Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

Những bí mật về vitamin

1. Vitamin không có tác dụng chữa bệnh
Nhiều người lầm tưởng khi cho rằng bổ sung vitamin sẽ giúp cơ thể chữa trị được những chứng bệnh như cảm lạnh, ung thư, suy nhược hay tim mạch…
Tuy nhiên, trên thực tế vitamin không có tác dụng đó, nó chỉ có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch và phòng tránh nguy cơ mắc các chứng bệnh đó.
Vây nên không thể sử dụng vitamin thay thế thuốc mà chỉ có thển dùng nó để phòng tránh và hỗ trợ quá trình điều trị mà thôi.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
2. Lạm dụng vitamin sẽ gây hại
Đừng nghĩ rằng bổ sung càng nhiều vitamin càng có lợi cho cơ thể, vitamin chỉ có thể phát huy tác dụng nếu như bạn biết cách tiết chế và sử dụng đúng liều lượng.
Ví như loại vitamin hòa tan nhờ chất béo như vitamin A, D, E và K khi được thu nạp một lượng lớn vào cơ thể sẽ gây nên tác dụng ngược. Hoặc phụ nữ mang thai bổ sung thừa vitamin A sẽ khiến thai nhi dễ bị dị tật và còn gây nên cảm giác buồn nôn, rụng tóc và thậm chí là tử vong.
Bổ sung quá nhiều vitamin C có thể dẫn đến tiêu chảy, đau đầu, nôn mửa mà thiếu cân bằng dưỡng chất trong cơ thể.
3. Một số loại vitamin không nên sử dụng cùng nhau
Sự tương tác giữa các loại vitamin không tương thích có thể dẫn đến tình trạng hấp thụ kém của cơ thể. Ví như vi chất sắt không nên bổ sung cùng kẽm vì sẽ ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ vitamin E của cơ thể. Tương tự như thế thì canxi cũng không nên sử dụng cùng thời điểm với sắt.
4. Một số loại vitamin sẽ có lợi hơn khi kết hợp cùng nhau
Ví như sắt nên bổ sung cùng vitamin C sẽ tạo nên sự hấp thụ hiệu quả hơn trong cơ thể. Canxi nên bổ sung cùng magie, vitamin D nên bổ sung cùng canxi. Vitamin B6, B12 nên bổ sung cùng axit folic.
5. Những người nên tránh dùng vitamin
Công dụng và hữu ích của vitamin nói chung là điều không thể phủ nhận, nhưng nó không có nghĩa là ai cũng có thể bổ sung vitamin.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
6. Ví như bổ sung quá nhiều vitamin C rất nguy hiểm cho người mắc bệnh tiểu đường
Nghiên cứu thuộc trường Đại họcMinnesota (Mỹ) cho rằng, một lượng lớn vitamin C được bổ sung cho người mắc bệnh tiểu đường sẽ làm tăng nguy cơ mắc chứng tắc nghẽn động mạch vành. Còn với những người bị suy giảm tuyến giáp, tiểu đường, cao huyết áp thì nên thận trọng khi bổ sung vitamin E.
Những người gặp rắc rối với thận như mắc sỏi thận hoặc đang bị ung thư không nên bổ sung canxi cho cơ thể..
7. Những vitamin giúp trẻ lâu
Trên thực tế đã có hàng loạt những nghiên cứu chứng minh hiệu quả của vitamin và lão hóa cơ thể. Các nghiên cứu cũng cho kết quả rằng, trong tất cả các loại vitamin thì có 3 loại vitamin có tác dụng này là vitamin A (beta-carotene), vitamin E và vitamin C.
Tuy nhiên, những loại vitamin này có thể chống lão hóa hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào liều lượng kết hợp của chúng: 15mg beta-carotene, vitamin E 400mg, 500mg vitamin C và selenium 50mcg. Nếu mỗi ngày bạn sử dụng một viên vitamin tổng hợp có đủ lượng như trên thì sẽ đạt được hiệu quả chống lão hóa.

Những bí mật về vitamin

1. Vitamin không có tác dụng chữa bệnh
Nhiều người lầm tưởng khi cho rằng bổ sung vitamin sẽ giúp cơ thể chữa trị được những chứng bệnh như cảm lạnh, ung thư, suy nhược hay tim mạch…
Tuy nhiên, trên thực tế vitamin không có tác dụng đó, nó chỉ có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch và phòng tránh nguy cơ mắc các chứng bệnh đó.
Vây nên không thể sử dụng vitamin thay thế thuốc mà chỉ có thển dùng nó để phòng tránh và hỗ trợ quá trình điều trị mà thôi.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
2. Lạm dụng vitamin sẽ gây hại
Đừng nghĩ rằng bổ sung càng nhiều vitamin càng có lợi cho cơ thể, vitamin chỉ có thể phát huy tác dụng nếu như bạn biết cách tiết chế và sử dụng đúng liều lượng.
Ví như loại vitamin hòa tan nhờ chất béo như vitamin A, D, E và K khi được thu nạp một lượng lớn vào cơ thể sẽ gây nên tác dụng ngược. Hoặc phụ nữ mang thai bổ sung thừa vitamin A sẽ khiến thai nhi dễ bị dị tật và còn gây nên cảm giác buồn nôn, rụng tóc và thậm chí là tử vong.
Bổ sung quá nhiều vitamin C có thể dẫn đến tiêu chảy, đau đầu, nôn mửa mà thiếu cân bằng dưỡng chất trong cơ thể.
3. Một số loại vitamin không nên sử dụng cùng nhau
Sự tương tác giữa các loại vitamin không tương thích có thể dẫn đến tình trạng hấp thụ kém của cơ thể. Ví như vi chất sắt không nên bổ sung cùng kẽm vì sẽ ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ vitamin E của cơ thể. Tương tự như thế thì canxi cũng không nên sử dụng cùng thời điểm với sắt.
4. Một số loại vitamin sẽ có lợi hơn khi kết hợp cùng nhau
Ví như sắt nên bổ sung cùng vitamin C sẽ tạo nên sự hấp thụ hiệu quả hơn trong cơ thể. Canxi nên bổ sung cùng magie, vitamin D nên bổ sung cùng canxi. Vitamin B6, B12 nên bổ sung cùng axit folic.
5. Những người nên tránh dùng vitamin
Công dụng và hữu ích của vitamin nói chung là điều không thể phủ nhận, nhưng nó không có nghĩa là ai cũng có thể bổ sung vitamin.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
6. Ví như bổ sung quá nhiều vitamin C rất nguy hiểm cho người mắc bệnh tiểu đường
Nghiên cứu thuộc trường Đại họcMinnesota (Mỹ) cho rằng, một lượng lớn vitamin C được bổ sung cho người mắc bệnh tiểu đường sẽ làm tăng nguy cơ mắc chứng tắc nghẽn động mạch vành. Còn với những người bị suy giảm tuyến giáp, tiểu đường, cao huyết áp thì nên thận trọng khi bổ sung vitamin E.
Những người gặp rắc rối với thận như mắc sỏi thận hoặc đang bị ung thư không nên bổ sung canxi cho cơ thể..
7. Những vitamin giúp trẻ lâu
Trên thực tế đã có hàng loạt những nghiên cứu chứng minh hiệu quả của vitamin và lão hóa cơ thể. Các nghiên cứu cũng cho kết quả rằng, trong tất cả các loại vitamin thì có 3 loại vitamin có tác dụng này là vitamin A (beta-carotene), vitamin E và vitamin C.
Tuy nhiên, những loại vitamin này có thể chống lão hóa hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào liều lượng kết hợp của chúng: 15mg beta-carotene, vitamin E 400mg, 500mg vitamin C và selenium 50mcg. Nếu mỗi ngày bạn sử dụng một viên vitamin tổng hợp có đủ lượng như trên thì sẽ đạt được hiệu quả chống lão hóa.


4 vitamin và khoáng chất quan trọng cho "bà bầu"

Cùng với nhu cầu về năng lượng thì nhu cầu về vitamin và khoáng chất cũng tăng lên ở bà mẹ mang thai, giúp cho sự phát triển bình thường của cả mẹ và con. 4 vitamin và khoáng chất sau đặc biệt quan trọng và không thể thiếu trong giai đoạn này.
Acid folic
Acid folic (hay còn gọi là folat) là chất rất cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào và cần cho sự hình thành của tế bào máu. Nhu cầu acid folic ở người trưởng thành khoảng 180-200 mcg/ngày, trong khi mang thai cần tới 400 mcg/ngày để đáp ứng cho nhu cầu gia tăng trong quá trình mang thai. Đó là sự gia tăng của quá trình phân chia tế bào (cần cho tổng hợp nhân tế bào và protein), sự hình thành nhau thai, số lượng tế bào hồng cầu gia tăng, sự tăng trưởng của bào thai và tăng thải folat qua nước tiểu.
4 vitamin và khoáng chất quan trọng cho
Acidfolic giúp ngăn ngừa khuyết tật ống thần kinh
Folate có tầm quan trọng trong việc ngăn ngừa các khuyết tật ống thần kinh (NTDs). Đây là một nhóm các bất thường khi sinh có liên quan đến cột sống, xương sọ và não, với sự phổ biến nhất là hiện tượng nứt đốt sống và thiếu não (vô sọ, thoát vị não). Với nứt đốt sống, cột sống thai nhi không đóng (mà thường xảy ra ở 21-28 ngày sau khi thụ thai) và kết quả là, tủy sống không được bảo vệ.
Như vậy, hậu quả của sự thiếu acid folic trong giai đoạn sớm của thai kỳ sẽ gây ra sự phân chia tế bào không bình thường, không chỉ gây các khuyết tật về ống thần kinh mà còn gây ra các dị tật khác như hở hàm ếch, hội chứng Down, gây sẩy thai… Khoảng 50-70% các trường hợp dị tật ống thần kinh có thể phòng tránh được nếu phụ nữ mang thai sử dụng acid folic trong khoảng thời gian trước khi thụ thai đến 4 tuần sau khi thụ thai.
Axit folic/folate là một trong những vitamin nhóm B. Nó được tìm thấy trong các loại rau khác nhau (đặc biệt là rau có màu xanh đậm), chẳng hạn như rau bina, măng tây, cải bruxen, xà lách romaine, bơ, đậu bắp, bông cải xanh, và cũng có trong các loại hạt, các sản phẩm sữa, thịt gia cầm, chuối, dưa hấu, trứng, hải sản, đậu và đậu Hà Lan… Phụ nữ mang thai nên ăn thức ăn có chứa nhiều loại vitamin này. Tuy nhiên, bên cạnh đó phụ nữ mang thai thường được khuyên bổ sung thêm acid folic (bằng thuốc) hàng ngày.
Sắt
Ở thời kỳ mang thai nhu cầu sắt cũng tăng cao để đáp ứng với sự phát triển bào thai trong tiến trình thai nghén và tránh nguy cơ mất máu lúc chuyển dạ. Trong giai đoạn thai kỳ, thể tích máu ở người mẹ tăng lên, cơ thể của người mẹ cần bổ sung chất sắt để tạo ra hemoglobin, một phần của các tế bào máu đỏ giúp mang oxy đến nuôi dưỡng thai nhi. 
Sự thiếu hụt chất sắt có thể dẫn đến một tình trạng được gọi là thiếu máu thiếu sắt. Ở phụ nữ mang thai, tình trạng thiếu máu do thiếu sắt gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người mẹ cũng như sự phát triển của thai nhi. Theo Tổ chức Y tế thế giới, có khoảng 50% phụ nữ mang thai trên thế giới bị thiếu máu.
Thiếu máu ở phụ nữ mang thai có thể gây hậu quả nặng nề cho cả mẹ và con, làm tăng nguy cơ tử vong đối với thai nhi như nguy cơ sinh non, sảy thai, thai chết lưu, chậm phát triển bào thai trong tử cung hoặc con nhẹ cân. Thiếu máu thiếu sắt được xem là liên quan đến ¼ trường hợp tử vong mẹ có liên quan đến thai sản, làm gia tăng các tai biến sản khoa nhất là tai biến do xuất huyết sau sinh.
Vì vậy, cần bổ sung sắt trong thời kỳ này. Nên ăn nhiều thực phẩm giàu sắt như rau muống, thịt nạc và cá biển… và bổ sung sắt theo chỉ định của bác sĩ. Tuy nhiên cần lưu ý, các tác dụng phụ thường thấy với việc bổ sung sắt có thể bao gồm buồn nôn, nôn, táo bón và tiêu chảy. Khi bổ sung sắt, một số thuốc có khả năng ức chế hấp thu sắt khi dùng đồng thời. 
Ví dụ như canxi chẳng hạn, nó có thể gây trở ngại cho sự hấp thu sắt. Trong khi đó canxi cũng là chất bổ sung quan trọng trong quá trình mang thai. Vì vậy, phụ nữ mang thai có thể khắc phục điều này bằng cách tách biệt lượng canxi và sắt không uống cùng một thời điểm (nên uống canxi và sắt cách xa nhau). Tốt nhất nên uống canxi vào buổi sáng và uống sắt vào buổi chiều. Khi uống viên sắt cũng không nên ăn ngay các thực phẩm giàu canxi như các sản phẩm sữa (để tránh sự tương tác làm mất tác dụng của sắt).
Hơn nữa, có đến 50% phụ nữ cũng có thể trải nghiệm trào ngược dạ dày (GERD) trong khi mang thai và đôi khi cần phải dùng đến các thuốc kháng axít hay các loại thuốc khác dùng để điều trị tình trạng này, và do các thuốc này có thể thể tương tác với sự hấp thu sắt, nên khi uống cũng cần phải lưu ý.
Canxi
Canxi có vai trò quan trọng trong việc hình thành xương và răng của trẻ. Vì vậy, trong thai kỳ cần bổ sung canxi để đảm bảo cung cấp đủ cho nhu cầu phát triển của thai nhi. Nếu không được bổ sung đầy đủ, thai nhi có thể bị còi xương, kém phát triển, biến dạng cấu tạo xương. Người mẹ. có thể bị đau mỏi xương khớp, chuột rút, trường hợp nặng có thể co giật do hạ canxi máu. Thiếu canxi, thai nhi sẽ phải lấy canxi từ cơ thể người mẹ (hệ lụy sẽ gây loãng xương sau này ở người phụ nữ).
Theo khuyến cáo của Viện Dinh dưỡng (nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam) thì, đối với phụ nữ có thai (trong suốt thời kỳ mang thai) cần 1200mg canxi/ngày. Như vậy, ngoài việc ăn tăng cường câc thực phẩm giàu canxi như đồ biển, bơ, phomat… thì có thể thực hiện bổ sung canxi thông qua các loại dược phẩm (thuốc có chứa calcium) theo sự chỉ định của bác sĩ. 
Vì, nếu tự ý bổ sung, uống nhiều gây thừa canxi sẽ gây hại. Đối với thai nhi, có thể bị tăng canxi trong máu, khi ra đời, thóp bị kín quá sớm, xương hàm có thể bị biến dạng, rộng và nhô ra trước, không có lợi cho sức khỏe và ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Khi mẹ bị thừa canxi, bánh nhau sẽ bị tăng độ canxi hóa, làm giảm trao đổi chất giữa mẹ và thai nhi, làm thai kém phát triển. Người mẹ sẽ bị táo bón, khô miệng, đau đầu, tăng dấu hiệu khát, chán ăn, mệt mỏi, tăng nguy cơ bị sỏi đường tiết niệu, đặc biệt là sỏi thận…
Vitamin D
Cùng với việc bổ sung canxi, thì việc bổ sung vitamin D cũng rất quan trọng. Đây là chất rất cần thiết cho sự hấp thu canxi và phosphor, góp phần vào cấu tạo xương. Viamin D trong cơ thể em bé được cung cấp từ cơ thể mẹ. Nếu người mẹ không đủ vitamin D, nghĩa là em bé sẽ bị thiếu hụt dưỡng chất này.
Thiếu vitamin D, canxi sẽ khó hấp thu dẫn tới hậu quả như trẻ bị còi xương ngay từ trong bụng mẹ hoặc đẻ ra bình thường nhưng thóp sẽ lâu liền, bào thai suy yếu. Nếu thiếu quá nhiều vitamin D có thể gây dị tật bẩm sinh, gây nhuyễn xương, co giật do hạ calci máu, loãng xương ở mẹ.
Nguồn cung cấp vitamin D quan trọng cho cơ thể (80%) là do sự tổng hợp trong da dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Vì vậy, phụ nữ mang thai nên có thời gian hoạt động ngoài trời càng nhiều càng tốt và nên ăn các thực phẩm có nguồn gốc động vật giàu vitamin D là gan cá, trứng, bơ sữa, các loại cá béo, thực phẩm có tăng cường vitamin D (như sữa). Việc bổ sung vitamin D bằng thuốc cần theo chỉ định của bác sĩ.


Thứ Hai, 12 tháng 10, 2015

Nên uống thuốc huyết áp vào ban đêm

Sử dụng thuốc huyết áp vào ban đêm có thể kiểm soát huyết áp tốt hơn và giảm đáng kể nguy cơ mắc tiểu đường.




Đó là kết luận của một nghiên cứu thực hiện tại Tây Ban Nha. Các nhà nghiên cứu đã xem xét 2.012 người bị cao huyết áp có tuổi trung bình 53 và không ai mắc tiểu đường lúc bước vào nghiên cứu. Họ phân ngẫu nhiên một nửa số này uống thuốc cao huyết áp vào ban đêm và một nửa uống vào buổi sáng.
Trung bình trong vòng sáu năm có 171 người mắc tiểu đường. Sau khi điều chỉnh các yếu tố liên quan, người ta thấy những ai uống thuốc trước khi đi ngủ sẽ giảm được 57% nguy cơ mắc tiểu đường. Việc dùng thuốc vào ban đêm cũng giảm đáng kể huyết áp trong thời gian này. Nghiên cứu công bố trên tạp chí Diabetologia.
GS Ramón C. Hermida, người dẫn đầu nghiên cứu thuộc đại học Vigo (Tây Ban Nha) nói: "Chúng tôi khuyên bệnh nhân cao huyết áp dùng thuốc vào ban đêm. Đây là một giải pháp điều trị không tốn kém". Tuy nhiên việc này cần bàn bạc với bác sĩ.


Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015

Thuốc mới khiến các tế bào ung thư chậm lây lan

Các nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ Liên bang (Thụy Sĩ) đã thí nghiệmthuốc chống suy nhược và thuốc làm loãng máu trên chuột bạch. Những con chuột sẽ được tiêm mỗi loại thuốc cách nhau 15 phút và liên tục 5 ngày/tuần. Kết quả cho thấy, những con dùng cả hai loại thuốc sống lâu hơn những con chỉ dùng một loại.
Họ liền áp dụng cho các bệnh nhân ung thư não và nhận thấy rằng các khối u chậm lây lan, đồng thời tuổi thọ của bệnh nhân tăng gấp đôi.
GS. Douglas Hanahan cho biết: “Tôi rất bất ngờ với sự kết hợp của hai loại thuốc này. Nó có thể giúp ngăn chặn ung thư não, nhưng vẫn chưa rõ liệu có tác dụng với tất cả các bệnh nhân hay không, liệu pháp này không chữa dứt điểm, nhưng nó giúp làm chậm tiến trình. Nếu kết hợp hai loại thuốc này với các loại thuốc chống ung thư nữa thì có lẽ hiệu quả sẽ cao hơn”.
Hai loại thuốc này nếu được kết hợp sẽ thúc đẩy cơ chế tự thực (autophagy) của các tế bào ung thư, khiến các tế bào này tự hủy diệt.
Các nhà khoa học hy vọng sẽ có thêm những thử nghiệm trên con người để chắc chắn liệu pháp này phát huy tính hiệu quả tương tự.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thiếu vitamin D gây suy thoái nhận thức ở người cao tuổi

Nghiên cứu của các nhà khoa học Trường ĐH Rutgers và ĐH California (Mỹ) đã cho biết, khả năng bị mất trí nhớ và năng lực tư duy giảm nhanh hơn ở người cao tuổi thiếu vitamin D so với những người đồng tuổi có mức độvitamin D bình thường.
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành làm xét nghiệm máu của 318 người ở độ tuổi trung bình 76 cũng như theo dõi tình trạng thay đổi về trí nhớ và năng lực tư duy của nhóm người này trong 5 năm.
Xét nghiệm máu này sẽ giúp các nhà khoa học đo mức độ 25-hydrovitamin D (25-OHD) - vốn là yếu tố được hình thành khi cơ thể tổng hợp vitamin D từ da được tiếp xúc với nắng cũng như hấp thu từ thực phẩm. Nhóm nghiên cứu nhận thấy, những người mất trí nhớ có mức độ 25-OHD thấp hơn so với những người mất cân bằng nhận thức nhẹ hoặc có trí nhớ bình thường.
TS. Joshua W. Miller cho biết: “Tình trạng thiếu vitamin D rất phổ biến ở người cao tuổi, làm trầm trọng thêm mức độ suy thoái nhận thức”. Tuy nhiên, TS. Miller cảnh báo cần thận trọng trong việc bổ sung vitamin D liều cao do nguy cơ gây tổn hại gan và mô. Liều dùng được cho phép ở người bình thường là 600UI/ngày; trẻ em dưới 9 tuổi và người cao tuổi 400UI/ngày.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015

Thuốc ngủ, thuốc hạ sốt có thể dẫn tới mất trí nhớ

Giới chuyên gia Mỹ mới đây đã đưa ra một khuyến cáo về việc sử dụng các loại thuốc thông dụng như thuốc trị chứng sốt cỏ khô (hay-fever), thuốc an thần được bày bán rộng rãi tại các hiệu thuốc bởi chúng có thể làm tăng nguy cơ mắc hội chứng suy giảm trí nhớ Alzheimer, tờ Mirror (Anh) đưa tin. Như vậy, hội chứng này sẽ đóng vai trò nổi bật trong số các tác dụng phụ hay tác hại của thuốc an thần, thuốc chữa dị ứng.

Tác hại của thuốc an thần có thể bao gồm từ suy giảm trí nhớ, tâm thần đến vô sinh hoặc gây hại cho thai nhiTác hại của thuốc an thần có thể bao gồm từ suy giảm trí nhớ, tâm thần đến vô sinh hoặc gây hại cho thai nhi
Lời cảnh báo này là kết quả của một nghiên cứu cho rằng một số loại thuốc có tác dụng an thần, trị chứng mắc ngủ hoặc các loại thuốc chữa dị ứng đều thuộc dòng dược phẩm có đặc tính ức chế ảnh hưởng trên hệ thần kinh.
Nghiên cứu chỉ ra, việc tiếp xúc thường xuyên với các loại thuốc "chống tác động kiểu colin" sẽ làm tăng khả năng phát triển hội chứng Alzheimer và các dạng bệnh suy giảm trí nhớ khác hoặc thậm chí là mất trí nhớ ở người bệnh. Thực tế là hầu hết các loại thuốc này thường xuyên được sử dụng bởi những người có tuổi hoặc dễ bị thương tổn.
Các nhà khoa học cảnh báo, các loại thuốc chống tác động kiểu colin ức chế sẽ ức chất dẫn truyền thần kinh Acetylcholine (vốn liên quan trực tiếp đến sự khỏe mạnh của não bộ và khả năng thích ứng với áp lực công việc, tăng tính sáng tạo, xử lý thông tin), dẫn đến một loạt tác dụng phụ bao gồm uể oải, chóng mặt, hoa mắt và giảm sút trí nhớ. Điều này cũng giải thích vì sao bệnh nhân mắc Alzheimer đều thiếu Acetylcholine.
Nguy cơ mắc Alzheimer cao là một trong những tác hại của thuốc an thầnNguy cơ mắc Alzheimer cao là một trong những tác hại của thuốc an thần
Phát biểu về điều này, trưởng nhóm nghiên cứu - GS Shelly Gray, trưởng khoa lão tại trường Y Washington cho biết: “Những người có tuổi nên lưu ý rằng nhiều loại thuốc - bao gồm một số loại bày bán sẵn trên thị trường mà không cần kê đơn, chẳng hạn như thuốc an thần, thuốc trị mất ngủ không cần có sự tư vấn của bác sĩ - có những ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc chống tác động kiểu colin. Vì thế, các trường hợp này cần nói rõ, đầy đủ về mọ loại thuốc uống không kê toa với nhân viên tư vấn sức khỏe.”
“Mặc dù vậy, dĩ nhiên là không ai nên ngừng uống bất cứ loại thuốc nào mà không có lời khuyên từ người tư vấn sức khỏe. Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe (bao gồm cả bác sĩ) nên thường xuyên kiểm tra phác đồ điều trị của các bệnh nhân lớn tuổi - trong đó có các loại thuốc uống không cần kê đơn - để quyết định xem liệu có thể giảm các loại dược phẩm chống tác động kiểu colin hay không.
Trong suốt 7 năm, các nhà nghiên cứu đã theo dõi tình trạng sức khỏe của 3.434 người trên 65 tuổi ở cả hai giới tính và đồng thời giám sát thói quen sử dụng các loại thuốc chống tác động kiểu colin của họ. Trong số các đối tượng nghiên cứu, 637 người mắc Alzheimer và 160 người khác phải chịu các dạng bệnh liên quan đến suy giảm trí nhớ.
Sử dụng thuốc ngủ, thuốc hạ sốt theo chỉ dẫn của bác sĩ sẽ làm giảm tác hại của thuốc an thầnSử dụng thuốc ngủ, thuốc hạ sốt theo chỉ dẫn của bác sĩ sẽ làm giảm tác hại của thuốc an thần
Với các trường hợp sử dụng nhiều thuốc chống tác động kiểu colin nhất trong suốt quá trình nghiên cứu, nguy cơ bị suy giảm trí nhớ tăng tới 54% so với không sử dụng. Đáng báo động hơn, riêng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer đã tăng tới 63%. Ngoài ra, những người uống ít nhất 10 mg thuốc chống trầm cảm doxepin, 4 mg thuốc an thần diphenhydramine hoặc 5 mg thuốc điều trị rối loạn tiểu đường oxybutynin mỗi ngày liên tục hơn 3 năng sẽ có nguy cơ mắc các chứng suy giảm trí nhớ rất cao.
Do đó, nhóm nghiên cứu khuyến cáo người bệnh nên hạn chế uống các loại thuốc có khả năng chống tác động kiểu colin xuống mức thấp nhất trong trường hợp bắt buộc phải sử dụng hoặc có thể nhờ bác sĩ tư vấn để chuyển sang dùng các loại thuốc khác để ngăn chặn tác dụng phụ và tác hại của thuốc an thần, thuốc hạ sốt.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons