Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

Thuốc hạ huyết áp giúp giảm viêm do chấn thương sọ não

Một nghiên cứu mới đây cho thấy tình trạng viêm sau khi bị chấn thương sọ não là do một protein sản sinh từ gan gây ra.

Hơn thế, dạng protein này có thể bị một loại thuốc vốn dùng để chữa trị cao huyết áp ngăn chặn.
Theo trang tin Medical News Today, các nhà khoa học Mỹ tại ĐH Georgetown phát hiện chấn thương sọ não khiến gan sản sinh protein gây phản ứng viêm tăng lên gấp 1.000 lần. Tình trạng gây viêm như vậy khiến tế bào thần kinh chết nhiều hơn và dòng máu chảy bị giới hạn, gây tổn thương thêm. Do đó, hạn chế viêm có ý nghĩa đặc biệt trong trường hợp này.
Telmisartan có thể giúp giảm viêm sau khi bị chấn thương sọ não Ảnh: MNT
Telmisartan có thể giúp giảm viêm sau khi bị chấn thương sọ não Ảnh: MNT
Nhóm nghiên cứu còn phát hiện thuốc telmisartan có thể ngăn chặn sự sản sinh của một phần tử trong quá trình gây viêm của loại protein này trong thí nghiệm trên chuột. Telmisartan từng được Liên đoàn Tim học Mỹ nêu tác dụng giữ mạch máu khỏi hẹp lại và tăng cường dòng máu chảy nên được dùng để chữa trị cao huyết áp.
Nhóm nghiên cứu nêu khả năng có thể sử dụng telmisartan trong khoảng 6 giờ sau khi bị chấn thương sọ não để giúp hạn chế viêm, tổn hại thần kinh, chảy máu và sưng bên trong não. Chủ nhiệm nghiên cứu, GS Sonia Villapol, cho biết: "Nghiên cứu này xác lập mối liên kết giữa khu vực ngoại vi với não, nêu bật tầm quan trọng của việc điều chỉnh tổn hại ngoại vi trong nỗ lực giảm nhẹ hậu quả do não bị tổn thương".


Thuốc chống động kinh dùng không đúng gây tử vong?

Hiện nay có lời đồn đại về thuốc chống động kinh như: “Thuốc loại này là vô cùng độc hại và tác dụng phụ là vô cùng trầm trọng”, thậm chí: “Thuốc chống động kinh dùng thế nào đó có thể gây tử vong!”. điều này làm cho người bệnh động kinh hay người thân của họ không an tâm cho dùng thuốc chữa bệnh. Thực hư như thế nào?

Động kinh là sự rối loạn chức năng thần kinh trung ương theo từng cơn do có sự phóng điện đột ngột, quá mức của các tế bào thần kinh. Trong dân gian còn gọi động kinh là kinh phong, phong xù, kinh giật. Nếu được điều trị kịp thời và đúng cách, bệnh nhân động kinh có thể bình phục gần như hoàn toàn, hòa nhập tốt với xã hội và có cuộc sống ổn định.

Thuốc chống động kinh còn gọi là thuốc chống co giật được dùng hiện nay rất đa dạng. Việc lựa chọn thuốc điều trị sao cho phù hợp với tình trạng bệnh, khả năng kinh tế của bệnh nhân.

Mục tiêu của điều trị động kinh bằng thuốc là kiểm soát tối đa các cơn, với việc giảm thiểu các tác dụng phụ có hại của thuốc và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Các thuốc chống động kinh không điều trị khỏi hẳn bệnh động kinh, nhưng nếu dùng thuốc trong thời gian dài, khi ngừng thuốc có một số trường hợp cơn động kinh không tái phát. Nhưng để kiểm soát tốt thường là phải dùng thuốc lâu dài, thậm chí là suốt đời. Còn nếu để tình trạng cơn co giật kéo dài mà không được điều trị thì bệnh nhân có các nguy cơ: chậm phát triển thể chất, sa sút tâm thần, bệnh nhân bị cô lập với cuộc sống xã hội, chấn thương do co giật và có thể tử vong.
Tùy vào thời điểm ra đời có thể chia thuốc chống động kinh ra 2 nhóm
- Thuốc thế hệ cũ, ra đời các nay đã lâu đời (như phenobarbital lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1912), gồm có: phenobarbital, carbamazepin, phenytoin, acid valproic hay valproat…
- Thuốc thế hệ mới, ra đời trong thời gian gần đây (như: pregabalin được sử dụng vào năm 2004), gồm có: gabapentin, lamotrigin, oxcarbazepin, topiramat, levetiracetam, pregabalin…
Thuốc chống động kinh mới hơn có xu hướng ít tác dụng phụ hơn nhưng hiệu quả điều trị chưa chắc hơn các thuốc cổ điển. Bởi vì, sự lựa chọn thuốc chống động kinh phụ thuộc vào đặc điểm của từng bệnh nhân, có bệnh nhân lại thích hợp với thuốc cổ điển hơn. Cả hai loại thuốc mới và cũ thường hiệu quả như nhau trong bắt đầu điều trị động kinh.
Người nhà nên giúp người bệnh tuân thủ việc uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ
Người nhà nên giúp người bệnh tuân thủ việc uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ
Trên các phương tiện thông tin đại chúng có khi nhận định chưa đúng khi nói về thuốc chống động kinh như: "thuốc loại này là vô cùng độc hại và tác dụng phụ là vô cùng trầm trọng". Ngoại trừ người ta dùng Gardenal (tên biệt dược trước đây của phenobarbital) dùng liều rất cao để tự tử, cho tới nay chưa có báo cáo chính thức nào cho thấy dùng thuốc chống động kinh ở liều điều trị lại làm cho bệnh nhân tử vong. 
Gardenal cũng là thuốc gây tác dụng phụ có hại vào loại bậc nhất của nhóm thuốc chống động kinh (như gây dị ứng nặng là hội chứng Lyell có thể đưa đến tử vong) và nay gần như không còn được dùng trị động kinh nữa. 
Các thuốc chống động kinh khác đang được sử dụng hiện nay đều không thỏa mãn tiêu chí đồn đại: "thuốc loại này là vô cùng độc hại và tác dụng phụ là vô cùng trầm trọng", cho nên người bệnh có thể an tâm dùng thuốc chữa bệnh.
Còn thắc mắc: "thuốc chống động kinh dùng không đúng gây tử vong" thì thế nào? Dùng không đúng thuốc chống động kinh có 2 trường hợp. Nếu dùng liều thuốc thấp không đủ thì nồng độ thuốc có trong cơ thể người bệnh dưới ngưỡng tác dụng điều trị của thuốc sẽ làm cho người bệnh phát bệnh lên cơn động kinh. Còn nếu dùng liều thuốc quá cao sẽ đưa đến ngộ độc thuốc đưa đến bị các rối loạn, như quá liều valproat có thể gây ngủ gà, blốc tim và hôn mê sâu; nếu được cấp cứu kịp sẽ chữa khỏi. Chỉ trừ trường hợp dùng thuốc trị động kinh có khoảng cách an toàn hẹp (khoảng cách giữa liều điều trị và liều chết quá nhỏ) như Gardenal thì dùng liều quá cao sẽ bị tử vong ngay (chính vì thế mà trước đây người ta hay dùng Gardenal để tự tử).
Bác sĩ chỉ định dùng thuốc chống động kinh cho người bệnh luôn lưu ý
- Khởi động việc điều trị chỉ bằng một thuốc. Bởi vì sử dụng phối hợp hai thuốc ngay từ đầu, nếu không có hiệu quả thì khó lòng có thể đánh giá được thuốc nào là thuốc không tác dụng.
- Khởi đầu bằng liều thấp nhất mà thuốc có tác dụng, tức liều có tác dụng ngăn chặn cơn động kinh xảy ra. Tránh dùng liều cao ngay từ đầu vì sẽ gây ra tác dụng phụ có hại.
- Uống đủ liều và liên tục trong thời gian mà bác sĩ chỉ định. Không được dừng bỏ thuốc, thậm chí chỉ một lần bỏ uống thuốc trong ngày. Chỉ cần bỏ một lần không uống vì bất kỳ lý do gì đều có thể làm giảm nồng độ dưới ngưỡng tác dụng điều trị của thuốc. Và bệnh động kinh có nguy cơ bị tái phát với mức độ nặng hơn, cơn mau hơn nếu bỏ thuốc như vậy.
- Sau 2 năm điều trị mà không thấy có một cơn động kinh nào tái diễn, bác sĩ tiến hành cho việc ngừng thuốc. Trước khi ngừng, phải giảm liều thuốc dần dần mà không dừng thuốc đột ngột. Nếu ngừng thuốc đột ngột sẽ gây động kinh tái diễn, động kinh xuất hiện mau hơn và cả động kinh kháng trị. Trước khi ngừng hẳn thuốc phải có thời gian giảm liều từ từ, kéo dài trong khoảng 3 - 6 tháng. Trong thời gian giảm liều mà có cơn động kinh xuất hiện thì lại phải tiếp tục điều trị động kinh trong tối thiểu 2 năm tiếp theo tính từ thời điểm dùng lại thuốc này. Như vậy, có khi người bệnh phải dùng thuốc kéo dài mãi.


Trẻ dễ gặp nguy nếu dùng thuốc bổ không đúng

Theo các dược sĩ  khoa Dược, BV Nhi Đồng 1 (TPHCM), thuốc bổ, hay còn gọi là đa sinh tố, là hỗn hợp chứa nhiều hơn một vitamin, có thể kèm thêm khoáng chất và các chiết xuất thảo dược. Tuy nhiên nếu dùng sai cách, thuốc bổ chẳng những không giúp ích mà còn có hại.
Cụ thể, khi thấy trẻ thấp còi, sợ xương của bé phát triển không tốt, phụ huynh mua Calci về cho con uống nhưng không biết uống Calci liều cao, kéo dài có thể dẫn đến sỏi thận, làm giảm hấp thu của các chất khoáng  khác như sắt, kẽm, magiê, phốt pho.
thuoc-bo-6149-1443236780.jpg
Cho rằng "thuốc bổ không có hại" là cách nghĩ sai lầm của rất nhiều phụ huynh.
Một số bà mẹ sợ con thiếu máu, muốn bé được bổ máu thì mua các viên tổng hợp để bổ sung chắt sắt, song loại thuốc bổ này nếu uống quá liều hoặc kéo dài sẽ khiến trẻ dễ bị táo bón. 
Các loại vitamin tan trong dầu mỡ như vitamin A, D, E, K thì có thể gây ngộ độc vì khi sử dụng dồn dập bởi chúng không thải kịp mà tích lũy ở gan gây hại. Ngộ độc vitamin A có thể gây tăng áp lực nội sọ, vitamin D có thể dẫn đến táo bón cho trẻ.
Một số vitamin khác có thể gây độc cấp hoặc thậm chí sốc phản vệ như quá liều vitamin C có thể gây sỏi thận, dị ứng với vitamin nhóm B (B1, B6, B12), có thể gây mày đay thậm chí sốc phản vệ.
Cũng theo các dược sĩ, khi cho trẻ dùng thuốc bổ không đúng cách, các bé còn có thể bị rối loạn tiêu hóa dẫn đế đau bụng, nôn ói, tiêu chảy. Một số bé bị biếng ăn (do mất thăng bằng chất dinh dưỡng), hoặc chóng mặt, nhức đầu, buồn ngủ. Nếu các biểu hiện này nặng dần hoặc kéo dài, cha mẹ nên đưa bé ngay đến bác sĩ để được thăm khám và cho cách xử trí hợp lý.
Lời khuyên của các bác sĩ là không nên tùy tiện dùng thuốc bổ cho bé. Các bà mẹ nên hỏi ý của bác sĩ chuyên khoa cách dùng như thế nào, dùng trong bao lâu và liều lượng ra sao.
Ngoài ra, phụ huynh cần cung cấp cho bác sĩ biết về các thông tin về những loại thuốc trẻ đang sử dụng, đặc biệt là thuốc chống đông như Wafarin có thể gây nhiều phản ứng. Cũng cần tránh những loại thuốc điều trị và thuốc bổ mà trẻ từng bị dị ứng khi sử dụng trước đây
Nên dùng thuốc bổ cho bé trong trường hợp trẻ không thể ăn (trẻ bệnh) hoặc không chịu ăn (biếng ăn, không thích ăn thức ăn giàu vitamin). Trẻ với chế độ ăn hợp lý sẽ có lượng  vitamin cần thiết cho  cơ thể nên không cần phải  dùng thêm thuốc bổ.
Thường nên uống vào ban ngày và tốt nhất là buổi sáng. Các viên vitamin đơn lẻ có thể uống trước hay sau ăn đều được. Riêng các viên đa sinh tố (multivitamin) nên uống sau ăn thì  sẽ ít khó chịu hơn.
Thuốc bổ ở dạng lỏng thường có kèm theo dụng cụ để đo lượng thuốc (ống hoặc muỗng có chia vạch ml, ống nhỏ giọt), phụ huynh nên sử dụng dụng cụ đó để đong thuốc cho trẻ.
Một số thuốc có hình dáng, mùi vị như kẹo nên cần để xa tầm với của trẻ, đối với trẻ lớn nên nói cho bé biết đó là thuốc, không phải kẹo để tránh để tự tiện dùng quá liều.


Những điều bạn phải biết để uống thuốc đúng cách

Uống thuốc với nước trà, uống thuốc với sữa, hoặc uống thuốc trong khi uống rượu đều là những cách uống thuốc không đúng. 5 điều dưới đây sẽ giúp bạn biết cách uống thuốc khoa học.

Nước dùng để uống thuốc nhiều khi chưa được người bệnh chú ý, dẫn đến tình trạng uống thuốc với nước trà, uống thuốc với sữa, hoặc uống thuốc trong khi uống rượu… đã gây nên tình trạng tương tác giữa thuốc với các đồ uống trên, nhiều khi gây nguy hiểm cho người bệnh…
1. Nước (ở đây là nước đun sôi để nguội, nước lọc tinh khiết) là đồ uống (dung môi) thích hợp nhất cho mọi loại thuốc vì không xảy ra tương kỵ hay tương tác nào khi hòa tan thuốc. Nước còn là phương tiện để dẫn thuốc (dạng viên) vào dạ dày - ruột, làm tăng độ tan rã của thuốc và hòa tan hoạt chất, giúp cho thuốc được hấp thu dễ dàng.
Vì vậy, khi uống thuốc cần uống đủ nước (ít nhất từ 100 - 200ml cho mỗi lần uống thuốc) và uống trong tư thế người thẳng để thuốc có thể trôi dễ dàng xuống dạ dày, tránh đọng viên thuốc tại thực quản có thể gây kích ứng, loét thực quản, đặc biệt đối với người cao tuổi.
Không dùng sữa để uống thuốc vì sẽ làm giảm hoặc mất tác dụng chữa bệnh của thuốc. Ảnh: TL
Trong quá trình dùng thuốc điều trị, cũng nên uống nhiều nước hàng ngày, có thể uống từ 1,5 - 2 lít nước/ngày để làm tăng tác dụng của thuốc (đối với các loại thuốc tẩy), tăng thải trừ và làm tan các dẫn xuất chuyển hóa gây hại của thuốc đối với cơ thể.
Ví dụ như khi uống các sulfamid kháng khuẩn chẳng hạn… Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, khi uống các thuốc tẩy sán, tẩy giun như niclosamid, mebendazol thì lại cần uống ít nước hơn bình thường để duy trì nồng độ thuốc cao trong ruột, sẽ có hiệu quả cao hơn.
2. Không dùng nước quả, nước khoáng hoặc các loại nước ngọt đóng hộp có gas để uống thuốc vì các loại nước này có thể làm hỏng thuốc hoặc gây hấp thu quá nhanh, sẽ gây độc…
3. Không dùng sữa để uống thuốc vì trong thành phần của sữa có chứa canxi. Nhiều thuốc tạo phức với canxi của sữa sẽ không được hấp thu (ví dụ như kháng sinh tetracyclin, lincomycin, muối Fe...), do đó sẽ giảm hoặc không có tác dụng chữa bệnh.
4. Bên cạnh đó, cũng không dùng cà phê hay nước chè để uống thuốc. Hoạt chất cafein, tanin có trong cà phê, nước chè cũng sẽ làm tăng hoặc giảm tác dụng hoặc gây kết tủa một số thuốc điều trị… không những làm ảnh hưởng tới kết quả điều trị bệnh mà còn gây tai biến.
5. Trong quá trình dùng thuốc, nhiều người vẫn uống rượu, điều này vô cùng nguy hiểm. Rượu có rất nhiều ảnh hưởng đến thần kinh trung ương, hệ tim mạch, sự hấp thu của đường tiêu hóa. Người nghiện rượu còn bị giảm protein huyết tương, suy giảm chức năng gan, nhưng lại gây cảm ứng enzym chuyển hóa thuốc của gan, vì thế, rượu có tương tác với rất nhiều thuốc và các tương tác này đều là bất lợi.
Do đó, khi đã dùng thuốc thì không uống rượu. Với người nghiện rượu cần phải dùng thuốc, thầy thuốc cần kiểm tra chức năng gan, tình trạng tâm thần... để chọn thuốc và dùng liều lượng thích hợp, trong thời gian dùng thuốc cũng phải ngừng uống rượu.


Nguy cơ mắc ung thư, bệnh tim do lạm dụng vitamin

Theo một nghiên cứu của các nhà khoa học mới đây, hiện có khoảng 18 triệu người Anh đang suy nghĩ rằng, thuốc uống bổ sung vi chất sẽ có lợi và cải thiện sức khỏe của người sử dụng. 
Nguy cơ mắc ung thư, bệnh tim do lạm dụng vitamin
Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra vấn đề này vẫn luôn tồn tại hai mặt đối lập của nó và mặt tiêu cực chắc chắn sẽ gây ra những nguy hiểm không nhỏ, việc dùng quá nhiều các loại thuốc vitamin và chất bổ sung có thể làm gia tăng nguy cơ mắc ung thư và bệnh tim.
TS Tim Byers - một trong những chuyên gia về ung thư hàng đầu thế giới làm việc tại Trung tâm Ung thư của trường Đại học Colorado (Mỹ) cho biết: “Chúng tôi không chắc chắn lý do tại sao điều này lại đang xảy ra nhưng bằng chứng đã cho thấy rằng những người uống các loại thuốc bổ nhiều hơn mức cần thiết có nguy cơ cao phát triển bệnh ung thư.”
Hai thập kỷ trước, nghiên cứu nhận thấy những người ăn nhiều trái cây và rau quả có nguy cơ mắc ung thư thấp hơn. Do vậy, Tiến sĩ Bryers đã bắt đầu điều tra về việc liệu uống các loại vitamin bổ sung và khoáng chất có giúp làm giảm nguy cơ phát triển bệnh hay không.
Ông cho biết: “Khi chúng tôi thử nghiệm lần đầu tiên các loại thuốc bổ trên một số loài động vật, chúng tôi nhận được những kết quả đầy hứa hẹn. 
Cuối cùng, khi chuyển sang thử nghiệm với con người, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên hàng ngàn bệnh nhân trong khoảng 10 năm có sử dụng thuốc bổ và các loại giả dược và thu được kết quả là các loại thuốc bổ thực sự không hề có lợi cho sức khỏe của họ. Trên thực tế, nhiều người đã mắc bệnh ung thư trong quá trình sử dụng vitamin.”
Theo nghiên cứu của TS Byers, việc bổ sung quá nhiều tiền tố vitamin A – beta-caroten làm tăng nguy cơ phát triển bệnh ung thư phổi và bệnh tim lên tới 20%. Ngoài ra, uống quá nhiều axit folic cũng làm tăng nguy cơ mắc ung thư tới 56%. 
Tuy nhiên, Tiến sĩ khuyến cáo mọi người rằng không nên quá lo lắng hay e sợ khi sử dụng các loại vitamin bổ sung và khoáng chất. “Nếu uống với liều lượng phù hợp, vitamin tổng hợp rất có lợi cho sức khỏe con người.”
Ông cũng khuyên mọi người nên bổ sung vitamin và khoáng chất thông qua chế độ ăn hàng ngày với các món ăn chưa nhiều rau củ như bông cải xanh bổ sung axit folic, cải xoăn và hạnh nhân bổ sung vitamin E, cà rốt và xoài bổ sung beta-caroten. Ngược lại, các nhà phê bình nói rằng nhiều người bị thiếu vitamin và các chất bổ sung có thể giúp họ có đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể.
Dự kiến, các kết quả nghiên cứu trên của TS Byers sẽ được trình bày và thảo luận sâu hơn tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội nghiên cứu ung thư Mỹ trong năm nay.


Thứ Tư, 23 tháng 9, 2015

Bộ đôi thuốc và thực phẩm dùng chung có hại


618-348-food-and-drug-combinat-8076-2769
Ảnh: Getty.
Thuốc giúp chúng ta khỏe hơn, song nếu uống không đúng cách lại gây hại cho cơ thể. Dưới đây là 5 bộ đôi thuốc - thực phẩm bạn không nên kết hợp, theo Men's Journal.
Bưởi và thuốc giảm mỡ máu statin
Ăn bưởi khi uống statin sẽ trở nên nguy hiểm. Thuốc bị enzim trong nước bưởi phá vỡ và lưu lại trong gan, ruột non. Nồng độ thuốc trong máu tăng lên khiến các tác dụng phụ như đau cơ trở nên nặng nề. Tốt nhất là bạn không ăn bưởi nếu đang dùng statin.
Nước cam và thuốc kháng histamin điều trị dị ứng
Các loại quả họ cam chanh khiến cơ thể không thể hấp thụ thuốc kháng histamin. Nước cam ngăn chặn hoạt động của các protein có nhiệm vụ vận chuyển thuốc đi khắp cơ thể khiến thuốc không còn tác dụng. Để vẫn thưởng thức nước cam trong thời gian sử dụng thuốc, bạn hãy uống hai thứ này cách xa nhau, ví dụ nước cam vào buổi sáng và thuốc vào ban đêm.
Cải xoăn, cam thảo và thuốc làm loãng máu
Cải xoăn, rau chân vịt, súp lơ xanh và cải brussel đều có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nếu ăn khi uống thuốc làm loãng máu như coumadin hay warfarin. Vitamin K trong các loại rau lá xanh này là chất đông máu tự nhiên sẽ vô hiệu hóa thuốc. Cam thảo cũng dẫn đến tình trạng tương tự, đặc biệt là khi dùng với coumadin. Tốt nhất, nếu đang phải uống thuốc làm loãng máu, bạn hãy tham khảo ý kiến bác sĩ về những thực phẩm cần tránh.
Thức ăn mặn và thuốc giảm huyết áp
Người đang uống thuốc giảm huyết áp nên hạn chế muối vì ăn mặn sẽ khiến huyết áp tăng trở lại và thuốc mất hiệu quả. Trong trường hợp ăn rau củ đóng hộp, bạn hãy rửa qua với nước sạch để nhạt bớt.

Tác hại khôn lường khi lạm dụng viên ngậm trị ho

Viên ngậm trị ho với vị ngọt và hương thơm hấp dẫn khiến nhiều người hay gọi là "kẹo" và sử dụng chúng một cách không thích hợp có thể gây ra những tác hại đối với sức khỏe.


Viên ngậm ho được quảng cáo rất công hiệu chữa dứt các cơn ho, kiểm soát hữu hiệu các cơn ho, ức chế trung tâm gây ho… với hương thơm và vị ngọt hấp dẫn khiến nhiều người quen gọi là "kẹo" và lạm dụng nó. Tuy nhiên, việc này có thể dẫn đến những tác hại khôn lường mà ít người biết.
Thuốc viên ngậm trị ho thường chứa các hoạt chất như tinh dầu bạc hà (menthol), tinh dầu tràm (eucalyptol) hoặc chứa dược chất ức chế phản xạ ho như dextromethorphan... Có cả thuốc viên ngậm đông y như bổ phế ngậm. Thuốc viên ngậm có vị ngọt nhờ có tá dược làm ngọt là đường mía (saccharose) hoặc chất làm ngọt nhân tạo (như aspartam) dành cho người kiêng đường hay người bệnh tiểu đường, theo Người Lao Động.
Hiện có rất nhiều loại viên ngậm ho khác nhau, thậm chí còn có những loại có các hương vị hấp dẫn. Vì sự tiện lợi nên nhiều người lựa chọn và lạm dụng nó. Tuy nhiên, viên ngậm ho chứa những chất sát trùng họng có công dụng làm dịu cơn ho, dịu thanh quản, giúp sát trùng đường hô hấp, hỗ trợ điều trị các chứng ho, đau họng, khản giọng… chứ không có tác dụng chữa ho hay trị triệt để cơn ho. Việc lạm dụng loại kẹo ngậm này có hại cho sức khỏe. Các vị hoa quả cũng chỉ là hương liệu đưa vào để thơm ngon, bắt mắt và dễ dùng.
Lạm dụng viên ngậm ho có thể gây ra những tác hại khôn lườngLạm dụng viên ngậm ho có thể gây ra những tác hại khôn lường
Không ít trường hợp bệnh tăng nặng do tự mua các loại viên ngậm ho hay dùng loại sirô ho uống. Ho có rất nhiều nguyên nhân gây nên nhưng thường gặp là do cảm lạnh, mắc các bệnh đường hô hấp như viêm mũi họng, viêm amiđan, viêm xoang, viêm thanh quản, viêm tiểu phế quản, viêm phổi… Để điều trị dứt bệnh phải tìm được nguyên nhân gây ho.
Một số chuyên gia khuyên chỉ cần giữ ấm, dinh dưỡng đầy đủ chất, uống nước nhiều hơn, đặc biệt là nước cam hoặc nước chanh để tăng sức đề kháng thì có khả năng tự khỏi sau một vài ngày và không cần dùng thuốc. Có thể sử dụng một số phương pháp chữa trị từ thiên nhiên để hạn chế tác dụng phụ mà vẫn giảm ngứa họng và ho như gừng, mật ong, ô mai, cam thảo…Với mật ong, có thể kết hợp với lá hẹ, vỏ quýt, quất nguyên vỏ xanh, lá húng chanh, hoa hồng bạch… hấp cách thủy, uống hoặc ngậm đều cho tác dụng tốt trong việc trị ho.
Trong trường hợp dùng thuốc viên ngậm trị ho (chỉ dùng cho người lớn và trẻ tương đối lớn) nên lưu ý, trước và sau khi đưa thuốc vào miệng, cần rửa tay sạch; ngậm cho thuốc tan từ từ, tránh nhai viên thuốc. Đối với trẻ nhỏ, cần lưu ý khi cho trẻ sử dụng viên ngậm ho, tốt nhất không nên cho dùng vì trẻ có nguy cơ bị sặc, theo Zing News.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons