹ.
- Không cho trẻ uống những loại thuốc không rõ loại, thuốc không rõ nguồn gốc xuất xứ, đặc biệt là các loại thuốc Đông y bán dạo với lời quảng bá thật hấp dẫn.
Việt Nam hàng năm có khoảng 30%số bệnh nhân đến bệnh viện cấp cứu là do ngộ độc cấp


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons