Thứ Năm, 10 tháng 9, 2015

Một số thuốc gây nhiễm mỡ gan

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng nhiễm mỡ ở gan. Thông thường hơn 90% các trường hợp gan nhiễm mỡ diễn ra âm thầm, mạn tính và trong thời gian dài.

Tuy nhiên, các trường hợp gan nhiễm mỡ cấp tính thì lại tiến triển nhanh và nguy cơ gây tử vong cao. Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng gan nhiễm mỡ cả cấp tính và mạn tính là do sử dụng thuốc. Vậy thuốc nào có nguy cơ gây ra bệnh lý này?
Tetracycline: Tetracycline dùng qua dạng uống có thể gây ra thâm nhiễm mỡ dạng bọng nhỏ, thường không để lại hậu quả về lâm sàng. Sự xuất hiện và mức độ của thoái hóa mỡ có mối liên hệ chặt chẽ với liều dùng; cần chú ý trong khi dùng tetracycline đường tĩnh mạch ở phụ nữ có thai có nguy cơ cao gây suy gan và tử vong.
Bệnh nhân cần tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ, tránh tự ý dùng thuốc.
Bệnh nhân cần tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ, tránh tự ý dùng thuốc.
Valproic acid: Thuốc chống co giật acid valproic có thể gây bất thường ở gan sau dùng thuốc 2 - 4 tháng.
Amiodarone: Việc sử dụng chất này thường liên quan đến sự tăng nồng độ aminotransferase trong huyết thanh. Trị liệu lâu dài có thể gây ra thâm nhiễm mỡ dạng bọng lớn ở gan và những biến đổi bệnh học tương tự trong viêm gan do rượu.
Glucocorticoids: Glucocorticoid dùng liều cao có thể gây ra gan nhiễm mỡ. Tác động này phần lớn xuất hiện ở trẻ em. Nguyên nhân chính gây ra gan nhiễm mỡ là do tăng giải phóng acid béo từ các mô mỡ. Gan nhiễm mỡ có thể hồi phục khi ngưng glucocorticoid.
Ngoài ra còn rất nhiều thuốc khác có thể gây nhiễm mỡ ở gan như methotrexat (thuốc ức chế miễn dịch dùng trong điều trị ung thư), estrogen (thường dùng trong ngừa thai), perhexilin (thuốc trị cơn đau thắt ngực).
Do đó, khi bệnh nhân buộc phải dùng một trong các loại thuốc nêu ở trên, cần phải tuân thủ theo điều trị của bác sĩ và phải được theo dõi chức năng gan định kỳ.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Vitamin B12 làm phát triển ổ viêm mụn trứng cá

Một nghiên cứu mới đây của ULCA - một trong 10 trường đại học nổi tiếng thế giới của Mỹ đã tìm ra vitamin B12 làm biến đổi hoạt động của Propionibacterium acnes (P.A) là loại vi khuẩn gây bệnh trứng cá đưa đến viêm da mụn mủ.
Cả vi khuẩn cộng sinh lẫn vi sinh vật có khả năng gây bệnh được gọi chung là vi khuẩn gây bệnh cho da đã làm tổ ở đó. Mụn trứng cá sinh lý là một loại mụn đặc thù thường thấy ở các thanh thiếu niên, bắt đầu mọc ở các nang lông, làm bít lỗ chân lông - nơi mà chúng cư trú gây ảnh hưởng đến tế bào da của người. 
Một nhóm các nhà khoa học đã dựa vào những nghiên cứu gần đây để quyết định xem xét nguồn gốc phát sinh hoạt động của các vi khuẩn trên da và P.A một cách chi tiết (những vi khuẩn mang gen của chúng). 
Đặc biệt, các nhà khoa học muốn nghiên cứu xem sự khác nhau chủ yếu của hoạt động của những vi khuẩn trên da người bình thường và người bị bệnh trứng cá là như thế nào? Và họ đã phát hiện ra vitamin B12 được tìm thấy trong thịt và các sản phẩm bơ sữa đã làm bùng phát mụn trứng cá trên một số người.
BS Dezhi Kang, tốt nghiệp Trường ĐH ULCA, tác giả của nghiên cứu này cùng các cộng sự của ông đã tập hợp các mẫu da của những người tham gia thực nghiệm gồm những người có bệnh trứng cá và không có bệnh trứng cá. Sử dụng chuỗi gen, họ đã khám phá trong những người bị trứng cá thì loài P.A không trao đổi chất được với vitamin B12 như ở những người da bình thường.
Bổ sung vitamin B12 có thể làm biến đổi hoạt động trao đổi chất của vi khuẩn trên da, làm cho vi khuẩn P.A gây ra quá nhiều ổ viêm da bã nhờn và dẫn đến mụn trứng cá.
Vì vậy, các nhà khoa học quyết định làm những thử nghiệm. Họ cho 10 người da khỏe mạnh tham gia bổ sung vitamin B12 với liều lượng cao (gây quá tải cho khả năng đáp ứng của cơ thể). Theo kết quả thì có 1 người tham gia bị bùng phát mụn trứng cá nhanh chóng.
Vitamin B12 đã sửa lại sự sao chép gen và hoạt động chuyển hóa của vi khuẩn ở da, đưa đến sự gia tăng sản phẩm porphyrin - điều này làm phát triển thêm ổ viêm ở mụn trứng cá.
Các tác giả đã viết lại kết luận trong bản nghiên cứu của họ: Việc bổ sung B12 đã tác động đến gen của vi khuẩn trên da gây nên mụn trứng cá ở một số người. Vitamin B12 không phải là nguyên nhân duy nhất gây mụn trứng cá, nhưng cũng nên ngừng sử dụng chúng khi đang điều trị mụn trứng cá.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc chế ngự cơn đau dạ dày

Đau dạ dày và đau nói chung là triệu chứng thường gặp và gây nhiều phiền toái, khó chịu cho người bệnh. Để chế ngự các cơn đau, giải pháp được lựa chọn đầu tiên là dùng thuốc giảm đau.

Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, phần lớn những người sử dụng các chế phẩm giảm đau không những sử dụng sai phương pháp mà còn không để ý đến những tác dụng phụ của các loại thuốc này, trong đó hay gặp nhất là những biến chứng ở đường tiêu hóa như viêm dạ dày, loét dạ dày và đặc biệt là chảy máu dạ dày.
Có những loại thuốc giảm đau nào?
Thuốc giảm đau được chia làm 3 loại:
Thuốc giảm đau loại morphin: nhóm thuốc này có chung một đặc tính là gây nghiện, vì vậy đều thuộc "bảng A, gây nghiện", không kê đơn quá 7 ngày.
Thuốc giảm đau không phải morphin: paracetamol và thuốc chống viêm không steroid. Thông thường, nhóm thuốc này được sử dụng trong các trường hợp sau:
Các triệu chứng đau và sốt thông thường: Các triệu chứng sốt và đau trong cảm cúm, phụ khoa, tiết niệu, thần kinh, tai mũi họng, sau phẫu thuật...
Thuốc chế ngự cơn đau dạ dày
Khi bị viêm loét dạ dày cần đi khám bác sĩ chuyên khoa và dùng thuốc theo hướng dẫn.
Các bệnh viêm cấp và mạn tính: thấp khớp cấp, viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp cùng chậu...
Dự phòng huyết khối và tắc mạch trong các bệnh tăng huyết áp; hẹp van 2 lá, viêm tĩnh mạch, giãn tĩnh mạch...
Ngoài ra, các thuốc thuộc nhóm này còn đang được nghiên cứu để dự phòng và điều trị Alzheimer, polip đại tràng, ung thư đại - trực tràng, ung thư tuyến liền liệt...
Thuốc giảm đau hỗ trợ: là những thuốc có tác dụng làm tăng hiệu quả giảm đau hoặc giảm nhẹ tác dụng không mong muốn của các thuốc trên. Các thuốc này đặc biệt hiệu quả đối với đau do nguyên nhân thần kinh. Hay sử dụng là các thuốc chống trầm cảm và thuốc chống động kinh.
Những tác dụng phụ khi dùng thuốc giảm đau
Viêm loét, xuất huyết đường tiêu hóa: Đây là tác dụng phụ rất hay gặp, nhất là khi sử dụng các thuốc giảm đau, chống viêm non-steroid. Trên lâm sàng, hiện nay nhóm thuốc này có thể được coi là nhóm thuốc được sử dụng phổ biến và nhiều nhất do rất nhiều tác dụng tối ưu của chúng, tuy nhiên bên cạnh các tác dụng có lợi thì nhóm thuốc này cũng có rất nhiều tác dụng không mong muốn, thậm chí cả các tác dụng phụ có thể gây nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân.
Tác dụng phụ xuất hiện cả khi dùng đường uống hoặc đường tiêm. Sở dĩ tác dụng phụ này hay gặp nhất, một mặt do thuốc gây tổn thương trực tiếp niêm mạc dạ dày, mặt khác nó làm giảm quá trình sản xuất chất nhày tạo điều kiện cho acid và pepsin của dịch vị gây tổn thương niêm mạc. Biểu hiện của tác dụng phụ rất khác nhau: cảm giác đầy bụng, nóng rát vùng thượng vị, viêm loét dạ dày tá tràng; chảy máu, thủng dạ dày, hành tá tràng.
Các thuốc giảm đau nguy cơ cao gây chảy máu đường tiêu hóa
Ibuprofen: có trong thành phần của nhiều loại thuốc giảm đau như alaxan, antidol và thường được kết hợp với paracetamol (thuộc nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt) có thể giảm cơn đau nhanh chóng do ức chế sự tổng hợp hay phóng thích prostaglandin. 
Tuy nhiên, cần chú ý đến tác dụng không mong muốn của thuốc gây ra. Hay gặp nhất là tác dụng phụ về đường tiêu hóa. Có tới 5-15% người bệnh dùng ibuprofen gặp hiện tượng: trướng bụng, đau bụng, buồn nôn, nôn, nặng hơn là loét dạ dày tiến triển, chảy máu dạ dày, ruột...
Aspirin: đây là thuốc hay dùng nhất trong nhóm dẫn xuất của acid salicylic. Ngoài tác dụng hạ sốt và giảm đau, chống viêm còn có tác dụng chống kết tập tiểu cầu, vì vậy thuốc làm giảm quá trình đông máu. Aspirin có tác dụng giảm đau tốt nên được nhiều người tín nhiệm để uống khi bị sốt cao, nhức đầu, đau răng, đau mình mẩy, thấp khớp cấp và mạn. 
Tuy nhiên, đây cũng là thuốc nguy cơ rất cao gây viêm loét dạ dày tá tràng, chảy máu đường tiêu hóa. Lạm dụng thuốc có thể gây xuất huyết dạ dày, thậm chí thủng dạ dày rất nguy hiểm. Thuốc hiện nay hay dùng là dạng aspirin pH8 (viên bao tan ở ruột) để giảm tác dụng kích ứng ở dạ dày. 
Cần chú ý các dạng thuốc phối hợp như viên APC, asca, aspirin sủi bọt, thuốc tiêm aspegic vẫn có phản ứng có hại gây viêm loét đường tiêu hóa nên cần phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc điều trị để tránh các phản ứng có hại của thuốc (ADR) nguy hiểm.
Indomethacin: hay dùng để điều trị đau lưng, viêm dây thần kinh, viêm xương khớp, hư khớp, thấp khớp mạn tính do có tác dụng chống viêm, giảm đau tốt. Người cao tuổi bị bệnh mạn tính về khớp hay được kê đơn nên cũng dễ bị các phản ứng có hại do dùng thuốc kéo dài không đúng cách. ADR nguy hiểm nhất của thuốc này là gây viêm loét dạ dày - tá tràng, ruột, rối loạn đông máu.
Diclofenac (voltaren, diclofen): là thuốc giảm đau, chống viêm dung nạp tốt nên hay dùng trong các chứng thấp khớp, thoái hóa và viêm hư khớp, thoái hóa cột sống, viêm nhiều khớp, đau lưng, đau thần kinh hông. Đây cũng là một trong những thuốc gây loét dạ dày - ruột - tá tràng khá nguy hiểm do nhiều người lạm dụng trong điều trị đau.
Các dẫn xuất của nhóm oxicam: thường dùng là meloxicam; pirocicam; tenocicam, các thuốc này hiện nay cũng thường được dùng trong điều trị viêm xương khớp, thoái hóa khớp, viêm cột sống cứng khớp. Tuy phản ứng có hại gây loét và xuất huyết đường tiêu hóa ít gặp hơn nhưng vẫn là nhóm thuốc có nguy cơ cao gây chảy máu đường tiêu hóa nếu bị lạm dụng, dùng liều cao kéo dài.
Tác dụng không mong muốn khác
Bên cạnh tác dụng phụ gây viêm loét chảy máu đường tiêu hóa còn có thể gặp rất nhiều tác dụng không mong muốn khác như nghiện thuốc, gãy xương (với nhóm giảm đau gây nghiện), tổn thương gan nặng (khi dùng quá liều paracetamol), tổn thương thận (khi dùng paracetamol và/ hoặc thuốc giảm đau non-steroid).
Nguyên tắc sử dụng thuốc giảm đau
Thuốc giảm đau chỉ điều trị triệu chứng, thuốc có thể che lấp các dấu hiệu của bệnh trong khi bệnh vẫn tiến triển nên phải hết sức cân nhắc khi sử dụng thuốc giảm đau. Khi lựa chọn thuốc, cần chú ý đến cường độ và bản chất của đau. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo nên uống thuốc theo bậc thang giảm đau:
Bậc 1 (đau nhẹ): dùng thuốc giảm đau không phải opioid như paracetamol, thuốc chống viêm không phải steroid. Dùng một trong các thuốc giảm đau thông dụng nhất là paracetamol, aspirin, ibuprofen... Việc chọn lựa tùy theo sự nhạy cảm của từng người, những chống chỉ định khác nhau và sự tương tác của chúng với những thuốc khác.
Bậc 2 (đau vừa): phối hợp thuốc loại opioid yếu (codein, oxycodon) với paracetamol, thuốc giảm đau, chống viêm không steroid hoặc thuốc giảm đau hỗ trợ. Có thể dùng các thuốc giảm đau mạnh hơn như codein hoặc dextropropoxyphen.
Bậc 3 (đau nặng): dùng thuốc giảm đau loại opioid mạnh: morphin, hydromorphon, methadon... phối hợp với thuốc chống viêm không steroid. Thường gặp trong các trường hợp đau do ung thư, do bỏng nặng, hoặc chấn thương nặng... thì phải dùng đến morphin và các dẫn chất của nó. Vì dễ gây ra hiện tượng quen thuốc, nghiện thuốc, chỉ sử dụng khi có sự chỉ định của thầy thuốc, dùng đúng liều lượng và đúng thời gian ấn định.
Để tránh những rối loạn về tiêu hóa, nên uống thuốc vào lúc no và uống với một cốc nước (khoảng 200 - 250ml). Cần đặc biệt chú ý đây là loại thuốc thường dùng để điều trị đau cấp tính, chỉ nên dùng trong thời gian ngắn mà không nên kéo dài. Không nên tự ý dùng thuốc này nếu không có chỉ định. Nếu bị khó chịu ở dạ dày, nên uống thuốc cùng với thức ăn hoặc ngay sau ăn.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thứ Tư, 9 tháng 9, 2015

Uống thực phẩm chức năng kết hợp với thuốc: Coi chừng mất mạng!

Cục Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ cảnh báo, việc uống vitamin bổ sung hoặc thực phẩm chức năng kết hợp với các loại thuốc khác có thể gây nguy hiểm cho người sử dụng.

Cục Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ (FDA) cho biết, thực phẩm chức năngcó thể làm thay đổi sự hấp thu và chuyển hóa của các loại thuốc kê theo đơn hoặc không theo đơn. 
"Một số loai thực phẩm chức năng có thể làm tăng tác dụng của thuốc. Tuy nhiên, một số khác lại có thể gây phản tác dụng của thuốc”, Robert Mozersky, nhân viên y tế tại FDA, giải thích trong một thông cáo báo chí . 
Thực phẩm chức năng dùng kết hợp với thuốc rất dễ gây nguy hiểm cho người sử dụngThực phẩm chức năng dùng kết hợp với thuốc rất dễ gây nguy hiểm cho người sử dụng. Ảnh minh họa
Thực tế cho thấy, loại chất bổ sung St. John Wort có thể làm hạn chế tác dụng của thuốc tránh thai, FDA cho biết. Ngoài ra, cả hai thảo dược bổ sung ginkgo biloba và vitamin E có thể làm mỏng lượng máu trong cơ thể. Việc kết hợp này có thể làm làm mỏng lượng máu trong cơ thể hoặc aspirin dễ làm tăng hiện tượng chảy máu trong, thậm chí là đột quỵ, báo cáo cho biết. 
Các loại thực phẩm chức năng được sử dụng khá phổ biến tại Mỹ. Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh và cuộc Khảo sát dinh dưỡng và Sức khỏe Quốc gia 2005 - 2008 phát hiện thấy rằng, khoảng 72 triệu người Mỹ vừa dùng thuốc theo đơn của bác sĩ vừa uống các loại thực phẩm chức năng. 
Mặc dù nhiều người cho rằng, sử dụng thực phẩm chức năng sẽ bổ sung lượng dinh dưỡng phù hợp cho cơ thể, nhưng FDA cho biết sản phẩm này không thể thay thế cho chế độ ăn lành mạnh, giàu dinh dưỡng. 
Mặt khác, nhiều sản phẩm được gắn mác “tự nhiên” hoặc thảo dược cũng chưa chắc đã hoàn toàn vô hại. “Tự nhiên không có nghĩa là an toàn”. Điều này đặc biệt đúng đối với trẻ em, ông Mozersky cho biết thêm.
"Các bậc cha mẹ nên lưu ý, quá trình trao đổi chất của trẻ em ở các lứa tuổi khác nhau cũng rất khác biệt. Vì vậy, việc sử dụng thuốc lẫn với thực phẩm chức năng rất dễ gây hại cho trẻ”, ông Mozersky giải thích. 
Ngoài ra, những người có dự định sẽ thực hiện phẫu thuật cũng nên tham khảo ý kiến bác sĩ về tất cả các loại thực phẩm chức năng mà họ sử dụng. 
Đây là việc làm cần thiết nhằm hạn chế tối đa những rủi ro nghiêm trọng cho người bệnh liên quan đến nhịp tim, huyết áp hoặc nguy cơ chảy máu, FDA khuyến cáo. Bên cạnh đó, phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú cũng nên hỏi bác sĩ về các loại thực phẩm chức năng  mà họ sử dụng. 
"Điểm mấu chốt của vấn đề ở đây là trước khi sử dụng thực phẩm chức năng hoặc dùng thuốc theo toa hay không theo toa thì vẫn cần có sự tư vấn của chuyên gia y tế để đảm bảo an toàn cho chính người tiêu dùng”, ông Mozersky khẳng định.  


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2015

Những sự thật về thuốc ngừa thai mà bạn cần biết

Một số nghiên cứu mới cho thấy ngoài tác dụng ngừa thai, trong một số trường hợp, thuốc tránh thai còn có thể làm thay đổi suy nghĩ của phái nữ về đối phương, làm giảm nhu cầu tình dục.

Những sự thật về thuốc ngừa thai mà bạn cần biết
Thuốc tránh thai làm tăng kích thước "vòng 1"
Sau khi thuốc ngừa thai xuất hiện vào năm 1960, các nhà sản xuất áo ngực nhận thấy kích thước ngực phụ nữ cũng tăng lên, doanh số bán áo ngực cỡ C tăng đến 50%. Đây có thể là do estrogen và progesterone trong một số loại thuốc ngừa thai. Estrogen có thể gây giữ nước dẫn đến tăng kích thước vòng 1 nhưng thay đổi này thường chỉ là tạm thời và kích thước ngực sẽ trở lại như cũ vài tháng sau khi ngưng thuốc.
Thuốc tránh thai có thể làm giảm ham muốn tình dục
TS Christiane Northrup, tác giả cuốn sách Women's Bodies, Women's Wisdom giải thích rằng thuốc tránh thai làm giảm lượng testosterone - một hormone quan trọng đối với ham muốn tình dục ở phụ nữ. Tuy nhiên trong bài báo cáo trên Tạp chí Ngừa thai và Chăm sóc sức khỏe sinh sản châu Âu, sau khi tổng kết 36 nghiên cứu từ năm 1978 đến năm 2011, người ta nhận thấy chỉ có 15% phụ nữ uống thuốc ngừa thai bị suy giảm ham muốn tình dục.
Khi ngưng uống thuốc, bạn có thể thấy đối phương kém hấp dẫn
Trong một nghiên cứu năm 2014 đăng trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences, các nhà nghiên cứu tiến hành theo dõi 48 cặp đôi gặp nhau khi người phụ nữ đang uống thuốc tránh thai bằng hormone và quan sát mối quan hệ của họ sau đó. 
Nghiên cứu nhận thấy phần lớn những phụ nữ này sẽ thấy ngoại hình của đối phương kém hấp dẫn sau khi ngừng uống thuốc. Sự thay đổi về hormone đã gây ra cảm giác này, nhưng các nhà nghiên cứu cũng cho biết những thay đổi này "khá tinh tế và không đáng báo động".
Đối phương có thể cần dùng thêm chất bôi trơn nếu bạn uống thuốc ngừa thai
Thuốc ngừa thai hiện nay có lượng estrogen thấp, mà estrogen lại ảnh hưởng đến việc bôi trơn âm đạo. Một số phụ nữ sẽ có thể cảm thấy âm đạo không được bôi trơn đủ và đối phương sẽ cần phải dùng thêm chất bôi trơn dạng nước khi quan hệ tình dục.
Những sự thật về thuốc ngừa thai mà bạn cần biết
Đối phương có thể không cần dùng bao cao su nếu bạn đã uống thuốc ngừa thai
Thuốc ngừa thai có thể là giải pháp tốt cho những ai không muốn dùng bao cao su khi quan hệ tình dục nhưng cần phải có thời gian. Thuốc không thể phát huy tác dụng ngay khi bạn bắt đầu uống. Để an toàn, bạn nên sử dụng kết hợp cả hai để ngừa thai hiệu quả hơn bảo vệ bản thân khỏi các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.
Thuốc ngừa thai ảnh hưởng đến tâm trạng
Phản ứng của cơ thể mỗi người đối với thuốc ngừa thai là khác nhau. Một số người sẽ dễ thay đổi tâm trạng hơn, còn một số khác lại có tâm trạng ổn định, cảm thấy ít bức bối trong kỳ kinh nguyệt, không bị đau nửa đầu.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Dùng thuốc kháng sinh thế nào cho an toàn?

Nhiều người bệnh tự ý dùng kháng sinh mỗi khi trái nắng trở trời hoặc đến nhà thuốc kể bệnh để người bán thuốc chọn kháng sinh, khi dùng vài ngày thấy đỡ thì thôi.

Trên thị trường nước ta hiện có 17 nhóm thuốc kháng sinh với khoảng 500 tên thuốc gốc và hàng ngàn tên biệt dược khác nhau (vì vậy nếu dùng tên biệt dược mà hỏi, nhiều khi đến cả dược sĩ, bác sĩ cũng không dám trả lời).
Không những có nhiều tên thuốc khác nhau, mỗi loại thuốc lại còn được bào chế dưới nhiều dạng như: tiêm, uống, dùng ngoài. Trong đó, thuốc uống và thuốc dùng ngoài có nhiều dạng thuốc khác nhau.
Thuốc uống có nhiều dạng thuốc nhất như: thuốc viên (viên nén, viên nén bao đường, viên bao tan trong ruột, viên nhộng...), thuốc nước (nhũ dịch, sirô, dung dịch), thuốc gói, thuốc cốm.
Thuốc dùng ngoài có: viên đặt âm đạo; thuốc nước nhỏ mắt, nhỏ tai; thuốc mỡ: tra mắt, bôi ngoài; thuốc phun sương xịt mũi...
Vì vậy, quy chế sử dụng thuốc kháng sinh: kháng sinh là loại thuốc phải được bác sĩ khám bệnh kê đơn mới được mua (hoặc cấp) và sử dụng.
Dùng thuốc kháng sinh thế nào cho an toàn? 1
Làm kháng sinh đồ giúp thầy thuốc chỉ định thuốc hợp lý hơn
Những tai biến do sử dụng thuốc kháng sinh
- Dị ứng (trường hợp nặng là sốc phản vệ dẫn đến tử vong).
- Loạn khuẩn đường ruột, gây tiêu chảy hoặc rối loạn tiêu hóa.
- Nhờn thuốc, nguy hiểm hơn là tăng số loại vi khuẩn kháng thuốc.
- Nhiễm độc phổ biến là hại gan, thận. Nhiễm độc chọn lọc trên bộ phận cơ thể: điếc (streptomycin, gentamycin); đứt gân gót chân (nhóm quinolon); suy tủy dẫn đến tử vong (chloramphenicol); viêm nhiều dây thần kinh (rimifon); hỏng men răng (tetracyclin); mất bạch cầu hạt (sulfamid)...
Trong những tai biến do kháng sinh kể trên thì dị ứng chiếm tỷ lệ lớn nhất.
Có trường hợp một nữ sinh bị ngất xỉu do ngửi phải hơi penicillin khi xem y tá tiêm penicillin cho bạn ở BV Mai Hương (1975). Hoặc một trường hợp dùng thuốc nhỏ mắt chloramphenicol, sau khi nhỏ thuốc, người bệnh bị sưng tím mặt mày, phải vào Bệnh viện Bạch Mai cấp cứu (1999). Những trường hợp này dị ứng thuốc là do cơ địa của người bệnh, thuộc loại bất khả kháng.
Đặc biệt cần lưu ý những trường hợp do thiếu hiểu biết, dùng kháng sinh không đúng dẫn đến gặp phải những tác dụng phụ đáng tiếc như: trẻ em bị hỏng men răng (răng vàng ố suốt đời) vì mẹ uống thuốc tetracyclin khi mang thai (do mẹ thiếu hiểu biết tự ý mua thuốc dùng hoặc bác sĩ thiếu sót, không biết người bệnh mang thai). Trẻ em bị điếc do tiêm streptomycin quá liều bác sĩ quy định (do y tá thiếu tinh thần trách nhiệm)...
Uống thuốc kháng sinh thế nào thì tốt?
Uống thuốc đúng liều, đúng khoảng cách giờ, để đảm bảo trong cơ thể lúc nào cũng đủ lượng thuốc chống chọi với vi khuẩn. Ví dụ: trong đơn bác sĩ ghi: uống 2 lần/ ngày thì khoảng cách giờ mỗi lần uống thuốc là 12 giờ. Uống 3 lần/ngày, khoảng cách giờ là 8. Uống thuốc đủ số ngày bác sĩ ghi trong đơn (là một liệu trình) thường là 7 hoặc 10 ngày.
Nước uống thuốc: tốt nhất là nước trà xanh (chè tươi hoặc chè búp khô) do nước trà xanh giúp kháng sinh đẩy nhanh tốc độ diệt vi khuẩn. Công trình nghiên cứu của TS Mervat Kassem Đại học Alexandra - Ai Cập. Thực nghiệm được tiến hành trên hai nhóm người. 
Nhóm thứ nhất uống kháng sinh với nước trà xanh. Nhóm thứ hai uống kháng sinh với nước sôi nguội. Kết quả: nhóm uống kháng sinh với nước trà xanh ngăn chặn được 28 loại vi khuẩn gây bệnh. Nếu người bệnh không uống được nước trà xanh thì dùng nước sôi nguội.
Những loại kháng sinh phải uống trong bữa ăn: là các loại thuốc kích thích đường tiêu hóa, thuốc không bị giảm hấp thu do thức ăn, như: metronidazol, tinidazol; doxycyclin, tetracyclin; ciprofloxacin, norfloxacin, ofloxacin (thường bác sĩ đã ghi trong đơn thuốc).
Những loại kháng sinh phải uống xa bữa ăn (trừ các loại thuốc nêu trên) trước bữa ăn 2 giờ hoặc sau bữa ăn 3 giờ; do các loại thuốc này bị giảm hấp thu do thức ăn hoặc kém bền vững trong môi trường dịch vị.
Riêng loại viên bao tan trong ruột thì uống lúc nào cũng được.
Kiêng kỵ
Trong thời gian dùng thuốc kháng sinh, không nên uống thuốc tránh thai mà phải dùng các biện pháp tránh thai khác.
Không uống bia, rượu (nước chứa ethanol) khi dùng một số thuốc kháng sinh như: thuốc chống lao, thuốc chứa metronidazol (các dạng: uống, tiêm, đặt âm đạo), erythromycin, tetracyclin; cephalosporin, clindamycin.
Hệ lụy của việc dùng kháng sinh bừa bãi
Từ lâu, Bộ Y tế đã có quy chế về sử dụng kháng sinh, song trên thực tế nhiều người bệnh tự ý dùng kháng sinh mỗi khi trái nắng trở trời hoặc đến nhà thuốc kể bệnh để người bán thuốc chọn hộ kháng sinh. 
Khi mang thuốc về nhà dùng vài ngày thấy đỡ thì thôi (nhiều trường hợp bệnh tự khỏi chứ không phải do kháng sinh). Có người bệnh điều trị ở bệnh viện, bác sĩ cho uống metronidazol dặn cấm uống rượu, nhưng bữa ăn nào cũng uống 3 chén rượu trắng. 
Hiện nay, nhiều cơ sở y tế chưa có điều kiện làm kháng sinh đồ. Do đó đã gây ra nhiều loại vi khuẩn gây bệnh kháng với kháng sinh và tổn hại sức khỏe người bệnh.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Dùng nước muối sinh lý để rửa mũi hàng ngày được không?

Nhiều người có thói quen rửa mũi hằng ngày bằng nước muối sinh lý. Song khi mũi hoàn toàn trong trạng thái bình thường thì không nên sử dụng nước muối thường xuyên để rửa mũi.

Rửa mũi bằng nước muối sinh lý chỉ nên khi bạn vừa đi qua chỗ bụi bặm
Mũi là cửa ngõ đầu tiên của cơ quan hô hấp, tiếp xúc với rất nhiều bụi bẩn, các hóa chất độc hại và các yếu tố gây bệnh. Khi bị viêm nhiễm, dùng nước muối sinh lý để làm sạch lớp mủ trước khi sử dụng thuốc để thuốc tác dụng trực tiếp vào lớp biểu mô của niêm mạc mũi và phát huy vai trò chữa bệnh.

Nước muối sinh lý (natri clorid) hay nước muối được pha chế với tỷ lệ 0,9%, tức 1 lít nước với 9 gam muối tinh khiết, là dung dịch đẳng trương có áp suất thẩm thấu xấp xỉ với dịch trong cơ thể người. 
Nước muối sinh lý thường được dùng để cung cấp và bổ sung nước cũng như chất điện giải, dùng để rửa mắt, mũi, súc miệng, thích hợp cho mọi lứa tuổi kể cả trẻ em. Nước muối sinh lý giúp giảm viêm, rửa sạch chất nhầy, các chất gây dị ứng, làm đường thở thông thoáng, hít thở dễ dàng hơn.

Nhưng khi mũi hoàn toàn trong trạng thái bình thường thì không nên sử dụng nước muối thường xuyên để rửa mũi. 
Vì việc sử dụng thường xuyên nước muối sinh lý để làm sạch mũi sẽ vô tình làm mất đi lớp thảm nhầy bảo vệ mũi vốn có, mất đi chức năng bảo vệ mũi của lớp thảm này và gây tổn thương niêm mạc mũi, vì thế mũi lại hay bị viêm hơn. Có thể sử dụng nước muối sinh lý một lần mỗi tuần, đặc biệt là khi làm việc hoặc đi lại ở những vùng nhiều bụi bẩn. 

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons