Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015

Những loại thuốc gây "hỏng" thận

Có rất nhiều thuốc có thể làm hại thận cấp tính hoặc mạn tính. Nguy hiểm ở chỗ là nhiều khi thuốc làm hại thận từ từ, không dễ gì phát hiện từ lúc đầu và đến khi phát hiện thì thận đã bị thuốc làm suy ở mức độ rất nặng, thậm chí phải chạy thận nhân tạo.
Thông thường để phát hiện thận bị suy, người ta làm xét nghiệm đo creatinin máu. Nhiều thuốc chỉ mới ảnh hưởng nhẹ đến chức năng thận đã làm tăng creatinin máu, nhưng có nhiều thuốc gây hại thận dần dần mà chẳng có triệu chứng gì, đến khi làm tăng creatinin máu thì đã làm thận suy rất nặng.
Ảnh minh họaThuốc gây hại thận. Ảnh minh họa.
Các thuốc gây hại thận :

Thuốc kháng sinh:
- Aminoglycosid như neomycin, gentamycin, amikacin, tobramycin, streptomycin là nguyên nhân hàng đầu gây creatinin máu tăng, dấu hiệu quan trọng của suy thận.
- Cephalosporin thế hệ 1 như cefadroxyl, cefalexin, cefalotin, cefazolin gây nhiễm độc ống thận.
- Polypeptid như polymixin, colistin có độc tính cao với thận.
- Quinolon: Các fluoroquinolon như ofloxacin, ciprofloxacin, norfloxacin đều gây tăng creatinin máu. Khi sử dụng cần dựa vào mức lọc cầu thận để chọn liều.
- Amphotericin B là thuốc kháng nấm tác động lên lipid ở màng tế bào biểu mô ống thận gây độc thận, nhiễm toan ống thận, đái tháo nhạt do thận.
- Ức chế men chuyển (captopril, ednyt, renitec…) và kháng thụ thể AT1 (aprovel, micardis, cozaar…) gây tăng creatinin máu. Chống chỉ định trong hẹp động mạch thận.
Thuốc hóa trị liệu chống ung thư:
- Cisplatin gây suy thận cấp và hạ magnesi máu.
- Methotrexat gây kết tủa, tắc lòng ống thận.
- Sulfamid gây kết tủa các tinh thể trong lòng ống thận.

Thuốc cản quang iod hóa trị 2, hóa trị 3 (urographin, telebrex…) gây sốc phản vệ, tắc mạch vì gây độc trực tiếp lên nhu mô thận hoặc co động mạch thận.
Thuốc ức chế miễn dịch: Cyclosporin A, azathioprin, mycophenolat mofetil… cần chỉ định đúng, theo dõi cẩn thận.
Thuốc giảm đau, thuốc kháng viêm không steroid:
-Indometacin, phenylbutazon, naproxen gây viêm kẽ thận mạn.
-Paracetamol ngoài suy gan có thể gây hoại tử ống thận cấp, suy thận cấp.
Thuốc điều trị bệnh tâm thần Lithium.
Người bệnh đã có tiền sử suy thận thì tuyệt đối không dùng các thuốc độc cho thận khi có thuốc khác thay thế. Ví dụ như: không dùng các aminoglycosid, amphotericin, cisplatin, mesalazin, các NSAID, penicilamin và vancomycin… là các thuốc hại thận rất mạnh.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức, ngoài gây hại thận và chức năng thận, nhiều thuốc gây những rối loạn liên quan gián tiếp đến thận. Một số thuốc trực tiếp gây giữ nước và do đó có thể gây nặng hơn các biến chứng về tim mạch ở người bị suy thận, như: carbenoxolon, indomethacin. 
Ở người bệnh suy tim sung huyết, việc tưới máu thận phụ thuộc vào lượng prostaglandin được sản xuất tại thận, dùng thuốc NSAID sẽ ức chế tác dụng tại chỗ của prostaglandin đối với thận gây giảm dòng máu qua thận, giữ nước và làm xấu thêm tình trạng suy tim. 
Dùng digoxin ở người suy thận nặng sẽ làm tăng canxi huyết và/hoặc giảm kali huyết. Dùng các thuốc lợi tiểu giữ kali như: amilorid, spironolacton có thể gây tăng kali huyết nặng ở người suy thận. 
Dùng thuốc kháng tiết cholin như: atropin, scopolamin có thể gây rối loạn chức năng bàng quang và đái không tự chủ đối với người có chức năng thận bình thường. Dùng acetazolamid, vitamin D liều cao, vitamin C liều cao dễ gây đọng tạo sỏi thận - tiết niệu.
Thuốc hại thận ở đây còn có thể hiểu là thuốc có thể làm thay đổi kết quả xét nghiệm chức năng thận, như: có thuốc gây dương tính giả xét nghiệm độ đục nước tiểu (turbidimetric test): tolbutamid, kháng sinh penicillin, cephalosporin (liều cao), sulfisoxazol...; có thuốc làm tăng creatinin máu do cạnh tranh bài tiết ở niệu quản: triamteren, amilorid, trimethoprim, cimetidin, hoặc làm tăng creatinin máu trong xét nghiệm theo phương pháp Jaffe: vitamin C, kháng sinh cephalosporin.
Doluôn luôn có nguy cơ "thuốc hại thận", nên phải xem việc dùng thuốc là rất hệ trọng. Chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết và có sự hiểu biết tối thiểu về các dùng, liều lượng, tính năng, tác dụng phụ có hại của thuốc (trong đó có tác dụng hại thận). 
Nếu có gì nghi ngờ về bệnh của mình thì cách tốt nhất đến bác sĩ khám để có cách xử trí đúng đắn, không được tự ý dùng thuốc bừa bãi, tốt nhất nên dùng thuốc theo sự chỉ định và hướng dẫn của thầy thuốc.

Tác dụng của men tiêu hóa

Hiện nay, nhiều bậc cha mẹ tin rằng sử dụng thường xuyên men tiêu hóasẽ giúp trẻ hay ăn, chóng lớn và nhanh chóng cải thiện tình trạng rối loạn tiêu hóa. Chính vì thói quen, sự thiếu hiểu biết và sự mập mờ của các nhà sản xuất khiến cho không ít các bậc cha mẹ lạm dụng men tiêu hóa, hễ thấy con lười ăn là tự ý mua về cho uống có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm cho trẻ. Các ông bố, bà mẹ cần tham khảo ý kiến thầy thuốc và phải tìm hiểu, chọn lựa kĩ sản phẩm trước khi sử dụng men tiêu hóa cho con em mình.
Tác dụng của men tiêu hóa
Men tiêu hóa là hỗn hợp các enzym khác nhau do chính cơ thể bài tiết ra có tác dụng chuyển hóa các chất trong thức ăn chủ yếu là chất đường (glucid), chất đạm (protein), chất béo (lipid). Chúng được bài tiết từ các cơ quan khác nhau trong hệ thống đường tiêu hóa bao gồm:
Tại miệng, men amylase (ptyalin) trong nước bọt có tác dụng phân giải tinh bột chín thành đường mantose.
Tại dạ dày, trong thành phần của dịch vị có các men tiêu hóa như:
Pepsin được bài tiết dưới dạng chưa hoạt động là pepsinogen. Trong môi trường toan (pH < 5,1) nó được hoạt hóa thành pepsin hoạt động, phân giải protein của thức ăn thành các mạch dài (polypeptra) hoặc ngắn (pepton).
Lipase có tác dụng tiêu hóa lipid của thức ăn đã được nhũ tương hóa (lipid của trứng và sữa) bằng cách cắt liên kết este giữa glycerol với acid béo thành acid béo và monoglycerid.
Men sữa - caseinogen (Lact - ferment remin) phối hợp với ion Ca++ phân giải protein hòa tan của sữa thành các caseinat canxi kết tủa được giữ lại ở dạ dày, còn phần lỏng gọi là nhũ thanh được đưa ngay xuống ruột non. Nhờ đó dạ dày có thể tiếp nhận một thể tích sữa lớn hơn dung tích của chính nó.
Tại tụy, cũng có đủ các loại men để tiêu hóa protein, lipid và glucid:
Men tiêu hóa protein gồm trypsin, chymotrysin và carboxypeptidase, có tác dụng phân giải protein của thức ăn thành polypeptid sau đó lại phân giải polypeptid thành các dipeptid acid amin.
Men tiêu hóa lipid bao gồm lipase phân giải được gần như hoàn toàn triglycerid của thức ăn do ở ruột có mật làm cho lipid của thức ăn bị nhũ tương hóa, phospholipase phân giải mọi loại phospholipid của thức ăn và cholesterol esterase phân giải este của cholesterol thành acid béo và sterol.
Men tiêu hóa glucid gồm amylaza phân giải cả tinh bột chín và sống thành maltose, maltase phân giải maltose thành glucose.

Dịch ruột cũng có đầy đủ các nhóm men tiêu hóa protein, lipid và glucid phân giải chất dinh dưỡng (chất bột, chất đạm, chất béo) ở giai đoạn cuối cùng thành những phân tử đơn giản để hấp thu qua thành ruột vào máu.

Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2015

Phát hiện thuốc giảm đau gây nguy cơ đông máu

Theo nghiên cứu, thuốc giảm đau có nguy cơ gây hiện tượng cục máu đông, đặc biệt bệnh nhân dễ bị đột quỵ hoặc nhồi máu cơ tim khi máu đông chặn dòng lưu thông đến các bộ phận...

Trong một bài viết trên tạp chí Thấp khớp, xuất bản ngày 24/8, cho biết việc sử dụng các loại , kháng viêm không steroid (NSAIDs) có thể làm tăng nguy cơ máu đông ở tĩnh mạch. 
Những loại máu đông bao gồm huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) và thuyên tắc phổi (PE). Nguy cơ xuất hiện máu đông ở những bệnh nhân sử dụng  thuốc NSAID đã tăng lên đến 80%, các tác giả nghiên cứu cho hay. 
Thuốc giảm đau có thể gây đột qụy hoặc nhồi máu cơ tim vì hiện tượng cục máu đôngThuốc giảm đau có thể gây đột qụy hoặc nhồi máu cơ tim vì hiện tượng cục máu đông. Ảnh minh họa
Phân tích dựa trên 6 nghiên cứu cho thấy có 21.401 bệnh nhân đã mắc huyết khối tĩnh mạch (VTE), tức là xuất hiện cục máu đông trong tĩnh mạch. Ngoài ra, ngày 24/8 Health Day cũng thông tin chi tiết về mối tương quan giữa việc sử dụng thuốc giảm đau NSAIDs và nguy cơ tăng hiện tượng cục máu đông. 
Thuốc chống viêm không steroid được tìm thấy trong các loại thuốc theo toa cũng như trong các loại chế phẩm có tác dụng giảm đau và hạ sốt. Học viện chuyên Gải phẫu Chỉnh hình Mỹ đã liệt kê các thành phần phổ biến nhất trong NSAID bao gồm: aspirin, ibuprofen và naproxen thuộc những thương hiệu như Advil, Motrin, Aleve và nhiều sản phẩm aspirin do công ty Bayer sản xuất. Acetaminophen không nằm trong danh sách thuốc NSAID, tuy nhiên nó vẫn có thể được tìm thấy trong công thức của loại thuốc này.  
Đơn thuốc NSAIDs gồm chất ức chế COX-2. Vioxx và Bextra đã bị cấm khỏi thị trường do nguy cơ khiến bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ và các chứng bệnh lâm sàng Cleveland Clinic .. 
Celebrex vẫn có mặt trong toa thuốc nhưng tương tự như NSAIDs, thuốc này cũng được cảnh báo làm tăng nguy cơ đột quỵ hoặc đau tim cho người sử dụng.
Mặt khác, thành phần COX-2 trong thuốc gây nguy cơ chảy máu đường tiêu hóa ít hơn so với các loại thuốc giảm đau khác và có thể phù hợp hơn đối với một nhóm bệnh nhân nhất định. 
Tờ Health Day đã trích dẫn lời của TS Steven Carsons, trưởng phân khoa bệnh thấp khớp, dị ứng và miễn dịch học tại BV Đại học Winthrop, cho rằng aspirin tiếp tục là một loại thuốc ngăn ngừa hiện tượng cục máu đông hiệu quả. Ông cũng nhận định thêm việc sử dụng naproxen không làm tăng nguy cơ đông máu. 
Tuy nhiên, hiện tượng huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi có thể đe dọa đến tính mạng người bệnh, Trung tâm kiểm soát dịch bệnh.
Máu đông gây nguy hiểm nhất khi chúng hình thành trong mạch máu ở tim và não, hoặc chảy từ những khu vực khác trong cơ thể đến. Hiện tượng này dễ gây đột quỵ hoặc nhồi máu cơ nhiệt khi cục máu đông chặn dòng lưu thông đến các bộ phận của não hoặc tim. 
Acetaminophen là thành phần hoạt chất trong hàng loạt các loại thuốc như Tylenol. Cho dù thuốc theo toa hay mua riêng lẻ tại các quầy, thì thành phần này luôn được sử dụng để giảm đau và hạ sốt tương tự như NSAIDs. 
Tuy nhiên, đây không phải là một loại thuốc kháng viêm không steroid, vì vậy Acetaminophen gây nguy cơ tổn thương gan. Đặc biệt, bệnh nhân không nên dùng nhiều hơn 4.000 mg Acetaminophen mỗi ngày. 
Tóm lại, bệnh nhân cần tham khảo ý kiến của bác sĩ và các hướng dẫn sử dụng kèm theo về các loại thuốc giảm đau hoặc hạ sốt trước khi dùng. Cả NSAIDs và Acetaminophen có trong hàng loạt các dược phẩm khác nhau. Hơn nữa, liều lượng tích lũy trong một số thuốc còn vượt giới hạn an toàn cho phép.


Những kiêng kỵ khi uống thuốc đông y

Có người cho rằng: "Các thuốc bằng cây cỏ không độc, dùng nhiều một chút chẳng việc gì". Nói như vậy là không đúng, thông thường thuốc có 2 tác dụng: tác dụng chính là dùng để chữa bệnh.

Có người cho rằng: "Các thuốc bằng cây cỏ không độc, dùng nhiều một chút chẳng việc gì". Nói như vậy là không đúng, thông thường thuốc có 2 tác dụng: tác dụng chính là dùng để chữa bệnh, nhưng thuốc cũng còn có những tác dụng phụ (tác dụng không mong muốn) có hại cho sức khỏe. Do vậy, khi dùng thuốc Đông y, người bệnh cũng cần phải thận trọng.
Theo lý luận Đông y
Những kiêng kỵ khi uống thuốc đông y
Sinh địa
Thuốc có tính năng 4 khí, 5 vị tức là hàn, nhiệt, ôn, lương (4 loại tính dược khác nhau) và chua, đắng, cay, ngọt, mặn (5 vị đều có đường đi khác nhau). Dùng thuốc để chữa bệnh là lấy cái thiên lệch của thuốc để chữa cái thiên lệch của cơ thể con người do bệnh tật gây ra. 
Vì vậy, không thể có một thứ dược phẩm nào chỉ có trăm điều ích, không có một điều hại. Ví dụ như cam thảo là một vị thuốc đi đến được 12 kinh, là vị thuốc làm tá sứ rất bình hòa trong Đông y, nó có tác dụng bổ trung ích khí, giải độc, xua đờm, có thể chữa các bệnh thuộc loại khí ở giữa không đủ, ho nhiều đờm, ung nhọt độc, nhưng nếu uống lâu dài cũng sẽ dẫn đến tình trạng bụng khó chịu, dạ dày trướng, không muốn ăn. 
Nhân sâm là vị thuốc có công dụng đại bổ nguyên khí, bồi dưỡng dạ dày, sinh tân dịch, có thể điều trị các chứng khí huyết hư tổn, tiêu khát (đái tháo đường), tân dịch bị tổn thương, tim loạn nhịp hồi hộp, mất ngủ, sức khỏe sa sút; nhưng những người thể trạng dương rất cao, thực nhiệt ngoại cảm, uống vào thì càng dễ "bốc hơi", có thể dẫn đến phiền táo, buồn bực không yên, chảy máu mũi. 
Vì vậy, một vị danh y đời Thanh là Từ Đại Xuân cho rằng dùng nhân sâm không đúng sẽ gây tai họa. Hoàng liên là vị thuốc quan trọng để tả hỏa giải độc, làm sạch nhiệt, táo và thấp; có thể chữa các bệnh thấp, ôn, nhiệt; bệnh lỵ do nhiệt và đau bụng; tim cồn cào, nôn mửa; mắt đau sưng, ung nhọt lở độc; nhưng nếu dùng lâu dài thì cũng gây ra đau dạ dày, chán ăn. 
Điều này y học phương Đông gọi là nguyên nhân "do đẳng và hàn hại đến tì vị". Vì vậy, người bệnh rất cần biết một số kiến thức về kiêng kỵ trong sử dụng thuốc Đông y.
Một số nguyên tắc kiêng kỵ
- Đau bụng đi tướt: Kiêng dùng quả ngưu bàng, tri mẫu, thiên hoa phấn, chi tử (quả dành dành), sinh địa, tử thảo, sơn đậu căn, lô hội, binh lang (hạt cau), trúc lịch (nước ép ở đọt tre), hoàng dược tử, bá tử nhân, mật ong, nhục thung dung, cùi hồ đào, tỏa dương, đương quy, thục địa, thủ ô, a giao, thiên đông, hoàng tinh, bách hợp, câu khởi tử, quả dâu, hạn liên thảo, trinh nữ tử, miết giáp (ba ba), vừng đen.
- Tì vị hư hàn, cần thận trọng khi dùng thạch cao, tri mẫu, thiên hoa phấn, hoàng cầm, hoàng bá, long đảm thảo, khổ sâm, sinh địa, huyền sâm, đại thạch diệp, thanh đại, sơn đậu căn, lô hội, chỉ thực, xuyên luyện tử, hoàng dược tử, từ thạch, mạch môn đông, thiên môn đông, hạn liên thảo, quy bản (mai rùa), ba ba.
Những kiêng kỵ khi uống thuốc đông y
Khi dùng thuốc Đông y, người bệnh cũng cần phải thận trọng
- Ra mồ hôi trộm: kiêng dùng ma hoàng.
- Tăng huyết áp, kiêng dùng ma hoàng, thận trọng trong việc dùng dương kim hoa.
- Người có bệnh về động mạch vành, tim đập quá nhanh, kiêng dùng ma hoàng.
- Khi bị nôn, kiêng dùng thương nhĩ tử, hoàng dược tử, hoàng liên (nếu là hư hàn).
- Ăn uống không biết ngon miệng (chán ăn), kiêng dùng chi tử, hoàng cầm, huyền sâm, sơn đậu căn, lô hội, phòng kỷ, a giao và ba ba.
- Các chứng xuất huyết: Kiêng dùng quế chi (nhiệt mạnh) nha đảm tử (xuất huyết dạ dày và ruột), nhục quế (huyết nhiệt), tam thất (trường hợp âm hư có nhiệt), xuyên khung, tạo giác (bồ kết) khạc ra máu, lộc nhung (nhung hươu - nếu là dương nhiệt).
- Các chứng huyết hư: Kiêng dùng cào bản, thương nhĩ tử, ngân tử hồ, toàn hạt.
- Trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ, kiêng dùng đại hoàng, phan tử diệp, mạch nha.
- Thời gian hành kinh, cẩn thận trong việc dùng quế chi, đại hoàng, phan tử diệp.
- Khi kinh nguyệt ra quá nhiều, cẩn thận trong khi dùng đan bì, xuyên khung, tam lang, nga truật, ngưu tất.
- Khi bị thong manh mắt, kiêng dùng thạch dương tử, dương kim hoa, thục địa.
- Khi đầy bụng: Kiêng dùng sinh địa, hoài sơn, đại táo, đường mạch nha, mật ong, đương quy, thục địa, cùi long nhãn, hoàng tinh, kha tử.
- Khi bị thũng nước do tỳ hư, kiêng dùng nha đảm tử, hoàng dược tử, chu sa, đại phong tử.
- Sốt do cảm hàn bên ngoài, kiêng dùng địa cốt bì, ngân tử hồ, dương kim hoa, hoàng kỳ, đông trùng hạ thảo, thạch môn đông, hạt ngũ vị, ô mai, ngũ bội tử, rễ ma hoàng, kha tử.
- Người hư nhược (gầy yếu) cẩn thận trong khi dùng cam toại, đại kích, nguyên hoa, ba đậu, thiên kim tử, uy linh tiên, dương kim hoa, thường sơn, đảm phàn, lê lô, minh phàn, ban miệu.
- Người khí hư, kiêng dùng thanh bì, hạt cải củ.
- Da dễ bị dị ứng, kiêng dùng hạt cải trắng.
- Viêm loét dạ dày, cần thận trọng khi dùng viễn chí, tạo phân.
- Chứng thực, chứng nhiệt kiêng dùng nhân sâm.
- Phụ nữ có thai kiêng dùng đan bì, thận trọng khi dùng quế chi, tê giác, ngưu bàng, mộc thông, thông thảo, hạt đông quỳ, gừng khô, chỉ thực, dương kim hoa, đại giả thạch, băng phiến, quy bản, xích thạch chi, xạ can, đại hoàng, mang tiêu, phan tả diệp, lô hội, cam toại, ba kích, nguyên hoa, ba đậu, quả khiên ngưu, thương lục, thiên kim tử, cù mạch, phụ tử, ô đầu, bồ hoàng, nhu hương, một dược, tam lăng, nga truật, hổ tượng, đào nhân, ngưu tất, xuyên sơn giáp.- Người bị bệnh thận kiêng dùng thu thạch.

Khi các thuốc “đánh nhau”

Tương tác thuốc là hiện tượng xảy ra khi sử dụng đồng thời hai hay nhiều thuốc, thuốc này làm thay đổi tác dụng hay tăng độc tính của thuốc kia dẫn đến hậu quả bất lợi...

Tương tác thuốc là hiện tượng xảy ra khi sử dụng đồng thời hai hay nhiều thuốc, thuốc này làm thay đổi tác dụng hay tăng độc tính của thuốc kia dẫn đến hậu quả có lợi hoặc bất lợi với cơ thể người dùng thuốc.
Thận trọng với tương tác thuốc
Mục đích của thầy thuốc khi chỉ định phối hợp nhiều loại thuốc là nhằm khai thác tương tác thuốc có lợi, tức là làm tăng hiệu quả điều trị và giảm tác dụng phụ của thuốc. Nhưng nhiều khi phối hợp nhiều loại thuốc sẽ gây ra tình trạng thuốc này làm mất tác dụng của thuốc kia và làm tăng độc tính của thuốc.
Khi vào cơ thể, đầu tiên thuốc phải được hấp thu vào máu. Sau đó, thuốc từ máu được phân bố khắp nơi để có tác dụng khắp cơ thể. Song song với việc phân bố và cho tác dụng, thuốc được gan chuyển hóa. 
Sau cùng, thuốc sẽ được thận đào thải ra khỏi cơ thể. Trong bốn giai đoạn vừa kể: hấp thu, phân bố, chuyển hóa, bài tiết, nếu hai thuốc uống cùng lúc “đánh nhau” ở từng giai đoạn, có thể gây ra tình trạng nguy hiểm cho sức khỏe người dùng.
Khi các thuốc “đánh nhau” 1Tương tác thuốc sẽ làm thay đổi tác dụng hay tăng độc tính của thuốc. Ảnh: TL
Nếu hai thuốc dùng chung bằng đường uống, thuốc này cản trở sự hấp thu của thuốc kia, làm lượng thuốc hấp thu bị giảm trầm trọng, không cho tác dụng điều trị hiệu quả.
Đó là trường hợp thuốc kháng axit chữa loét dạ dày chứa Al, Mg (Maalox, Kremil-s...), hoặc thuốc chứa than hoạt, kaolin trị tiêu chảy cản trở thuốc uống cùng với nó trị tăng huyết áp, đái tháo đường... làm thuốc sau mất tác dụng (phải uống hai thuốc cách xa nhau ít nhất hai giờ).
Hoặc khi phân bố trong máu, hai thuốc dùng chung cùng liên kết với albumin có trong máu, thuốc có ái lực liên kết lớn hơn sẽ đẩy thuốc kia ra thành dạng tự do, làm tăng nồng độ gây độc tính. Đó là trường hợp dùng chung thuốc kháng viêm phenylbutazon với warfarin sẽ làm tăng tác dụng chống đông của warfarin, gây xuất huyết nguy hiểm.
Các thuốc đều được chuyển hóa ở gan, khi dùng hai thuốc cùng lúc, thuốc này làm tăng hoặc giảm hoạt tính của men gan chuyển hóa, đồng thời làm giảm hoặc tăng hoạt tính trị liệu của thuốc kia, gây hậu quả xấu. Như kháng sinh erythromycin cản trở sự chuyển hóa thuốc giãn phế quản trị suyễn theophyllin, làm tăng độc tính của thuốc này.
Hầu hết các thuốc được chuyển hóa qua thận, vì vậy tương tác thuốc khi xảy ra ở đây sẽ làm thuốc tích lũy lại trong cơ thể gây hại. Như kháng sinh thuộc nhóm aminosid dùng chung với thuốc trợ tim digoxin, digoxin không được bài tiết tốt sẽ tích lũy gây độc.
Còn phải kể loại tương tác thuốc gọi là tương tác thuốc dược lực học. Đó là tương tác xảy ra giữa hai thuốc làm giảm hoặc mất tác dụng của thuốc kia (do tác dụng của hai loại thuốc đối kháng với nhau). 
Như cafein (có trong dược phẩm trị cảm) gây kích thích làm giảm tác dụng an thần của diazepam. Hoặc không nên phối hợp dùng chung kháng sinh penicillin và kháng sinh tetracyclin vì có sự đối kháng trong tác dụng diệt vi khuẩn.
Lưu ý khi dùng
Một số người được gọi là đối tượng có nguy cơ dễ bị tương tác thuốc. Đó là người phải dùng nhiều thuốc vì nhiều bệnh, người cao tuổi, người hay đi khám nhiều bác sĩ (liên tục đổi thầy, đổi thuốc), người bị bệnh kinh niên như viêm loét dạ dày - tá tràng, tim mạch (nhất là bị tăng mỡ trong máu hay dùng thuốc chống đông), động kinh, hô hấp (hen suyễn và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính). Các đối tượng này cần lưu ý khi dùng nhiều loại thuốc:
- Khi đi khám bệnh hoặc mua thuốc (loại bán không cần đơn) tại nhà thuốc phải nói rõ cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết mình đang dùng thuốc gì.
- Khi đang dùng thuốc chữa bệnh, không được dùng thêm bất cứ thuốc gì khác, kể cả thuốc y học cổ truyền hay các loại thực phẩm chức năng mà không hỏi ý kiến bác sĩ đang điều trị.
- Khi đang dùng đơn thuốc ghi nhiều thuốc, nếu có phản ứng bất thường xảy ra nên đi tái khám ngay và kể rõ cho bác sĩ biết sự bất thường đó.

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Thận trọng khi chọn và dùng thuốc tuần hoàn não

Rối loạn tuần hoàn não thường có một số biểu hiện như đau đầu (đau ê ẩm, nặng đầu, khó chịu), ù tai, giảm thính lực tạm thời, chóng mặt, hoa mắt, mất thăng bằng, hay quên đột ngột, giảm trí nhớ, nặng hơn có thể có cơn đột quỵ kèm theo mất ý thức...
Những thuốc thường dùng
Các thuốc làm giảm các biểu hiện trên nhưng có cơ chế mức độ khác nhau:
Thận trọng khi chọn và dùng thuốc tuần hoàn não
- Cinnarizin (stugeron, cinarin)
Cinnarizin chẹn kênh calci có chọn lọc, đồng thời làm giảm hoạt tính co mạch của một số chất (adrenalin, serotonin). Do đó làm tăng lưu lượng máu đến các vùng, giảm tình trạng thiếu oxy não mà không làm tăng áp lực máu, tốc độ tim, làm giảm một số biểu hiện của rối loạn tuần hoàn não.
Nicergolin (sermion)
Nicergolin làm giảm lực cản, tăng dòng chảy ngoại vi, làm tăng mức tiêu thụ ôxy, glucose, lập lại cân bằng tuần hoàn não. Được dùng trong rối loạn tuần hoàn não do giảm sút dòng chảy ngoại vi.
Piracetam (ucetam, anoxyl, gabacet)
Piracetam tác động trực tiếp lên não, lên hệ thống thần kinh trung tâm, cải thiện khả năng dẫn truyền, cải thiện sự chuyển hóa não của người bình thường cũng như người thiếu hụt một vài chức năng về sự nhận thức, sự học- nhớ, sự lanh lợi, tỉnh táo.
Piracetam tăng cường sự chuyển hóa ôxy, glucose não; duy trì tổng hợp năng lượng não; tăng cường sự phục hồi tổn thương do đó bảo vệ, phục hồi khả năng nhận thức sau chấn thương não (giảm ôxy-huyết, nhiễm độc, sau sock điện) cải thiện tình trạng bị mất trí sau nhồi máu phức tạp hoặc thiếu máu cục bộ não. 
Dùng sớm (trước 7 giờ sau khi xảy ra sự cố). Thuốc được dùng cho người già để cải thiện sự mất trí nhớ, chóng mặt, thiếu sự tập trung hoặc lanh lợi, thay đổi trạng thái hành xử; cho trẻ em khó học và viết (nhưng không thay thế các biện pháp khác). Piracetam còn gọi là thuốc hưng trí (nootropic).
- Cerebrolysin
Cerebrolysin đi qua hàng rào máu- não, tác động vào bên trong tế bào thần kinh, ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung tâm theo nhiều cách, có tác dụng dinh dưỡng thần kinh độc đáo, bao gồm: tăng sinh, biệt hóa, đảm bảo các chức năng, tính đặc trưng của các tế bào thần kinh; tăng cường sự dẫn truyền, chuyển hóa; che chở cho các thương tổn não do thiếu máu cục bộ và nhiễm độc thần kinh. 
Thuốc được dùng cho người rối loạn trí nhớ, kém tập trung, sa sút trí tuệ (do nguyên nhân mạch máu não, nhồi máu não nhiều chỗ), dùng cho người đột qụy (do thiếu máu cục bộ, do chấn thương).
- Ginkgo biloba (tanakan, cebrex, ginkocer, sagokan), là cao đã được chuẩn hoá của lá bạch quả. Ginkgo biloba dọn sạch gốc tự do, ngăn ngừa sự phá hủy màng tế bào, kích thích sự giải phóng catecholamin, duy trì sự hoạt động của động mạch, tĩnh mạch, làm bình thường sự chuyển hóa của não (tăng tiêu thụ glucose, hạn chế mất cân bằng chất điện giải) trong điều kiện thiếu máu cục bộ.
Thuốc được dùng làm giảm các biểu hiện của rối loạn tuần hoàn não, một vài chứng bệnh về mắt (tắc mạch võng mạc). 
Gần đây, được nghiên cứu dùng trong các biểu hiện: chán nản, khác thường về ứng xử, đau đầu mạn do căng thẳng, biểu hiện tâm thần vận động, thần kinh do đái tháo đường, giảm sút trí tuệ, trí nhớ (khi các biểu hiện này là do rối loạn tuần hoàn não hay có liên quan đến tuần hoàn não).
Và sự thận trọng khi dùng...
Có một số biểu hiện của bệnh khác gần giống như rối loạn tuần hoàn não như nhức đầu, hoa mắt chóng mặt do rối loạn tiền đình; đau đầu, mệt mỏi suy giảm trí nhớ do suy nhược thần kinh. 
Nhiều người bị rối loạn tuần hoàn não nhưng không khám hay khám sơ sài rồi dùng nhầm sang các thuốc chữa các bệnh trên (vitamin B1, vitamin B6+magie, seduxen). Cách dùng sai này sẽ không đỡ bệnh mà còn có hại.
Các thuốc (kể cả loại được coi là hưng trí như piracetam, ginkgo biloba) chỉ có khả năng phục hồi lại sự suy giảm trí nhớ do rối loạn tuần hoàn não đến mức bình thường, chứ không làm vượt quá mức bình thường trước đó. Một số người dùng các thuốc này khi không bị bệnh, hay tăng liều để tăng cường trí tuệ là không có hiệu quả thực tế.
Thầy thuốc tùy theo loại và mức độ rối loạn tuần hoàn não để chọn thuốc, liều dùng thích hợp để đủ lập lại cân bằng não bị suy giảm. Một số người tự ý dùng tăng liều với hy vọng tuần hoàn não mạnh lên sẽ có lợi là hoàn toàn sai lầm. Thực ra việc tăng liều như thế có thể gây nên các biểu hiện trái ngược như căng thẳng, mệt mỏi, mất ngủ.
Trong thiếu máu cục bộ cần dùng thuốc sớm (như piracetam, cerebrolysin). Sau khi đạt được yêu cầu bảo vệ hồi phục tổn thương não, thường ngừng thuốc. Một số người coi chúng là thuốc “bồi dưỡng cho não” tự ý dùng thêm không có ích lợi gì hơn.
Khi dùng thuốc cũng cần chú ý tới các tương tác bất lợi của thuốc. Ví dụ: cinnarizin, nicergolin làm tăng hiệu lực của các thuốc kháng histamin, thuốc an thần gây ngủ, rượu. Cerebroklysin làm tăng tích lũy thuốc IMAO, các thuốc chống trầm cảm. Ginkgo biloba gây nguy cơ tăng huyết áp khi dùng chung với IMAO. Vì vậy, không dùng chung với các thuốc có tương tác bất lợi.
Thận trọng khi dùng cerebrolysin, piracetam trên người chức năng thận suy giảm (vì thuốc bài tiết qua thận); cerebrolyzin, necergolin, ginkgo biloba cho người cao huyết áp. Không dùng ginkgo biloba cho người cường giáp, piracetam cho người suy gan. 
Hầu hết thuốc có tác dụng trên mạch và chuyển hóa chưa có thông tin đầy đủ với người có thai cho con bú, không nên dùng cho các đối tượng này. Nếu thực sự cần dùng có thể cân nhắc nhưng phải thận trọng.

Người rối loạn tuần hoàn não có thể mắc thêm chứng xơ vữa động mạch vành gây thiếu máu cục bộ ở não theo cơ chế khác, làm cho bệnh nặng nề phức tạp hơn. Cần dùng thêm các thuốc khác theo chỉ định của thầy thuốc (ví dụ như các thuốc phòng chống huyết khối).

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons