Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

Thuốc giải độc gan - chớ nên lạm dụng

Khi cơ thể bị ngứa ngáy, nổi mề đay, mụn trứng cá… nhiều người vẫn nghĩ rằng nguyên nhân của nó là do nóng gan gây ra và tự mua thuốc giải độc gan về uống.


nong-gan
Việc lạm dụng thuốc này có thể sẽ khiến người sử dụng đối mặt với nhiều phiền toái.
Ngộ nhận về nóng gan
Lá gan được coi như một nhà máy thải độc. Nó có vai trò quan trọng trong chế biến và chuyển hóa những chất hấp thu từ hệ tiêu hóa thành "nhiên liệu" nuôi dưỡng cơ thể. Cũng bởi làm việc ngày đêm và tiếp xúc với tất cả các chất lợi, hại từ thực phẩm, gan dễ bị nóng và gây ra nhiều biểu hiện khó chịu như ngứa ngáy, nổi mề đay, mụn nhọt…
Khi đối mặt với những biểu hiện này, để tiết chế sự bùng phát và làm giảm triệu chứng của nó, hầu hết mọi người đều tìm đến thuốc giải độc gan. Hành động này là hoàn toàn đúng đắn nếu như gan bạn thực sự bị nóng. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn mọi người đang nhầm dấu hiệu của bệnh gan với hàng loạt các bệnh khác.
Chẳng hạn với tình trạng nổi mề đay khắp người, nó có thể là nóng gan do dùng nhiều thuốc kháng sinh, ăn các chất cay, nóng… tuy nhiên nó cũng là biểu hiện của các nhiễm trùng đường hô hấp trên, đường tiểu, viêm xoang mãn tính hay đơn giản là dị ứng với thức ăn hoặc loại thuốc nào đó.
Một ví dụ khác là khi bị mụn nhọt trứng cá, mọi người thường nghĩ là do gan nóng, song thực tế, đó có thể là viêm nang lông tuyến bã hoặc do da bị tổn thương bởi những thói quen không tốt như sử dụng mỹ phẩm không phù hợp, thói quen nặn mụn… Còn trường hợp mẩm ngứa, trước khi kết luận nó là nóng gan, bạn hãy thử kiểm tra xem liệu hôm nay mình có tiếp xúc với các chất lạ nào không, có ăn uống gì lạ miệng không?...
Trong những trường hợp bị nhầm lẫn, tất nhiên, dùng thuốc giải độc gan đương nhiên không có tác dụng hoặc chỉ có tác dụng rất ít, không đáng kể. Khi đó, nhiều người lại biện minh rằng: "liều lượng như thế là chưa đủ giải nhiệt cơ thể" nên đã tự ý tăng liều dùng. Chỉ đến khi bệnh càng ngày càng nặng thì lúc đó họ mới nghĩ đến việc khám bệnh. Tuy nhiên, lúc ấy cũng khá muộn cho quá trình điều trị bệnh kia vì thời điểm vàng lúc mầm bệnh mới xuất hiện đã bị bỏ qua.
Như vậy, rõ ràng, gan khỏe mạnh thì sẽ giúp cơ thể da dẻ mềm mại, không mề đay mẩn ngứa, không khó chịu trong người… thế nhưng các nguyên nhân khiến bạn phải đối mặt với nhiều phản ứng tiêu cực của cơ thể không hẳn xuất phát từ lý do này. Do đó, cách tốt nhất là hãy đến bệnh viện để xin lời khuyên của bác sỹ thay vì tự bắt bệnh, kê đơn cho mình.
Thuốc tốt cũng không thể dùng mãi
thuoc
Không chỉ dùng thuốc trong những trường hợp khẩn cấp, nhiều người còn giải độc gan hàng ngày, ngay cả khi chẳng có biểu hiện gì. Thậm chí có người còn tuyên bố chắc nịch: "Cơm thì có bữa còn không ăn chứ giải độc gan thì không thể không uống". 
Lý giải về hành động này của mình, chị Nguyễn Thùy Minh (ở Huỳnh Thúc Kháng, Hà Nội) khẳng định: "Toàn là Nam dược nên mình nghĩ uống nhiều cũng chẳng sao, có phải kháng sinh đâu mà sợ. Mình hay ăn đồ cay nóng nên nếu không dùng kèm thuốc thì chả mấy ngày mà mặt mũi lại sần sùi. Thế nên đã gần một năm nay, ngày nào mình cũng uống thuốc. Con gái mình cũng được mẹ vận động uống thuốc để giảm mụn trứng cá. Phòng luôn tốt hơn tránh".
Đồng quan điểm với chị Minh, chị Vũ Thu Hà (ở Tràng Tiền, Hà Nội) chia sẻ: "Gan mát thì càng thanh lọc cơ thể tốt hơn. Không bổ dọc thì cũng bổ ngang. Hơn nữa, tôi đã lựa chọn sản phẩm có uy tín chứ đâu phải hàng trôi nổi không rõ nguồn gốc. Từ ngày uống cũng thấy mụn nhọt giảm hẳn nên tôi càng yên tâm dùng".
Khác với người tiêu dùng, BS Lê Quang Lộc (Nguyên trưởng liên khoa, trưởng phòng khám da liễu của BV Đa khoa Xanh Pôn, Hà Nội) khẳng định: "Bất cứ loại thuốc gì, dù là thuốc bổ, thuốc tốt cũng không thể lạm dụng. Thuốc giải độc gan cũng vậy. Bạn chỉ nên sử dụng nó khi gan có vấn đề hay đang phải sử dụng loại thuốc đào thải qua gan như kháng sinh, giảm đau… hoặc sau khi bị ngộ độc. 
Bình thường, gan của chúng ta đã phải hoạt động suốt ngày đêm để loại bỏ chất độc từ thức ăn, nước uống trước khi tạo thành máu đi nuôi dưỡng các bộ phận khác. Khi gan đang khỏe mạnh mà lại bắt nó uống thuốc, nghĩa là bắt nó làm thêm nhiệm vụ. Điều này sẽ gây ra tình trạng quá tải và đương nhiên không tốt cho sức khỏe. Bên cạnh đó, việc thường xuyên đưa chất lạ có trong thuốc giải độc gan vào cơ thể có thể sẽ tạo ra những phản ứng phụ như bị dị ứng, mẩn ngứa…".
Để gan khỏe
Theo BS Lộc, để gan khỏe mạnh, bạn cần duy trì thói quen ăn uống, sinh hoạt có lợi là không ăn chất cay nóng, ăn nhiều rau xanh, trái cây tươi, hạn chế đồ chiên xào nhiều dầu mỡ. Những người có chức năng gan không tốt không nên thức quá khuya, tốt nhất là nên đi ngủ trước 23g.
Thuốc lá, bia rượu cũng là những chất bắt gan phải làm việc quá nhiều để loại bỏ bớt độc tố trong nó nên bạn cũng cần hạn chế sử dụng. Tức giận sẽ làm suy giảm hệ miễn dịch, tổn thương đến gan, do đó, bạn hãy thư giãn và học cách kìm chế cảm xúc.
Để giảm áp lực làm việc cho gan, bạn không nên tùy tiện sử dụng các loại thuốc mà không có hướng dẫn của bác sỹ, ngay cả các loại thuốc tưởng như rất lành tính như giải độc gan. Và cuối cùng, hãy khám sức khỏe định kỳ để có thể phát hiện ra những mầm bệnh ngay từ khi nó mới bắt đầu hình thành.


Những nguy hại của việc dùng thuốc trong thời gian cho con bú

Trong thời gian cho con bú, người mẹ nên hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc. Trong điều kiện nhất thiết phải sử dụng thuốc phải có chỉ định của bác sĩ.

dung thuoc trong thoi gian cho con bu
Thông thường khi dùng thuốc, có khoảng 1% lượng thuốc được thải qua sữa mẹ trong 24 giờ; một vài loại thuốc có thể thải đến 5%. Cần thận trọng vấn đề này vì trẻ có thể bị ảnh hưởng do mẹ sử dụng thuốc khi cho con bú. 

Lời khuyên của thầy thuốc

Khi chữa bệnh ngắn ngày cho người mẹ, bác sĩ nên chọn phác đồ điều trị hợp lý, tương ứng với việc bú sữa của con. Nếu trường hợp bắt buộc phải tạm ngừng cho con bú, vẫn phải cần giữ vững quá trình lên sữa để sau khi người mẹ thôi đợt điều trị là trẻ có thể tiếp tục bú lại được ngay. 

Việc sử dụng thuốc với liều lượng cao của bất kỳ loại thuốc nào cũng cần thận trọng, nhất là các loại thuốc mới chưa được thử nghiệm lâm sàng kỹ càng thì nên tránh dùng. 

Đối với một số loại thuốc không cấm sử dụng đối với người mẹ cho con bú nhưng nếu dùng thì người mẹ nên uống thuốc khoảng 15 phút sau khi cho con bú hoặc từ 3 - 4 giờ trước lần cho bú tiếp theo; nếu thực hiện được như vậy thì nồng độ thuốc trong sữa mẹ sẽ rất thấp khi trẻ bú và ít gây ảnh hưởng cho trẻ.

Thuốc sử dụng thải qua sữa mẹ

Các nhà khoa học xác định khi sử dụng thuốc điều trị, người mẹ có thể thải lượng thuốc qua sữa do nhiều yếu tố có liên quan đến người mẹ, đến trẻ bú mẹ và sinh lý tuyến vú. 

Đối với người mẹ, việc thải thuốc qua sữa phụ thuộc liều lượng thuốc, số lần dùng thuốc trong ngày, đường dùng thuốc, thời gian bán thải của thuốc ở huyết tương người mẹ... 

Đối với trẻ bú mẹ, thuốc được thải qua sữa làm ảnh hưởng đến trẻ thường phụ thuộc vào số lượng sữa trẻ bú, giờ cho bú với thời điểm mẹ dùng thuốc và giờ lên sữa ở tuyến vú; đồng thời cũng có liên quan đến thời gian, khối lượng và khoảng cách giữa những đợt bú; khả năng hấp thu, chuyển hóa và thải trừ thuốc ở trẻ... 

Đối với sinh lý tuyến vú, thuốc thải qua sữa phụ thuộc vào lưu lượng máu ở vú, thời điểm lên sữa, độ pH của sữa...

Thực tế cho thấy, nhiều loại thuốc khi người mẹ sử dụng có thể tiết qua sữa nhưng do có nồng độ thấp ở sữa mẹ nên chưa đủ khả năng gây ra các phản ứng có hại cho trẻ bú. 

Thông thường những loại thuốc khi vào cơ thể đều được chuyển hóa qua gan và thải trừ qua thận; nếu người mẹ mắc bệnh suy gan hoặc suy thận thì thuốc sẽ có nồng độ rất cao ở trong máu và trong sữa mẹ. Vì vậy, cần chú ý đến những trường hợp này để phòng tránh gây ngộ độc khi cho trẻ bú sữa mẹ, đồng thời nên điều chỉnh liều dùng thuốc hợp lý cho người mẹ.

Các nhà khoa học đã ghi nhận được những loại thuốc người mẹ sử dụng có thể làm ảnh hưởng khi cho con bú sữa như: dùng thuốc ngủ, rượu, dẫn chất benzodiazepin... con có thể bị ức chế hệ thần kinh trung ương; dùng thuốc reserpin trẻ có thể bị ngạt mũi; dùng tetracyclin làm trẻ chậm lớn, vàng răng và hỏng răng; dùng thuốc tẩy nhóm anthraquinon làm tăng nhu động ruột, gây tiêu chảy cho trẻ; dùng muối iod chất đồng vị phóng xạ I131, thiouracil ảnh hưởng xấu đến tuyến giáp trạng của trẻ. 

Ngoài ra, nếu dùng các hợp chất Hg, Pb, As sẽ gây ngộ độc cho trẻ; dùng những chất chống chuyển hóa có thể làm cho trẻ gặp nhiều tai biến. 

Khi người mẹ cho con bú có thói quen uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện sẽ làm cho những chất độc hại ở trong đó có nồng độ cao ở trong sữa; vì vậy cần phải quan tâm đến việc giữ gìn sức khỏe cho con. Cũng cần thận trọng khi sử dụng thuốc gây methemoglobin.

Trong thời gian cho con bú, nếu người mẹ dùng các thuốc chống thụ thai chứa oestrogen, progesteron sẽ làm thay đổi biểu mô âm đạo của trẻ gái, vú to ra, cốt hóa nhanh ở xương. 

Các thuốc kháng sinh thuộc loại lactam như penicilin, ampicilin, amoxicilin, cephalosporin... tuy ít thải qua sữa mẹ nhưng người mẹ cũng nên tránh dùng khi cơ địa dị ứng có tính chất gia đình hoặc khi trẻ bị đi tiêu lỏng. Dù sao lượng kháng sinh loại lactam trong sữa mẹ ít nhưng cũng có thể gây kháng khuẩn ở trẻ, làm rối loạn tạp khuẩn ruột hoặc bị phản ứng mẫn cảm.

Thuốc cấm dùng và thuốc được dùng khi cho con bú

Các nhà khoa học khuyến cáo để bảo đảm an toàn cho trẻ khi bú mẹ, cấm các bà mẹ dùng một số loại thuốc khi cho con bú sữa vì có thể tạo nên những tai biến cho trẻ như thuốc tổng hợp kháng giáp trạng gây tai biến thiểu năng giáp trạng, bướu giáp; thuốc co-trimoxazol gây tai biến về máu. Thuốc chống đông máu, kháng vitamin K gây tai biến chảy máu; thuốc chống ung thư và ức chế miễn dịch gây ức chế miễn dịch. Thuốc lithium gây rối loạn thần kinh, nội tiết. 

Thuốc chloramphenicol gây suy tủy. Thuốc ức chế a xít dạ dày cimetidin, ranitidin... làm giảm độ toan dạ dày, thay đổi hấp thu những thuốc qua ống tiêu hóa. Thuốc glucocorticoid gây suy thượng thận. Thuốc metronidazol và các nitro-imidazol khác gây chán ăn, nôn, rối loạn công thức máu. Thuốc reserpin gây chảy sữa, ngủ lịm, phù nề mí mắt, chảy nước mũi.

Ngoài các loại thuốc được khuyến cáo cấm sử dụng đã nêu trên, người mẹ cho con bú có thể dùng một số thuốc điều trị nếu có chỉ định cần thiết nhưng cần phải theo dõi chặt chẽ nhằm phát hiện tai biến xảy ra ở trẻ bú sữa để ngừng ngay thuốc và xử trí kịp thời. 

Các loại thuốc người mẹ được dùng như: thuốc sulfamid có thể gây vàng da nhân não là vàng da sớm ở trẻ sơ sinh gây nguy hiểm; thuốc có dẫn chất benzodiazepin như; diazepam, oxazepam... gây ngủ gà, chậm tăng cân; thuốc phenytoin gây ngủ gà, nôn; thuốc carbamazepin gây ngủ gà; thuốc aspirin dùng dài ngày làm giảm tỷ lệ prothrombin, giảm dính kết tiểu cầu; thuốc phong bế dùng dài ngày gây nhịp tim chậm, giảm huyết áp, giảm đường huyết; thuốc theophylin gây trạng thái hưng phấn, làm nhịp tim nhanh, khó ngủ, rối loạn tiêu hóa...

Trên thực tế, các nhà khoa học xác định có một số loại thuốc điều trị cấm sử dụng hẳn trong thời kỳ người mẹ cho con bú vì chúng có thể gây nên những phản ứng có hại hay tai biến không tốt cho con. 

Tuy vậy, khi người mẹ bị mắc một bệnh nào đó cần phải điều trị khi bác sĩ kê đơn thuốc hoặc nhân viên nhà thuốc, hiệu thuốc cấp bán thuốc cho người mẹ đang cho con bú cần có một phản xạ nghĩ ngay đến lượng thuốc dùng được thải qua sữa để cân nhắc. Trước những tai biến có thể xảy ra đối với với trẻ trong thời kỳ bú mẹ, cần phải thận trọng vấn đề dùng thuốc ở người mẹ. 

Trong trường hợp nếu cấm người mẹ sử dụng một loại thuốc nào đó đang khi cho con bú nhưng vì bị mắc bệnh cần phải dùng thuốc để điều trị bệnh thì cũng phải cho người mẹ dùng; thời gian này nên cho trẻ tạm ngừng bú mẹ và dùng nguồn sữa khác ở bên ngoài.

Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

Những bí mật về vitamin

1. Vitamin không có tác dụng chữa bệnh
Nhiều người lầm tưởng khi cho rằng bổ sung vitamin sẽ giúp cơ thể chữa trị được những chứng bệnh như cảm lạnh, ung thư, suy nhược hay tim mạch…
Tuy nhiên, trên thực tế vitamin không có tác dụng đó, nó chỉ có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch và phòng tránh nguy cơ mắc các chứng bệnh đó.
Vây nên không thể sử dụng vitamin thay thế thuốc mà chỉ có thển dùng nó để phòng tránh và hỗ trợ quá trình điều trị mà thôi.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
2. Lạm dụng vitamin sẽ gây hại
Đừng nghĩ rằng bổ sung càng nhiều vitamin càng có lợi cho cơ thể, vitamin chỉ có thể phát huy tác dụng nếu như bạn biết cách tiết chế và sử dụng đúng liều lượng.
Ví như loại vitamin hòa tan nhờ chất béo như vitamin A, D, E và K khi được thu nạp một lượng lớn vào cơ thể sẽ gây nên tác dụng ngược. Hoặc phụ nữ mang thai bổ sung thừa vitamin A sẽ khiến thai nhi dễ bị dị tật và còn gây nên cảm giác buồn nôn, rụng tóc và thậm chí là tử vong.
Bổ sung quá nhiều vitamin C có thể dẫn đến tiêu chảy, đau đầu, nôn mửa mà thiếu cân bằng dưỡng chất trong cơ thể.
3. Một số loại vitamin không nên sử dụng cùng nhau
Sự tương tác giữa các loại vitamin không tương thích có thể dẫn đến tình trạng hấp thụ kém của cơ thể. Ví như vi chất sắt không nên bổ sung cùng kẽm vì sẽ ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ vitamin E của cơ thể. Tương tự như thế thì canxi cũng không nên sử dụng cùng thời điểm với sắt.
4. Một số loại vitamin sẽ có lợi hơn khi kết hợp cùng nhau
Ví như sắt nên bổ sung cùng vitamin C sẽ tạo nên sự hấp thụ hiệu quả hơn trong cơ thể. Canxi nên bổ sung cùng magie, vitamin D nên bổ sung cùng canxi. Vitamin B6, B12 nên bổ sung cùng axit folic.
5. Những người nên tránh dùng vitamin
Công dụng và hữu ích của vitamin nói chung là điều không thể phủ nhận, nhưng nó không có nghĩa là ai cũng có thể bổ sung vitamin.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
6. Ví như bổ sung quá nhiều vitamin C rất nguy hiểm cho người mắc bệnh tiểu đường
Nghiên cứu thuộc trường Đại họcMinnesota (Mỹ) cho rằng, một lượng lớn vitamin C được bổ sung cho người mắc bệnh tiểu đường sẽ làm tăng nguy cơ mắc chứng tắc nghẽn động mạch vành. Còn với những người bị suy giảm tuyến giáp, tiểu đường, cao huyết áp thì nên thận trọng khi bổ sung vitamin E.
Những người gặp rắc rối với thận như mắc sỏi thận hoặc đang bị ung thư không nên bổ sung canxi cho cơ thể..
7. Những vitamin giúp trẻ lâu
Trên thực tế đã có hàng loạt những nghiên cứu chứng minh hiệu quả của vitamin và lão hóa cơ thể. Các nghiên cứu cũng cho kết quả rằng, trong tất cả các loại vitamin thì có 3 loại vitamin có tác dụng này là vitamin A (beta-carotene), vitamin E và vitamin C.
Tuy nhiên, những loại vitamin này có thể chống lão hóa hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào liều lượng kết hợp của chúng: 15mg beta-carotene, vitamin E 400mg, 500mg vitamin C và selenium 50mcg. Nếu mỗi ngày bạn sử dụng một viên vitamin tổng hợp có đủ lượng như trên thì sẽ đạt được hiệu quả chống lão hóa.

Những bí mật về vitamin

1. Vitamin không có tác dụng chữa bệnh
Nhiều người lầm tưởng khi cho rằng bổ sung vitamin sẽ giúp cơ thể chữa trị được những chứng bệnh như cảm lạnh, ung thư, suy nhược hay tim mạch…
Tuy nhiên, trên thực tế vitamin không có tác dụng đó, nó chỉ có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch và phòng tránh nguy cơ mắc các chứng bệnh đó.
Vây nên không thể sử dụng vitamin thay thế thuốc mà chỉ có thển dùng nó để phòng tránh và hỗ trợ quá trình điều trị mà thôi.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
2. Lạm dụng vitamin sẽ gây hại
Đừng nghĩ rằng bổ sung càng nhiều vitamin càng có lợi cho cơ thể, vitamin chỉ có thể phát huy tác dụng nếu như bạn biết cách tiết chế và sử dụng đúng liều lượng.
Ví như loại vitamin hòa tan nhờ chất béo như vitamin A, D, E và K khi được thu nạp một lượng lớn vào cơ thể sẽ gây nên tác dụng ngược. Hoặc phụ nữ mang thai bổ sung thừa vitamin A sẽ khiến thai nhi dễ bị dị tật và còn gây nên cảm giác buồn nôn, rụng tóc và thậm chí là tử vong.
Bổ sung quá nhiều vitamin C có thể dẫn đến tiêu chảy, đau đầu, nôn mửa mà thiếu cân bằng dưỡng chất trong cơ thể.
3. Một số loại vitamin không nên sử dụng cùng nhau
Sự tương tác giữa các loại vitamin không tương thích có thể dẫn đến tình trạng hấp thụ kém của cơ thể. Ví như vi chất sắt không nên bổ sung cùng kẽm vì sẽ ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ vitamin E của cơ thể. Tương tự như thế thì canxi cũng không nên sử dụng cùng thời điểm với sắt.
4. Một số loại vitamin sẽ có lợi hơn khi kết hợp cùng nhau
Ví như sắt nên bổ sung cùng vitamin C sẽ tạo nên sự hấp thụ hiệu quả hơn trong cơ thể. Canxi nên bổ sung cùng magie, vitamin D nên bổ sung cùng canxi. Vitamin B6, B12 nên bổ sung cùng axit folic.
5. Những người nên tránh dùng vitamin
Công dụng và hữu ích của vitamin nói chung là điều không thể phủ nhận, nhưng nó không có nghĩa là ai cũng có thể bổ sung vitamin.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
6. Ví như bổ sung quá nhiều vitamin C rất nguy hiểm cho người mắc bệnh tiểu đường
Nghiên cứu thuộc trường Đại họcMinnesota (Mỹ) cho rằng, một lượng lớn vitamin C được bổ sung cho người mắc bệnh tiểu đường sẽ làm tăng nguy cơ mắc chứng tắc nghẽn động mạch vành. Còn với những người bị suy giảm tuyến giáp, tiểu đường, cao huyết áp thì nên thận trọng khi bổ sung vitamin E.
Những người gặp rắc rối với thận như mắc sỏi thận hoặc đang bị ung thư không nên bổ sung canxi cho cơ thể..
7. Những vitamin giúp trẻ lâu
Trên thực tế đã có hàng loạt những nghiên cứu chứng minh hiệu quả của vitamin và lão hóa cơ thể. Các nghiên cứu cũng cho kết quả rằng, trong tất cả các loại vitamin thì có 3 loại vitamin có tác dụng này là vitamin A (beta-carotene), vitamin E và vitamin C.
Tuy nhiên, những loại vitamin này có thể chống lão hóa hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào liều lượng kết hợp của chúng: 15mg beta-carotene, vitamin E 400mg, 500mg vitamin C và selenium 50mcg. Nếu mỗi ngày bạn sử dụng một viên vitamin tổng hợp có đủ lượng như trên thì sẽ đạt được hiệu quả chống lão hóa.


4 vitamin và khoáng chất quan trọng cho "bà bầu"

Cùng với nhu cầu về năng lượng thì nhu cầu về vitamin và khoáng chất cũng tăng lên ở bà mẹ mang thai, giúp cho sự phát triển bình thường của cả mẹ và con. 4 vitamin và khoáng chất sau đặc biệt quan trọng và không thể thiếu trong giai đoạn này.
Acid folic
Acid folic (hay còn gọi là folat) là chất rất cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào và cần cho sự hình thành của tế bào máu. Nhu cầu acid folic ở người trưởng thành khoảng 180-200 mcg/ngày, trong khi mang thai cần tới 400 mcg/ngày để đáp ứng cho nhu cầu gia tăng trong quá trình mang thai. Đó là sự gia tăng của quá trình phân chia tế bào (cần cho tổng hợp nhân tế bào và protein), sự hình thành nhau thai, số lượng tế bào hồng cầu gia tăng, sự tăng trưởng của bào thai và tăng thải folat qua nước tiểu.
4 vitamin và khoáng chất quan trọng cho
Acidfolic giúp ngăn ngừa khuyết tật ống thần kinh
Folate có tầm quan trọng trong việc ngăn ngừa các khuyết tật ống thần kinh (NTDs). Đây là một nhóm các bất thường khi sinh có liên quan đến cột sống, xương sọ và não, với sự phổ biến nhất là hiện tượng nứt đốt sống và thiếu não (vô sọ, thoát vị não). Với nứt đốt sống, cột sống thai nhi không đóng (mà thường xảy ra ở 21-28 ngày sau khi thụ thai) và kết quả là, tủy sống không được bảo vệ.
Như vậy, hậu quả của sự thiếu acid folic trong giai đoạn sớm của thai kỳ sẽ gây ra sự phân chia tế bào không bình thường, không chỉ gây các khuyết tật về ống thần kinh mà còn gây ra các dị tật khác như hở hàm ếch, hội chứng Down, gây sẩy thai… Khoảng 50-70% các trường hợp dị tật ống thần kinh có thể phòng tránh được nếu phụ nữ mang thai sử dụng acid folic trong khoảng thời gian trước khi thụ thai đến 4 tuần sau khi thụ thai.
Axit folic/folate là một trong những vitamin nhóm B. Nó được tìm thấy trong các loại rau khác nhau (đặc biệt là rau có màu xanh đậm), chẳng hạn như rau bina, măng tây, cải bruxen, xà lách romaine, bơ, đậu bắp, bông cải xanh, và cũng có trong các loại hạt, các sản phẩm sữa, thịt gia cầm, chuối, dưa hấu, trứng, hải sản, đậu và đậu Hà Lan… Phụ nữ mang thai nên ăn thức ăn có chứa nhiều loại vitamin này. Tuy nhiên, bên cạnh đó phụ nữ mang thai thường được khuyên bổ sung thêm acid folic (bằng thuốc) hàng ngày.
Sắt
Ở thời kỳ mang thai nhu cầu sắt cũng tăng cao để đáp ứng với sự phát triển bào thai trong tiến trình thai nghén và tránh nguy cơ mất máu lúc chuyển dạ. Trong giai đoạn thai kỳ, thể tích máu ở người mẹ tăng lên, cơ thể của người mẹ cần bổ sung chất sắt để tạo ra hemoglobin, một phần của các tế bào máu đỏ giúp mang oxy đến nuôi dưỡng thai nhi. 
Sự thiếu hụt chất sắt có thể dẫn đến một tình trạng được gọi là thiếu máu thiếu sắt. Ở phụ nữ mang thai, tình trạng thiếu máu do thiếu sắt gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người mẹ cũng như sự phát triển của thai nhi. Theo Tổ chức Y tế thế giới, có khoảng 50% phụ nữ mang thai trên thế giới bị thiếu máu.
Thiếu máu ở phụ nữ mang thai có thể gây hậu quả nặng nề cho cả mẹ và con, làm tăng nguy cơ tử vong đối với thai nhi như nguy cơ sinh non, sảy thai, thai chết lưu, chậm phát triển bào thai trong tử cung hoặc con nhẹ cân. Thiếu máu thiếu sắt được xem là liên quan đến ¼ trường hợp tử vong mẹ có liên quan đến thai sản, làm gia tăng các tai biến sản khoa nhất là tai biến do xuất huyết sau sinh.
Vì vậy, cần bổ sung sắt trong thời kỳ này. Nên ăn nhiều thực phẩm giàu sắt như rau muống, thịt nạc và cá biển… và bổ sung sắt theo chỉ định của bác sĩ. Tuy nhiên cần lưu ý, các tác dụng phụ thường thấy với việc bổ sung sắt có thể bao gồm buồn nôn, nôn, táo bón và tiêu chảy. Khi bổ sung sắt, một số thuốc có khả năng ức chế hấp thu sắt khi dùng đồng thời. 
Ví dụ như canxi chẳng hạn, nó có thể gây trở ngại cho sự hấp thu sắt. Trong khi đó canxi cũng là chất bổ sung quan trọng trong quá trình mang thai. Vì vậy, phụ nữ mang thai có thể khắc phục điều này bằng cách tách biệt lượng canxi và sắt không uống cùng một thời điểm (nên uống canxi và sắt cách xa nhau). Tốt nhất nên uống canxi vào buổi sáng và uống sắt vào buổi chiều. Khi uống viên sắt cũng không nên ăn ngay các thực phẩm giàu canxi như các sản phẩm sữa (để tránh sự tương tác làm mất tác dụng của sắt).
Hơn nữa, có đến 50% phụ nữ cũng có thể trải nghiệm trào ngược dạ dày (GERD) trong khi mang thai và đôi khi cần phải dùng đến các thuốc kháng axít hay các loại thuốc khác dùng để điều trị tình trạng này, và do các thuốc này có thể thể tương tác với sự hấp thu sắt, nên khi uống cũng cần phải lưu ý.
Canxi
Canxi có vai trò quan trọng trong việc hình thành xương và răng của trẻ. Vì vậy, trong thai kỳ cần bổ sung canxi để đảm bảo cung cấp đủ cho nhu cầu phát triển của thai nhi. Nếu không được bổ sung đầy đủ, thai nhi có thể bị còi xương, kém phát triển, biến dạng cấu tạo xương. Người mẹ. có thể bị đau mỏi xương khớp, chuột rút, trường hợp nặng có thể co giật do hạ canxi máu. Thiếu canxi, thai nhi sẽ phải lấy canxi từ cơ thể người mẹ (hệ lụy sẽ gây loãng xương sau này ở người phụ nữ).
Theo khuyến cáo của Viện Dinh dưỡng (nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam) thì, đối với phụ nữ có thai (trong suốt thời kỳ mang thai) cần 1200mg canxi/ngày. Như vậy, ngoài việc ăn tăng cường câc thực phẩm giàu canxi như đồ biển, bơ, phomat… thì có thể thực hiện bổ sung canxi thông qua các loại dược phẩm (thuốc có chứa calcium) theo sự chỉ định của bác sĩ. 
Vì, nếu tự ý bổ sung, uống nhiều gây thừa canxi sẽ gây hại. Đối với thai nhi, có thể bị tăng canxi trong máu, khi ra đời, thóp bị kín quá sớm, xương hàm có thể bị biến dạng, rộng và nhô ra trước, không có lợi cho sức khỏe và ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Khi mẹ bị thừa canxi, bánh nhau sẽ bị tăng độ canxi hóa, làm giảm trao đổi chất giữa mẹ và thai nhi, làm thai kém phát triển. Người mẹ sẽ bị táo bón, khô miệng, đau đầu, tăng dấu hiệu khát, chán ăn, mệt mỏi, tăng nguy cơ bị sỏi đường tiết niệu, đặc biệt là sỏi thận…
Vitamin D
Cùng với việc bổ sung canxi, thì việc bổ sung vitamin D cũng rất quan trọng. Đây là chất rất cần thiết cho sự hấp thu canxi và phosphor, góp phần vào cấu tạo xương. Viamin D trong cơ thể em bé được cung cấp từ cơ thể mẹ. Nếu người mẹ không đủ vitamin D, nghĩa là em bé sẽ bị thiếu hụt dưỡng chất này.
Thiếu vitamin D, canxi sẽ khó hấp thu dẫn tới hậu quả như trẻ bị còi xương ngay từ trong bụng mẹ hoặc đẻ ra bình thường nhưng thóp sẽ lâu liền, bào thai suy yếu. Nếu thiếu quá nhiều vitamin D có thể gây dị tật bẩm sinh, gây nhuyễn xương, co giật do hạ calci máu, loãng xương ở mẹ.
Nguồn cung cấp vitamin D quan trọng cho cơ thể (80%) là do sự tổng hợp trong da dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Vì vậy, phụ nữ mang thai nên có thời gian hoạt động ngoài trời càng nhiều càng tốt và nên ăn các thực phẩm có nguồn gốc động vật giàu vitamin D là gan cá, trứng, bơ sữa, các loại cá béo, thực phẩm có tăng cường vitamin D (như sữa). Việc bổ sung vitamin D bằng thuốc cần theo chỉ định của bác sĩ.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons