Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2015

Khi các thuốc “đánh nhau”

Tương tác thuốc là hiện tượng xảy ra khi sử dụng đồng thời hai hay nhiều thuốc, thuốc này làm thay đổi tác dụng hay tăng độc tính của thuốc kia dẫn đến hậu quả bất lợi...

Tương tác thuốc là hiện tượng xảy ra khi sử dụng đồng thời hai hay nhiều thuốc, thuốc này làm thay đổi tác dụng hay tăng độc tính của thuốc kia dẫn đến hậu quả có lợi hoặc bất lợi với cơ thể người dùng thuốc.
Thận trọng với tương tác thuốc
Mục đích của thầy thuốc khi chỉ định phối hợp nhiều loại thuốc là nhằm khai thác tương tác thuốc có lợi, tức là làm tăng hiệu quả điều trị và giảm tác dụng phụ của thuốc. Nhưng nhiều khi phối hợp nhiều loại thuốc sẽ gây ra tình trạng thuốc này làm mất tác dụng của thuốc kia và làm tăng độc tính của thuốc.
Khi vào cơ thể, đầu tiên thuốc phải được hấp thu vào máu. Sau đó, thuốc từ máu được phân bố khắp nơi để có tác dụng khắp cơ thể. Song song với việc phân bố và cho tác dụng, thuốc được gan chuyển hóa. 
Sau cùng, thuốc sẽ được thận đào thải ra khỏi cơ thể. Trong bốn giai đoạn vừa kể: hấp thu, phân bố, chuyển hóa, bài tiết, nếu hai thuốc uống cùng lúc “đánh nhau” ở từng giai đoạn, có thể gây ra tình trạng nguy hiểm cho sức khỏe người dùng.
Khi các thuốc “đánh nhau” 1Tương tác thuốc sẽ làm thay đổi tác dụng hay tăng độc tính của thuốc. Ảnh: TL
Nếu hai thuốc dùng chung bằng đường uống, thuốc này cản trở sự hấp thu của thuốc kia, làm lượng thuốc hấp thu bị giảm trầm trọng, không cho tác dụng điều trị hiệu quả.
Đó là trường hợp thuốc kháng axit chữa loét dạ dày chứa Al, Mg (Maalox, Kremil-s...), hoặc thuốc chứa than hoạt, kaolin trị tiêu chảy cản trở thuốc uống cùng với nó trị tăng huyết áp, đái tháo đường... làm thuốc sau mất tác dụng (phải uống hai thuốc cách xa nhau ít nhất hai giờ).
Hoặc khi phân bố trong máu, hai thuốc dùng chung cùng liên kết với albumin có trong máu, thuốc có ái lực liên kết lớn hơn sẽ đẩy thuốc kia ra thành dạng tự do, làm tăng nồng độ gây độc tính. Đó là trường hợp dùng chung thuốc kháng viêm phenylbutazon với warfarin sẽ làm tăng tác dụng chống đông của warfarin, gây xuất huyết nguy hiểm.
Các thuốc đều được chuyển hóa ở gan, khi dùng hai thuốc cùng lúc, thuốc này làm tăng hoặc giảm hoạt tính của men gan chuyển hóa, đồng thời làm giảm hoặc tăng hoạt tính trị liệu của thuốc kia, gây hậu quả xấu. Như kháng sinh erythromycin cản trở sự chuyển hóa thuốc giãn phế quản trị suyễn theophyllin, làm tăng độc tính của thuốc này.
Hầu hết các thuốc được chuyển hóa qua thận, vì vậy tương tác thuốc khi xảy ra ở đây sẽ làm thuốc tích lũy lại trong cơ thể gây hại. Như kháng sinh thuộc nhóm aminosid dùng chung với thuốc trợ tim digoxin, digoxin không được bài tiết tốt sẽ tích lũy gây độc.
Còn phải kể loại tương tác thuốc gọi là tương tác thuốc dược lực học. Đó là tương tác xảy ra giữa hai thuốc làm giảm hoặc mất tác dụng của thuốc kia (do tác dụng của hai loại thuốc đối kháng với nhau). 
Như cafein (có trong dược phẩm trị cảm) gây kích thích làm giảm tác dụng an thần của diazepam. Hoặc không nên phối hợp dùng chung kháng sinh penicillin và kháng sinh tetracyclin vì có sự đối kháng trong tác dụng diệt vi khuẩn.
Lưu ý khi dùng
Một số người được gọi là đối tượng có nguy cơ dễ bị tương tác thuốc. Đó là người phải dùng nhiều thuốc vì nhiều bệnh, người cao tuổi, người hay đi khám nhiều bác sĩ (liên tục đổi thầy, đổi thuốc), người bị bệnh kinh niên như viêm loét dạ dày - tá tràng, tim mạch (nhất là bị tăng mỡ trong máu hay dùng thuốc chống đông), động kinh, hô hấp (hen suyễn và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính). Các đối tượng này cần lưu ý khi dùng nhiều loại thuốc:
- Khi đi khám bệnh hoặc mua thuốc (loại bán không cần đơn) tại nhà thuốc phải nói rõ cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết mình đang dùng thuốc gì.
- Khi đang dùng thuốc chữa bệnh, không được dùng thêm bất cứ thuốc gì khác, kể cả thuốc y học cổ truyền hay các loại thực phẩm chức năng mà không hỏi ý kiến bác sĩ đang điều trị.
- Khi đang dùng đơn thuốc ghi nhiều thuốc, nếu có phản ứng bất thường xảy ra nên đi tái khám ngay và kể rõ cho bác sĩ biết sự bất thường đó.

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Thận trọng khi chọn và dùng thuốc tuần hoàn não

Rối loạn tuần hoàn não thường có một số biểu hiện như đau đầu (đau ê ẩm, nặng đầu, khó chịu), ù tai, giảm thính lực tạm thời, chóng mặt, hoa mắt, mất thăng bằng, hay quên đột ngột, giảm trí nhớ, nặng hơn có thể có cơn đột quỵ kèm theo mất ý thức...
Những thuốc thường dùng
Các thuốc làm giảm các biểu hiện trên nhưng có cơ chế mức độ khác nhau:
Thận trọng khi chọn và dùng thuốc tuần hoàn não
- Cinnarizin (stugeron, cinarin)
Cinnarizin chẹn kênh calci có chọn lọc, đồng thời làm giảm hoạt tính co mạch của một số chất (adrenalin, serotonin). Do đó làm tăng lưu lượng máu đến các vùng, giảm tình trạng thiếu oxy não mà không làm tăng áp lực máu, tốc độ tim, làm giảm một số biểu hiện của rối loạn tuần hoàn não.
Nicergolin (sermion)
Nicergolin làm giảm lực cản, tăng dòng chảy ngoại vi, làm tăng mức tiêu thụ ôxy, glucose, lập lại cân bằng tuần hoàn não. Được dùng trong rối loạn tuần hoàn não do giảm sút dòng chảy ngoại vi.
Piracetam (ucetam, anoxyl, gabacet)
Piracetam tác động trực tiếp lên não, lên hệ thống thần kinh trung tâm, cải thiện khả năng dẫn truyền, cải thiện sự chuyển hóa não của người bình thường cũng như người thiếu hụt một vài chức năng về sự nhận thức, sự học- nhớ, sự lanh lợi, tỉnh táo.
Piracetam tăng cường sự chuyển hóa ôxy, glucose não; duy trì tổng hợp năng lượng não; tăng cường sự phục hồi tổn thương do đó bảo vệ, phục hồi khả năng nhận thức sau chấn thương não (giảm ôxy-huyết, nhiễm độc, sau sock điện) cải thiện tình trạng bị mất trí sau nhồi máu phức tạp hoặc thiếu máu cục bộ não. 
Dùng sớm (trước 7 giờ sau khi xảy ra sự cố). Thuốc được dùng cho người già để cải thiện sự mất trí nhớ, chóng mặt, thiếu sự tập trung hoặc lanh lợi, thay đổi trạng thái hành xử; cho trẻ em khó học và viết (nhưng không thay thế các biện pháp khác). Piracetam còn gọi là thuốc hưng trí (nootropic).
- Cerebrolysin
Cerebrolysin đi qua hàng rào máu- não, tác động vào bên trong tế bào thần kinh, ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung tâm theo nhiều cách, có tác dụng dinh dưỡng thần kinh độc đáo, bao gồm: tăng sinh, biệt hóa, đảm bảo các chức năng, tính đặc trưng của các tế bào thần kinh; tăng cường sự dẫn truyền, chuyển hóa; che chở cho các thương tổn não do thiếu máu cục bộ và nhiễm độc thần kinh. 
Thuốc được dùng cho người rối loạn trí nhớ, kém tập trung, sa sút trí tuệ (do nguyên nhân mạch máu não, nhồi máu não nhiều chỗ), dùng cho người đột qụy (do thiếu máu cục bộ, do chấn thương).
- Ginkgo biloba (tanakan, cebrex, ginkocer, sagokan), là cao đã được chuẩn hoá của lá bạch quả. Ginkgo biloba dọn sạch gốc tự do, ngăn ngừa sự phá hủy màng tế bào, kích thích sự giải phóng catecholamin, duy trì sự hoạt động của động mạch, tĩnh mạch, làm bình thường sự chuyển hóa của não (tăng tiêu thụ glucose, hạn chế mất cân bằng chất điện giải) trong điều kiện thiếu máu cục bộ.
Thuốc được dùng làm giảm các biểu hiện của rối loạn tuần hoàn não, một vài chứng bệnh về mắt (tắc mạch võng mạc). 
Gần đây, được nghiên cứu dùng trong các biểu hiện: chán nản, khác thường về ứng xử, đau đầu mạn do căng thẳng, biểu hiện tâm thần vận động, thần kinh do đái tháo đường, giảm sút trí tuệ, trí nhớ (khi các biểu hiện này là do rối loạn tuần hoàn não hay có liên quan đến tuần hoàn não).
Và sự thận trọng khi dùng...
Có một số biểu hiện của bệnh khác gần giống như rối loạn tuần hoàn não như nhức đầu, hoa mắt chóng mặt do rối loạn tiền đình; đau đầu, mệt mỏi suy giảm trí nhớ do suy nhược thần kinh. 
Nhiều người bị rối loạn tuần hoàn não nhưng không khám hay khám sơ sài rồi dùng nhầm sang các thuốc chữa các bệnh trên (vitamin B1, vitamin B6+magie, seduxen). Cách dùng sai này sẽ không đỡ bệnh mà còn có hại.
Các thuốc (kể cả loại được coi là hưng trí như piracetam, ginkgo biloba) chỉ có khả năng phục hồi lại sự suy giảm trí nhớ do rối loạn tuần hoàn não đến mức bình thường, chứ không làm vượt quá mức bình thường trước đó. Một số người dùng các thuốc này khi không bị bệnh, hay tăng liều để tăng cường trí tuệ là không có hiệu quả thực tế.
Thầy thuốc tùy theo loại và mức độ rối loạn tuần hoàn não để chọn thuốc, liều dùng thích hợp để đủ lập lại cân bằng não bị suy giảm. Một số người tự ý dùng tăng liều với hy vọng tuần hoàn não mạnh lên sẽ có lợi là hoàn toàn sai lầm. Thực ra việc tăng liều như thế có thể gây nên các biểu hiện trái ngược như căng thẳng, mệt mỏi, mất ngủ.
Trong thiếu máu cục bộ cần dùng thuốc sớm (như piracetam, cerebrolysin). Sau khi đạt được yêu cầu bảo vệ hồi phục tổn thương não, thường ngừng thuốc. Một số người coi chúng là thuốc “bồi dưỡng cho não” tự ý dùng thêm không có ích lợi gì hơn.
Khi dùng thuốc cũng cần chú ý tới các tương tác bất lợi của thuốc. Ví dụ: cinnarizin, nicergolin làm tăng hiệu lực của các thuốc kháng histamin, thuốc an thần gây ngủ, rượu. Cerebroklysin làm tăng tích lũy thuốc IMAO, các thuốc chống trầm cảm. Ginkgo biloba gây nguy cơ tăng huyết áp khi dùng chung với IMAO. Vì vậy, không dùng chung với các thuốc có tương tác bất lợi.
Thận trọng khi dùng cerebrolysin, piracetam trên người chức năng thận suy giảm (vì thuốc bài tiết qua thận); cerebrolyzin, necergolin, ginkgo biloba cho người cao huyết áp. Không dùng ginkgo biloba cho người cường giáp, piracetam cho người suy gan. 
Hầu hết thuốc có tác dụng trên mạch và chuyển hóa chưa có thông tin đầy đủ với người có thai cho con bú, không nên dùng cho các đối tượng này. Nếu thực sự cần dùng có thể cân nhắc nhưng phải thận trọng.

Người rối loạn tuần hoàn não có thể mắc thêm chứng xơ vữa động mạch vành gây thiếu máu cục bộ ở não theo cơ chế khác, làm cho bệnh nặng nề phức tạp hơn. Cần dùng thêm các thuốc khác theo chỉ định của thầy thuốc (ví dụ như các thuốc phòng chống huyết khối).

Uống thuốc đâu có dễ!

Thuốc dùng qua đường miệng chia thành nhiều dạng khác nhau: nuốt nguyên viên, nhai hoặc đặt viên thuốc dưới lưỡi, kẹo ngậm, thuốc dạng lỏng.
Dược phẩm sau khi nuốt sẽ "ngao du" từ dạ dày hoặc ruột non rồi vào hệ tuần hoàn máu, sau đó sẽ được máu "áp tải" tới các cơ quan, bộ phận của cơ thể. Quá trình này gọi là sự hấp thụ thuốc. Sự hấp thụ thuốc phụ thuốc vào rất nhiều yếu tố, chẳng hạn như dạng thuốc mà bệnh nhân sử dụng (viên nén, viên trần hay viên được bao phim, dạng thuốc nước...), uống thuốc trước khi ăn, sau khi ăn, uống khi bụng đói, sự phản ứng hóa học giữa dược phẩm và dịch axít trong hệ tiêu hóa, sự tương tác giữa dược phẩm này khi uống chung với các loại dược phẩm khác.
Đối với thuốc dạng viên nén và viên nang, cách dùng phổ biến nhất là uống chung với nước đun sôi để nguội, không uống chung với những loại nước khác như nước ép trái cây, chẳng hạn thuốc hạ cholesterol statins và thuốc viagra sẽ gây ra những tác dụng phụ rất nguy hiểm; còn uống thuốc với sữa sẽ "phế võ công" các loại kháng sinh, ví dụ như ciprofloxacin.
Khi sử dụng dược phẩm đường uống, cần phải được dược sĩ hay bác sĩ tư vấn nên uống lúc đói hay lúc no, sau khi ăn hay trong khi ăn... Đây là một khâu rất quan trọng vì thực phẩm trong dạ dày hoặc ruột non có thể can thiệp vào quá trình hòa tan của thuốc và làm ảnh hưởng đến sự hấp thụ thuốc. Cũng cần lưu ý không nên bẻ, nghiền hay nhai trước khi nuốt. Có rất nhiều loại viên nén được "thiết kế" để cho tác động kéo dài bằng cách được bao phim và đòi hỏi phải được nuốt nguyên viên.
Thuốc dạng lỏng rất thích hợp cho trẻ em và người già vì những đối tượng này ít có khả năng nuốt thuốc. Có rất nhiều thuốc dạng lỏng (gồm cả loại kê toa và không kê toa) dành cho trẻ em được cho thêm mùi vị nhằm che giấu mùi đặc trưng khó chịu của thuốc. Những loại thuốc dạng lỏng trước khi uống cần phải lắc chai.
Trước đây, để đong liều thuốc nước, người ta thường dùng muỗng cà phê tương đương với 5 ml, sau này có nhiều loại muỗng với dung tích khác nhau. Vì vậy, thuốc dạng lỏng phải được đo lường bằng một dụng cụ chính xác như ly có chia vạch thể tích... Khi thuốc dạng lỏng được bác sĩ kê cho một trẻ sơ sinh, các bà mẹ cần hỏi kỹ về liều dùng, cách dùng.

Thuốc kháng sinh tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường

Một nghiên cứu mới đây gây sốc khi phát hiện ra việc dùng quá nhiều thuốc kháng sinh có nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường.


pills-601271-1904-1440822336.jpg
Ảnh: Express.
Các nhà khoa học đã vô cùng sốc khi biết được mối quan hệ giữa bệnh tiểu đường và số lần bệnh nhân dùng thuốc kháng sinh. Những người dùng nhiều kháng sinh vượt quá quy định trong thời gian dài sẽ có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 đến 53% so với những người dùng chỉ một lần hoặc không dùng.
Các nhà nghiên cứu ở Đan Mạch theo dõi 170.404 bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 và 1,3 triệu người không có bệnh. Họ nhận thấy nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao nhất ở những loại thuốc kháng sinh chống lại vi khuẩn.
Tác giả nghiên cứu, TS Kristian Mikkelsen ở BV Gentofte tại Hellerup, Đan Mạch, cho biết: "Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy những người có bệnh tiểu đường tuýp 2 đã sử dụng nhiều kháng sinh lên đến 15 năm, trước khi chẩn đoán bệnh so với người khỏe mạnh. Mặc dù chúng ta không thể kết luận luật nhân - quả trong nghiên cứu này nhưng những phát hiện đã cho thấy thuốc kháng sinh có thể làm tăng nguy cơ tiểu đường tuýp 2".
TS Mikkelsen nói, vẫn cần phải nghiên cứu thêm vì kháng sinh chính là cách điều trị chính bệnh nhiễm trùng trong hơn 60 năm qua.
Bệnh tiểu đường là một trong những thách thức lớn nhất đối với việc điều trị và chăm sóc sức khỏe hiện nay khi tỷ lệ người mắc bệnh ngày càng tăng trên toàn cầu. Bệnh tiểu đường tuýp 2 là dạng phổ biến nhất, chiếm 90 - 95 % các trường hợp mắc bệnh.
Nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism.


5 loại thuốc có thể gây vô sinh

Thuốc trầm cảm, chống viêm, thuốc chứa thành phần Steroids... ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản của cả nam và nữ.


Thuốc có thành phần steroids có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của cả nam và nữ. Ở nam giới, gia tăng lượng steroid làm giảm sản lượng tinh trùng và  rối loạn chức năng cương dương. Ở nữ giới, loại thuốc này ảnh hưởng đến sự kích thích nang trứng (FSH),  chu kỳ kinh nguyệt và quá trình rụng trứng bình thường.
 
Thuốc chống trầm cảm gây rối loạn cương dương, giảm ham muốn, giảm sản xuất tinh trùng ở nam giới và gây rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ.
 
Thuốc chống viêm được sử dụng chống lại bệnh viêm khớp, thấp khớp có thể dẫn đến vô sinh. Vì vậy, hãy cẩn thận khi bạn có những loại thuốc chống viêm.
 
Thuốc trị động kinh là loại thuốc hàng đầu gây vô sinh. Thuốc ảnh hưởng đến tuyến yên và quá trình rụng trứng.
 
Thuốc hóa trị ảnh hưởng đến từng tế bào trong cơ thể theo nhiều cách khác nhau. Những loại thuốc đặc biệt nhắm đến hệ thống sinh sản có thể ảnh hưởng đến chức năng sinh sản. Một số ảnh hưởng có thể phục hồi sau khi ngưng dùng thuốc, nhưng một số khác có thể gây tổn thương vĩnh viễn.

Mù mắt, thủng giác mạc vì tự ý dùng thuốc nhỏ mắt

Tại BV Mắt Trung ương có nhiều trường hợp bệnh nhân bị thủng giác mạc sau khi sử dụng các thuốc nhỏ mắt có chứa thành phần corticoid.

Bệnh nhân tới khám tại BV Mắt trung ương.
Mù lòa vì thích thuốc làm mát mắt

Bà Nguyễn Thị V. trú tại Nghĩa Hưng, Nam Định đến khám tại BV Mắt trung ương khi hai mắt đã mờ tịt. Bà V cho biết khoảng hơn 1 năm trước mắt bà thường hay chảy nước mắt, đỏ mắt. Lúc ấy, bà V ra hiệu thuốc được nhân viên bán thuốc bán cho một lọ thuốc rất tốt. Mỗi lần nhỏ thuốc, bà V, thấy mắt không còn đỏ, ngứa và khó chịu. Cảm giác mắt mát hẳn lên. Chính vì thế, bà V coi đây là loại thuốc tốt có thể dùng hàng ngày nên tối nào trước khi đi ngủ bà cũng làm vài giọt vào mắt.

Nhưng càng ngày, bà cảm thấy mắt càng mờ hơn. Con cái bà cho rằng đến tuổi mờ mắt, chân run nên không đi bệnh viện khám. Đến khi mắt mờ hẳn mới đến viện. Tại đây, bác sĩ chẩn đoán bà bị mờ mắt, thủng giác mạc vì tác dụng phụ của thuốc nhỏ mắt.

Trường hợp của bé Nguyễn Thế Mạnh trú tại Gia Lâm, Hà Nội. Bé Mạnh 9 tuổi, vào viện khi mắt bị mờ không nhìn thấy gì. Mẹ của bé Mạnh cho biết cách đây 2 năm mắt của Mạnh hay bị đỏ, ngứa. Chị nghĩ con bị dị ứng hoặc bụi mắt nên mẹ của bé tự mua thuốc nhỏ mắt điều trị cho con. 

Sau khi nhỏ thì thấy rất hiệu quả, mắt bé không đỏ nữa và bớt ngứa. Thế là từ đó trở đi, mẹ bé cứ dùng loại thuốc nhỏ này mỗi khi mắt bé bị đỏ. Tổng cộng chị đã sử dụng khoảng 10 chai thuốc nhỏ mắt nói trên. Dần dần mắt bé mờ đi, chị tiếp tục dùng thuốc trên nhưng không thấy bớt nên dẫn cháu đi khám.

Tại bệnh viện, bác sĩ đã khám và phát hiện: Cả hai mắt bé đều bị viêm kết mạc dị ứng, mắt phải đục thủy tinh thể hoàn toàn, nhãn áp 29mmHg, thị lực còn bóng bàn tay, lõm gai rộng trên siêu âm, mắt trái đục thủy tinh thể bao sau, nhãn áp 32mmHg, thị lực 5/10 kèm theo lõm gai 6/10 khi soi đáy mắt, mất thị trường thái dương ngoài.

Theo dõi tên lọ thuốc, các bác sĩ cho biết lọ thuốc có chứa thành phần corticoid và kháng sinh.

Corticoid là con dao hai lưỡi sắc bén

PGS Hoàng Thị Minh Châu - Khoa Kết Giác mạc BV Mắt Trung ương cho biết trước tình hình mạng xã hội phát triển như hiện nay, đặc biệt trên các trang mạng xã hội các mẹ truyền tai nhau về các bài thuốc, mẹ nọ truyền đơn cho mẹ kia khiến tình trạng hỏng mắt vì dùng thuốc vô tội vạ rất nhiều. Nhiều trường hợp đến bệnh viện là nạn nhân của lạm dụng thuốc nhỏ mắt, đặc biệt là thuốc có thành phần corticoid.

Corticoid thuộc nhóm steroid, là chất kháng viêm rất mạnh, dùng đúng chỉ định sẽ đem lại kết quả rất tốt trong điều trị. Nếu phải nhỏ trong một thời gian dài, nhất thiết phải có sự theo dõi của bác sĩ. Còn sử dụng corticoid không đúng chỉ định sẽ gây biến chứng rất nghiêm trọng. 

Trường hợp bệnh nhân bị viêm loét giác mạc do nấm hay Herpes, nếu nhỏ corticoid sẽ làm bệnh bùng phát và nặng thêm, gây biến chứng thủng giác mạc. Trong trường hợp sử dụng kéo dài sẽ gây đục thủy tinh thể (cườm khô) và tăng nhãn áp (cườm nước) dẫn đến giảm thị lực, thậm chí mù mắt vĩnh viễn.

PGS Châu cho biết thuốc mắt mọi người nghĩ bình thường, không tiêm, không uống nên dùng thoải mái. Tuy nhiên thuốc mắt cần được quản lý chặt. Khi chỉ định thuốc cho bệnh nhân, các bác sĩ phải theo dõi rất chặt. 

Có những bệnh nhân ở đây, bác sĩ muốn cho bệnh nhân dùng thuốc phải tự tay tra, không dám giao thuốc cho bệnh nhân vì thuốc có chứa corticoid nhỏ vào mắt rất dễ chịu nên bệnh nhân hay lạm dụng. Với thuốc này nếu nhỏ 2 lần có thể tốt nếu 4 lần thì hại.

Hiện nay, quảng cáo thuốc trên ti vi về thuốc trị mắt rất nhiều khiến người ta cứ tưởng nhỏ thuốc mắt, làm mắt dễ chịu là an toàn. Khi bị nhiễm trùng, nhiễm nấm nếu chưa điều trị thuốc gì khi đến viện bác sĩ điều trị rất dễ. Còn khi bệnh nhân đã điều trị thuốc thì các bác sĩ có cho thuốc đặc trị cũng rất khó.

Thủng giác mạc các bác sĩ chỉ can thiệp bằng ghép giác mạc hoặc vá lỗ thủng cho bệnh nhân. Tuy nhiên khi vá víu chỗ thủng giác mạc bệnh nhân không thể nhìn được nữa.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons