Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Mối nguy hiểm khi sử dụng oxy già sát trùng vết thương

Theo Men's Health, nước oxy già (Hydrogen peroxid) có tác dụng tẩy uế, làm sạch vết thương và khử mùi. Ngoài ra, người ta dùng dung dịch này kết hợp với những chất khử khuẩn khác để tẩy uế tay, da và niêm mạc; rửa miệng trong điều trị viêm miệng cấp và súc miệng khử mùi; làm sạch ống chân răng và hốc tủy răng, nhỏ tai để loại bỏ ráy tai, cầm máu nhẹ.

Tuy nhiên, nước oxy già có thể dẫn đến những hậu quả không ngờ nếu bạn quá lạm dụng nó, 

1. Dùng oxy già để sát trùng vết thương hở

Theo bác sĩ ở trung tâm y tế ĐH Wexner, bang Ohio, Mỹ, oxy già có thể làm tổn thương cả các tế bào da khỏe mạnh, khiến quá trình lành vết thương diễn ra chậm hơn. Thay vì sát trùng vết thương hở bằng oxy già, bạn hãy rửa vết thương với nước sạch, thấm khô và dùng thuốc mỡ để ngăm sự xâm nhập của vi khuẩn vào vết thương. Cuối cùng, bạn dùng một miếng gạc sạch bao phủ vết thương để tránh những tác động từ môi trường.

dùng oxy già rửa vết thươngÍt người biết oxy già có thể khiến vết thương khó lành và để lại sẹo. Ảnh minh họa

2. Dùng oxy già để rửa ống tai

Nhiều người cho rằng, oxy già có thể khiến ráy tai mềm ra và dễ dàng được làm sạch hơn. Tuy nhiên, ống tai rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Mọi vết xước hay nước lọt vào tai đều có thể gây nhiễm trùng ống tai nghiêm trọng. Các bác sĩ khuyên rằng bộ phận này có thể tự làm sạch.

Oxy già có thể khiến ráy tai mềm và dễ dàng lấy ra hơn. Tuy vậy, bạn cần hết sức cẩn trọng khi đưa dung dịch này vào ống tai và cần chú ý thấm khô nước. Mọi chất lỏng đều có thể gây ra ù tai, mất thính lực hoặc điếc hoàn toàn.

3. Sát trùng vết mụn, lở loét

Ngoài công dụng sát trùng, oxy già có thể tẩy mở các vết nám, sẹo mụn... Tuy nhiên, nó cũng có thể gây ra những tác dụng phụ như ung thư, thay đổi kết cấu tế bào da nếu dùng nhiều lần trong thời gian dài. Dung dịch oxy già nồng độ đậm đặc có thể gây tổn thương mô, tế bào da...

Các chuyên gia khuyên bạn nên pha loãng dung dịch có nồng độ 27%, 30% trước khi dùng và không sử dụng oxy già liên tục trong thời gian dài.

Ngoài ra, chúng cũng có thể gây kích ứng bỏng da và niêm mạc đối với khoang miệng, da mặt... Thói quen súc miệng hoặc rửa miệng bằng oxy già loãng trong thời gian dài có thể gây phì đại nhú lưỡi (còn gọi là hiện tượng lưỡi có lông). Tuy nhiên, hiện tượng này không nguy hiểm đối với sức khỏe.

Chú ý khi sử dụng oxy già:

- Tránh dùng để rửa vết thương ở các khoang kín của cơ thể như đại tràng, đường ruột... do oxy được giải phóng ra không có đường thoát sẽ gây ra tắc khí mạch, vỡ đại tràng, viêm trực tràng, viêm loét đại tràng và hoại tử ruột…

- Không dùng để rửa các vết thương đang lên da non, vùng da dễ bị tổn thương bởi tính sát khuẩn mạnh có thể gây tổn hại nghiêm trong hơn cho mô và tế bào, khiến vết thương khó lành và để lại sẹo.

Một số biện pháp điều trị rụng tóc

Có nhiều nguyên nhân có thể gây rụng tóc. Ở trẻ em, do suy dinh dưỡng, thiếu canxi, thiếu vitamin D... Ở người trưởng thành, nguyên nhân phức tạp hơn và một số trường hợp không rõ nguyên nhân.

Khả năng tự mọc tóc lại một cách tự nhiên có thể gặp trong một số trường hợp, tuy nhiên rất dễ nhầm lẫn với hiệu quả ích lợi của điều trị. Những vị trí khác nhau của da đầu có thể đáp ứng với các phương pháp điều 
trị khác nhau.
* Vài phương pháp điều trị cơ bản chứng rụng tóc từng vùng như sau:
1. Tiêm corticosteroid trong vùng da rụng tóc. Tóc có thể mọc sau 4 - 6 tuần nếu đáp ứng tốt.
2. Uống thuốc corticosteroid.
3. Thuốc ức chế miễn dịch dạng bôi da như dinitrochlorobenzene (DNCB), squaric acid dibutylester (SADBE) cho thấy kích thích mọc tóc 50 - 90% trường hợp trị liệu với phương pháp này.
4. Thuốc bôi da anthralin cũng có thể gây mọc tóc trở lại ở một số bệnh nhân và thường ở trẻ em khi bị chứng rụng tóc từng vùng hạn chế.
5. Trị liệu kéo dài bằng phương pháp chiếu tia PUVA có thể gây mọc tóc da đầu và các vùng khác khoảng 70% các trường hợp.
* Rụng tóc do nhiễm trùng da đầu, nấm... nên điều trị bằng kháng sinh, dùng dầu gội có tác dụng diệt nấm để bảo vệ da sạch sẽ.
* Tránh thói quen không tốt như vuốt tóc, xoắn tóc. Nên dùng lược chải răng thưa và chải nhẹ nhàng, không nên quá vội vàng dễ gây rụng tóc nhiều hơn. Nên sử dụng các loại dầu gội đầu thương hiệu uy tín và tập thói quen dùng dầu xả (conditioning) sau khi gội đầu để tóc luôn mượt mà, giúp chải đầu bớt rụng tóc nhiều.
Ngoài ra, nên chọn mũ bảo hiểm vừa kích cỡ, có lỗ thông hơi và cài dây đúng cách để đảm bảo an toàn khi va chạm nhưng không quá chật gây ảnh hưởng mái tóc của bạn. Nên giặt giũ mặt trong mũ để đảm bảo vệ sinh, chống nhiễm trùng, nhiễm nấm da đầu.
* Ở trẻ em: rụng tóc do thiếu canxi, thiếu vitamin D, thiếu sắt, thiếu kẽm, thiếu máu, thiếu dinh dưỡng... có thể cải thiện sau một thời gian điều trị bổ sung các vi chất và sinh tố, áp dụng chế độ dinh dưỡng hợp lý.

Đau gót chân và thuốc dùng

Tùy vào vị trí đau có thể chia đau gót chân thành hai nhóm chính: đau vùng dưới gót và đau phía sau gót. Đau bên dưới gót chân thường gặp nhất do các nguyên nhân: viêm cân gan chân, gai xương gót, hội chứng đường hầm cổ chân, chấn thương vùng gan chân do đi lại... 
Các nguyên nhân hay gặp nhất của đau vùng sau gót chân bao gồm viêm gân gót (viêm gân Achille) và viêm bao hoạt dịch gân gót. Viêm cân gan chân là nguyên nhân hay gặp nhất của đau mặt dưới gan chân. Cân gan chân là dải cân chạy từ mặt dưới các ngón chân đến tận cùng phía dưới của gót chân. 
Khi hoạt động các động tác dồn lực nhiều lên gan chân như chạy nhảy, leo trèo, thậm chí đứng nhiều sẽ tác động lên cân gan chân, ban đầu gây kích thích cơ học, về lâu dài sẽ dẫn đến tình trạng viêm. 
Ở những người có bề mặt gan chân bất thường, ví dụ quá phẳng hoặc quá lõm, hoặc béo phì, làm nghề thường phải đi bộ nhiều hay đứng lâu... là những yếu tố thuận lợi gây ra chứng đau gan chân. 
Triệu chứng hay gặp là đau ở vùng mặt dưới gót chân, đau tăng lên khi thay đổi động tác từ nằm hay ngồi lâu sang động tác đứng, đặc biệt đau nhiều vào buổi sáng khi mới ngủ dậy bước chân xuống giường, sau khi đi lại vận động một lúc thì triệu chứng đau sẽ giảm dần đi. Khi dùng lực đầu ngón tay ấn lên mặt dưới gót chân bệnh nhân rất đau. Siêu âm phát hiện bất thường như dày cân gan chân, giảm âm. 
Chụp phim Xquang xương gót có thể bình thường, hoặc thấy hình ảnh gai xương gót hay bất thường bề mặt xương tạo nên hình ảnh gan chân phẳng hay quá lõm. Chụp Xquang cũng loại trừ một số nguyên nhân gây đau gót chân khác như gãy xương, viêm xương, u xương hay nang xương vùng bàn, gót chân.
Đau gót chân và thuốc dùng
Đau gót chân như giẫm phải đinh.
Điều trị bao gồm các biện pháp nội khoa như nghỉ ngơi, nẹp bất động bàn chân ở tư thế trung gian vào buổi tối, chườm túi đá vào vùng gót chân, tránh đi chân đất, tập các bài tập duỗi cơ cẳng chân như kéo các ngón chân về phía mặt trước cẳng chân nhiều lần vào buổi sáng; đi giày dép có lót đế mềm, hoặc giày dép chỉnh hình khi có bất thường xương bàn chân; dùng thuốc chống viêm giảm đau không steroid như aspirin, diclofenac, meloxicam hoặc tiêm corticoid tại chỗ (cần thận trọng, có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa cơ xương khớp). Điều trị ngoại khoa bao gồm các biện pháp chỉnh sửa dị tật bàn chân hay cắt bỏ gai xương gót (ít khi có chỉ định).
Gai xương gót: là hậu quả của tình trạng viêm cân gan chân kéo dài dẫn đến mọc xương tân tạo tại vùng gót chân. Gai xương gót thường không phải là nguyên nhân trực tiếp gây đau ở gót chân vì nhiều người đau gót mà không có gai xương, ngược lại nhiều người hiện tại có gai xương mà lại không đau gót. Chính vì vậy điều trị gai xương gót cũng tương tự như điều trị viêm cân gan chân và hiếm khi cần phải mổ cắt bỏ gai.
Hội chứng đường hầm cổ chân: do chèn ép dây thần kinh chày sau dẫn đến đau hay rối loạn cảm giác như tê rát, tê cóng, căng chặt vùng bàn chân hay gót chân, có thể nhầm với viêm cân gan chân. Nguyên nhân chèn ép có thể do gãy xương sau chấn thương, hạch, khối u lành hay ác tính... 
Chẩn đoán xác định bằng Tinel'test và đo điện cơ để phát hiện các bất thường thần kinh chày sau. Các biện pháp khác tìm nguyên nhân như chụp Xquang, siêu âm, chụp cắt lớp vi tính hay cộng hưởng từ vùng cổ chân. Điều trị tùy theo nguyên nhân có thể bao gồm thuốc chống viêm giảm đau không steroid, tiêm corticoid tại chỗ hay các biện pháp phẫu thuật giải phóng chèn ép.
Một trong những nguyên nhân khác gây đau gót chân là do chấn thương trực tiếp tại vùng gan chân do đi trên nền cứng không bằng phẳng, giẫm phải sỏi đá... làm tổn thương trực tiếp lên mô mỡ đệm ở gan chân. Thường chỉ cần nghỉ ngơi vài ngày là hết, thuốc giảm đau thông thường hay chống viêm giảm đau cũng có tác dụng tốt. 

Đau vùng mặt sau gót chân hay gặp nhất là viêm gân gót hoặc viêm bao hoạt dịch gân gót. Viêm gân gót hay gặp ở những vận động viên các môn như điền kinh, bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, tennis... hay vận động với cường độ cao hoặc gặp ở lứa tuổi trung niên, đặc biệt những người trước kia là vận động viên.

Khi đó gân gót bị kéo căng quá mức do vận động quá tải, cộng với những chấn thương lặp đi lặp lại mà không được xử trí đúng cách làm gân gót mất tính mềm dẻo, trở nên thoái hóa, có những tổn thương rách nhỏ do đó dễ bị viêm, thậm chí đứt gân. 

Những yếu tố thuận lợi khác dễ gây viêm gân gót như thay đổi giày đi, thay đổi chế độ luyện tập, ví dụ tăng lượng vận động. Triệu chứng: đau dọc vùng gân gót hoặc tại điểm bám của gân vào xương gót. Sưng đau vùng gót chân, gân gót sưng rõ, có thể nóng đỏ, sờ thấy nổi cục, ấn vào đau, làm động tác gấp duỗi bàn chân có lực cản thì đau tăng. 

Chụp Xquang gân gót thường bình thường, cũng có thể thấy canxi hóa tại điểm bám của gân vào xương gót. Siêu âm có thể thấy gân gót to, giảm âm hơn bên lành, có thể kèm viêm bao gân gót. Chụp cộng hưởng từ thấy những rách nhỏ trong gân. 

Về điều trị: ngưng những hoạt động gây đau, chườm đá tại chỗ, tập bài kéo giãn cơ bắp chân và mắt cá, đi giày dép có tác dụng nâng gót ở cả hai chân và có phần cứng bảo vệ gót chân, vật lý trị liệu như nhiệt nóng bằng parafin, túi chườm, hồng ngoại, sóng ngắn.

Đang uống thuốc gì không được ăn nho?

Nếu bạn dùng thuốc trị bệnh không hiệu quả, hãy kiểm tra xem bạn có ăn nho cùng thuốc không nhé. Nếu có, hãy lập tức bỏ nho ra khỏi chế độ ăn.






Ảnh minh họa - nguồn internet
Ảnh minh họa - nguồn internet
Trong nho có các chất furanocoumarin và bioflavonid gây ức chế enzym CYP3A4. CYP3A4 là một enzym chuyển hóa thuốc nên nó dễ dàng làm thuốc bị tích trữ trong cơ thể và gây nhiễm độc. 

Các mối nguy hiểm bao gồm: suy thận cấp tính, suy chức năng hô hấp, chảy máu dạ dày, ức chế sinh tủy xương và thậm chí có trường hợp còn bị chết đột ngột do ngộ độc thuốc. Vấn đề nhiễm độc của nho khi tương tác với thuốc có thể xuất phát từ việc uống nước ép nho hoặc ăn bất cứ thành phần nào trong quả nho (vỏ, cùi, hạt).

Đến nay, ước tính có khoảng 83 thuốc bị tương tác bởi nho và trong số đó có khoảng 43 thuốc gây ra tương tác cực kỳ nghiêm trọng. Điển hình là các nhóm thuốc sau:

Nhóm thuốc trị tăng huyết áp


Bao gồm các thuốc chẹn kênh calci như nifedipin, verapamin trị tăng huyết áp và làm chậm nhịp tim ở những người nhịp tim nhanh. Nhưng khi dùng chung với nho, sẽ tăng liều thuốc dẫn đến khó kiểm soát được huyết áp. Nó có thể làm tăng nồng độ thuốc từ 40-100% so với khi uống bằng nước thường.

Nhóm thuốc hạ mỡ máu

Đây là các thuốc dành cho người béo phì, tăng huyết áp, gan nhiễm mỡ. Hai trong số các thuốc bị ảnh hưởng mạnh đó là simvastatin, lovastatin. Nho làm tăng tích trữ thuốc trong cơ thể lên đến 1200-1500%. Điều đó có nghĩa chúng gây ra nguy cơ nhiễm độc rất cao.

Nhóm thuốc an thần

Đó là các thuốc buspiron, carbamazepin, diazepam có tác dụng giải lo, dễ ngủ. Nho có thể làm tăng nồng độ của thuốc lên đến 200% gây ra ngu gật suốt ngày hôm sau, dễ gây ra tai nạn khi điều khiển phương tiện giao thông, tai nạn xây dựng nếu làm việc trên cao và tai nạn lao động nếu làm việc dây chuyền.

Nhóm thuốc chống hen

Thuốc trị hen loại theo phillin bị giảm hấp thu khi dùng với nước nho. Điều này là hết sức nguy hiểm vì không đủ liều nên người bệnh không dứt được cơn khó thở và triệu chứng của bệnh có thể trở nên trầm trọng.

Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

Đừng gọi thuốc là "kẹo"

Kẹo ngậm ho chính là thuốc viên ngậm dùng trị ho nhưng hình dạng giống kẹo ngậm và khi ngậm thấy có vị ngọt, thơm ngon nên nhiều người gọi như thế.

Tuy nhiên, theo thiển ý, không nên gọi thuốc viên ngậm là kẹo ngậm. Bởi lẽ, khi gọi thuốc là kẹo người ta dễ tưởng lầm đó là thứ dùng sao cũng được.
Trên thế giới đã có nhiều báo cáo về tình trạng trẻ con nghe thuốc là kẹo (nhiều phụ huynh gọi như thế vì nghĩ trẻ sẽ dễ uống thuốc hơn) đã lén đánh cắp thuốc dùng và bị ngộ độc. Đối với thuốc, không nên dùng từ "kẹo" để gọi mà tốt nhất cứ gọi đúng tên là "thuốc".
Thuốc viên ngậm là thuốc mà người dùng không nuốt, giữ trong khoang miệng hoặc đặt dưới lưỡi cho tan để hoạt chất phóng thích và hấp thu qua niêm mạc miệng, dưới lưỡi để vào máu hoặc cho tác dụng tại chỗ. Đây cũng là dạng thuốc dùng thích hợp đối với người bệnh gặp khó khăn trong việc uống thuốc viên (như bị nôn ói hoặc bị viêm loét dạ dày tá tràng…).
Trước đây, ngành dược có bào chế thuốc viên bao đường (nay gần như rất ít dùng dạng thuốc này), khi uống thấy có vị ngọt nên nhiều người nghĩ thuốc viên uống có thể ngậm như kẹo. Thật ra, chỉ có thuốc viên ghi rõ là dùng bằng cách ngậm thì mới ngậm, chứ các loại thuốc viên khác là không được ngậm.
Có loại thuốc, nếu ngậm không chỉ làm giảm chất lượng điều trị mà còn có thể bị tai biến do thuốc. Như viên nén bao tan ở ruột aspirin pH8, nếu ngậm thuốc viên bao tan ở ruột sẽ làm hỏng lớp bao, dược chất aspirin phóng thích ở dạ dày, gây hại cho niêm mạc dạ dày.
Thuốc viên ngậm trị ho thường chứa các hoạt chất như tinh dầu bạc hà (menthol), tinh dầu tràm (eucalyptol) hoặc chứa dược chất ức chế phản xạ ho như dextromethorphan... Có cả thuốc viên ngậm đông y như bổ phế ngậm. Thuốc viên ngậm có vị ngọt nhờ có tá dược làm ngọt là đường mía (saccharose) hoặc chất làm ngọt nhân tạo (như aspartam) dành cho người kiêng đường hay người bệnh tiểu đường.
Ta cần biết, ho là triệu chứng thường gặp. Riêng trẻ con rất dễ bị ho do viêm nhiễm đường hô hấp, dễ bị các bệnh tai mũi họng. Ta cũng cần biết ho là một phản xạ sinh lý có tính bảo vệ cơ thể. Chính nhờ ho biểu hiện bằng sự thở hắt ra rất mạnh giúp làm sạch đường thở, tống xuất đàm, dịch tiết hoặc vật lạ lọt vào đường hô hấp, giúp nhung mao hô hấp hoạt động tốt.
Cảm lạnh vào mùa mưa dễ khiến người lớn và trẻ bị ho. Một số chuyên gia khuyên chỉ cần giữ ấm, dinh dưỡng đầy đủ chất, uống nước nhiều hơn, đặc biệt là nước cam hoặc nước chanh để tăng sức đề kháng thì có khả năng tự khỏi sau một vài ngày và không cần dùng thuốc. Lúc này, cũng có thể dùng thuốc viên ngậm trị ho (chỉ dùng cho người lớn và trẻ tương đối lớn).
Dùng thuốc viên ngậm trị ho, nên lưu ý: Trước và sau khi đưa thuốc vào miệng, cần rửa tay sạch; ngậm cho thuốc tan từ từ, tránh nhai viên thuốc. Đối với trẻ, cho dùng thuốc viên ngậm trị ho vài ngày mà không thấy đỡ thì nên đưa đi khám; nếu nghi ngờ bị viêm nhiễm, nhất thiết phải đưa đi khám bệnh ở bác sĩ chứ không cho trẻ ngậm "kẹo" trị ho.


Thuốc nào điều trị bệnh eczema hiệu quả?

Eczema là bệnh thường thấy nhất trong các bệnh da liễu. Bệnh tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống và thẩm mỹ của bệnh nhân.

Vậy cần phải dùng thuốc gì điều trị bệnh và cách phòng bệnh thế nào?
Eczema là trạng thái viêm lớp nông của da, cấp hay mạn tính. Bệnh eczema không gây tử vong, nhưng gây ngứa ngáy, hoặc khô và căng da rất khó chịu. Bệnh thường xuyên tái phát. Như một số căn bệnh da khác, eczema cũng làm ảnh hưởng ít nhiều đến thẩm mỹ. 
Biểu hiện về lâm sàng của eczema rất đa dạng nhưng nói chung bao giờ cũng có đặc tính sau: ngứa, có mụn nước sắp xếp thành từng mảng giới hạn không rõ, tiến triển thành từng đợt, dai dẳng hay tái phát. Có thương tổn thuộc loại xốp bào.
Yếu tố nguy cơ gây bệnh eczema
Hai yếu tố cơ bản phát sinh eczema là cơ địa dị ứng và tác nhân kích thích ở trong hay ngoài vào cơ địa ấy.
Do cơ địa: Có tính chất gia đình, di truyền, tiền sử trong gia đình có người bị chàm, dị ứng, hen suyễn. Các tác nhân kích thích bên trong kèm theo có thể bị viêm mũi xoang, xơ gan, viêm đại tràng, viêm tai xương chũm, các bệnh về thận...
Thuốc nào điều trị bệnh eczema hiệu quả?
Dùng hồ nước bôi ngoài da khi bị eczema giai đoạn đầu.
Do các dị nguyên: Việc dùng các thuốc như: lưu huỳnh, thủy ngân, thuốc tê, sunfamid, chlorocid, penicillin, streptomycin... là lý do thúc đẩy eczema tiến triển. Mặt khác bệnh eczema cũng phát sinh khi tiếp xúc với các hóa chất như: xi măng, thuốc nhuộm, nguyên liệu làm cao su, sơn xe, dầu mỡ, than đá, phân hóa học, thuốc trừ sâu, axit, kiềm,...
Các sản phẩm vi sinh có cơ chế dị ứng: vi khuẩn, nấm, siêu vi. Các yếu tố môi trường sống: khói, bụi, lạnh, nóng, ẩm, mặc trang phục được làm từ những chất liệu như len, vải được dệt không được mịn màng... Yếu tố tâm thần kinh cũng ảnh hưởng lên bệnh này, vì thế với một số người eczema cũng có thể nặng lên sau những chấn thương tâm lý, stress, lo âu căng thẳng.
Bệnh phát triển qua 4 giai đoạn: đỏ da, mụn nước, lên da non, liken hóa (hăm cổ trâu). Bệnh có thể trở thành mạn tính, da dày lên, ngứa gãi nhiều. Nhiều trường hợp bội nhiễm gây viêm da mủ, hoặc nhiễm khuẩn rất nặng.
Có thể chia làm hai loại eczema: eczema khô và eczema ướt (khi thương tổn là những mụn nước, hoặc đang rỉ dịch, rất ngứa và dễ bội nhiễm). Những người có biểu hiện eczema khô thường nứt nẻ, xuất hiện ở bàn tay, bàn chân, nặng lên khi trời lạnh, hoặc khi tiếp xúc hóa chất, xà bông, chất tẩy rửa...
Cách điều trị bệnh eczema
Bệnh eczema không thể điều trị dứt hẳn được, đây còn là một vấn đề khó khăn. Việc điều trị là nhằm kiểm soát các cơn ngứa, giảm các biểu hiện viêm da, ngăn ngừa, hay trị liệu tình trạng bội nhiễm nếu có, làm giảm thiểu sự xuất hiện của những thương tổn mới trên da. 
Phải tùy theo tuổi và tổn thương của bệnh mà có cách điều trị phù hợp. Giải pháp điều trị tốt nhất cho bệnh eczema là tích cực tìm ra nguyên nhân gây bệnh để tránh hoặc hạn chế tiếp xúc kết hợp dùng thuốc uống với thuốc bôi ngoài da theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Các thuốc uống
Thuốc chống ngứa: Để chống ngứa, nên dùng một trong các thuốc chống dị ứng như sirô phenergan, sirô théralèn, chlorpheniramin...
Thuốc chống bội nhiễm: Tùy theo tình trạng bội nhiễm, bác sĩ sẽ chọn lựa kháng sinh thích hợp. Trong trường hợp eczema có viêm da mủ, cần điều trị chống bội nhiễm bằng cách cho uống kháng sinh (amoxicilin, cephalosporin...).
Các thuốc bôi ngoài da
Hồ nước: Dùng trong giai đoạn đầu, da mới đỏ, chảy nước ít, có tác dụng làm dịu da, đỡ ngứa.
Dung dịch: Thường dùng dung dịch jarish, natri clorid 0,9%; thuốc tím 0,001%; vioform 1%. Dùng trong giai đoạn eczema bán cấp. Dùng gạc nhúng vào dung dịch, đắp nhiều lần lên nơi thương tổn. Không được dùng các dung dịch có axit boric cho trẻ em.
Thuốc nào điều trị bệnh eczema hiệu quả?
Thuốc mỡ: Chủ yếu dùng trong giai đoạn eczema mạn tính. Việc dùng thuốc mỡ trong giai đoạn cấp tính đề phòng sẽ gây phản ứng mạnh. Các kháng sinh dạng thuốc mỡ như cream synalar-neomycin, cream celestoderm-neomycin, bôi khi có nhiễm khuẩn. 
Các thuốc mỡ chứa corticosteroid có thể sử dụng để bôi trên tổn thương eczema khô, không nên dùng để bôi trong các trường hợp eczema nhiễm khuẩn. Không nên bôi quá nhiều (diện tích rộng) vì có thể gây biến chứng do tác dụng phụ của thuốc.
Để điều trị bệnh eczema hiệu quả, người bệnh cần đồng thời áp dụng các biện pháp phòng bệnh như: Bệnh nhân cần uống nhiều nước mỗi ngày, có thể thay nước lọc bằng các loại trà thanh nhiệt (actiso, hoa hòe, hoa cúc,...), nước ép trái cây tươi chứa nhiều vitamin để giải độc cơ thể, bài trừ độc tố, nâng cao sức đề kháng, ăn thức ăn lỏng nhẹ. 
Tránh dùng rượu, bia, thuốc lá, cà phê, hải sản, đồ hộp, thức ăn sống, lên men, các thức ăn chế biến có nhiều gia vị cay nóng. Giữ vệ sinh da sạch sẽ, đặc biệt là vùng da bị bệnh. Tránh cọ xát, gãi, xát xà phòng vì sẽ làm vùng da bị bội nhiễm tạo nên những tổn thương khó lành. Có thể dùng chè tươi, lá bàng tươi nấu lấy nước để tắm. Bệnh nhân eczema nên tránh tiếp xúc với các nguyên nhân gây dị ứng, dễ làm bệnh nặng thêm.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons