Thứ Ba, 21 tháng 7, 2015

Thuốc điều trị chứng ngứa dương vật

Đa số nam giới đều đã từng mắc phải chứng bệnh này và thường có tâm lý e ngại khi đi khám bệnh.

Ngứa dương vật, còn ảnh hưởng đến quan hệ tình dục và những sinh hoạt hàng ngày, khi cơn ngứa xảy ra vào ban đêm thường gây ra mất ngủ.
Nguyên nhân và triệu chứng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngứa dương vật như:
- Do ẩm ướt, vệ sinh kém.
- Dị ứng hoặc kích ứng với các thành phần của xà phòng, chất tẩy rửa, chất liệu của quần lót hay mặc quần lót quá chật…
- Các bệnh lý gây ra do virút (mụn rộp sinh dục), vi khuẩn (viêm bao quy đầu, bệnh lậu…), ký sinh trùng (bệnh ghẻ, rận mu, nhiễm trichomonas…) hay do nhiễm nấm (nấm bẹn).
Ngoài những nguyên nhân đã xác định trên, còn có dạng không xác định được nguyên nhân, được gọi là vô căn.
Triệu chứng: ngứa; đỏ da; sưng; đau; bỏng rát; nổi mụn nước.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngứa dương vật
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngứa dương vật
Nhiễm khuẩn: tiết dịch, có mùi hôi.
Các triệu chứng có thể biểu hiện với mức độ nặng nhẹ khác nhau và xảy ra trong một thời ngắn hay kéo dài tùy theo nguyên nhân gây bệnh.
Thuốc điều trị ngứa dương vật
Thuốc được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật tùy theo nguyên nhân gây ra bệnh. Sau đây là các nhóm thuốc thường được sử dụng:
Nhóm thuốc kháng histamin H1:
Nhóm thuốc kháng histamin H1 thường được dùng ở dạng thuốc viên, có tác dụng ngăn chặn sự hoạt động của histamin gây ngứa, nên thường được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật.
Thuốc kháng histamin H1 được chia làm 2 loại:
Loại thế hệ cũ (chlorpheniramin, dexchlorpheniramin…) tác động ức chế lên hệ thần kinh trung ương nên gây buồn ngủ (cần tránh sử dụng khi lái xe, vận hành máy móc..). Các thuốc này sử dụng thích hợp khi NAD gây mất ngủ.
Loại thế hệ mới (Loratadin, cetirizin…) do không tác động lên hệ thần kinh trung ương nên không gây buồn ngủ.
Nhóm thuốc corticosteroid:
Nhóm thuốc corticosteroid (hydrocortison, betamethason, prednisolon..) thường được dùng ở dạng thuốc viên, thuốc mỡ, kem…, có tác dụng kháng viêm, kháng dị ứng chống ngứa, nên được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật.
Hai nhóm thuốc trên thường được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do dị ứng.
Nhóm thuốc bảo vệ da:
Nhóm thuốc bảo vệ da (glycerin, bơ ca cao, mỡ cừu…) được dùng ở dạng thuốc dùng ngoài như: thuốc mỡ, kem… tạo thành một lớp bảo vệ da ngăn chặn các mô bị khô, giúp giảm ngứa, bỏng rát… do ngứa dương vật gây ra.
Nhóm thuốc làm se da:
Nhóm thuốc làm se da (calamin, oxid kẽm…) được dùng ở dạng thuốc dùng ngoài như: thuốc mỡ, kem… có tác dụng làm đông tụ protein tại chỗ nên làm se da, bảo vệ da khỏi bị ngứa, bỏng rát… do ngứa dương vật gây ra.
Hai nhóm thuốc trên thường được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do kích ứng.
Nhóm thuốc kháng virút:
Nhóm thuốc kháng virút thường dùng ở dạng thuốc dùng ngoài, thuốc viên có chứa hoạt chất kháng virút như: acyclovir, famciclovir, valacyclovir… được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do bệnh mụn rộp sinh dục (còn gọi herpes sinh dục). Bệnh mụn rộp sinh dục do virút HSV2 (Herpes simplex virút 2) gây ra.
Nhóm thuốc kháng nấm:
Nhóm thuốc kháng nấm thường dùng ở dạng thuốc dùng ngoài, thuốc viên có chứa hoạt chất kháng nấm như: nystatin, clotrimazol, miconazol… được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do nấm bẹn. Nấm bẹn (tinea cruris) do một loại nấm da gây ra, xuất hiện ở bẹn và quanh cơ quan sinh dục, với những mảng đỏ nâu, có vảy và bờ viền, gây ngứa.
Nhóm thuốc kháng Trichomonas:
Nhóm thuốc kháng Trichomonas thường dùng ở dạng thuốc viên, thuốc dùng ngoài có chứa hoạt chất như: metronidazol, ternidazol… được sử dụng trong điều trị do nhiễm Trichomonas.
Nhóm thuốc kháng sinh:
Nhóm thuốc kháng sinh thường dùng ở dạng thuốc viên, thuốc dùng ngoài có chứa kháng sinh phổ rộng như neomycin, polymycin, chloramphenicol… được sử dụng trong điều trị do vi khuẩn.
Nhóm thuốc trị rận mu:
Rận mu (pubic lice) là một loại ký sinh trùng nhỏ sống ký sinh và đẻ trứng ở lông mu của bộ phận sinh dục nam gây ra ngứa dương vật. Rận mu được lây truyền khi tiếp xúc khăn tắm, áo quần… hay quan hệ tình dục với người bị nhiễm rận mu.
Nhóm thuốc trị rận mu thường ở dạng thuốc dùng ngoài (dầu gội đầu, kem) có chứa hoạt chất pyrethrins hay permethrin 1%... được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do rận mu.
Nhóm thuốc trị bệnh ghẻ:
Bệnh ghẻ do một loại ký sinh trùng rất nhỏ gọi là con mạt (mite) sống ký sinh ở quanh bộ phận sinh dục nam gây ra ngứa dương vật. Bệnh ghẻ lây truyền nhanh khi giữ vệ sinh kém hay có sự tiếp xúc với áo quần, khăn tắm… hay quan hệ tình dục với người bị nhiễm bệnh ghẻ.
Nhóm thuốc trị bệnh ghẻ thường ở dạng thuốc dùng ngoài (kem, lotion) có chứa hoạt chất Permethrin 5% hay Crotamiton 10% được sử dụng trong điều trị ngứa dương vật do bệnh ghẻ.
Bên cạnh việc sử dụng thuốc, việc phòng tránh là rất quan trọng như: thường xuyên tắm rửa vệ sinh thân thể, giữ khô vùng sinh dục, tránh sử dụng các chất gây kích ứng hay dị ứng, không dùng chung khăn tắm, áo quần hay quan hệ tình dục với người nhiễm bệnh, không mặc quần lót bó sát…


Ẩn họa từ corticoid - Vẫn còn thời sự...

Dẫu thầy thuốc và các phương tiện thông tin đại chúng luôn cảnh báo nhưng nhiều người vẫn tự ý tìm mua thuốc có chứa corticoid tự điều trị... dẫn đến hậu quả bị tai biến rất nặng nề.

Trong cơ thể ta có hai corticoid thiên nhiên được tiết ra từ vỏ thượng thận (là tuyến úp trên hai quả thận), đó là cortison và hydrocortison. Thuốc corticoid dùng trong điều trị gồm nhiều loại: dexamethason (thường gọi nôm na là "đề xa") prednison, prednisolon, methylprednisolon, triamcinolon...

Ẩn họa từ corticoid - Vẫn còn thời sự...
Bệnh nhân bị hội chứng Cushing và mọc râu do dùng corticoid.
Về phương diện chữa bệnh, corticoid là thuốc có tác dụng chống viêm, chống dị ứng, ức chế hệ miễn dịch. Corticoid dùng để chống viêm, giảm đau, trị các bệnh xương khớp, các bệnh tự miễn, các bệnh dị ứng ngoài da và hệ hô hấp (biểu hiện là hen suyễn nặng), bệnh suy tuyến thượng thận. 
Bên cạnh đó, corticoid còn có nhiều tác dụng khác nhau ảnh hưởng đến sự chuyển hóa chất đường, chất đạm, chất béo, đến sự cân bằng nước và muối khoáng, hệ tim mạch, thần kinh, cơ xương, cùng nhiều cơ quan khác nhau. 
Do thuốc corticoid có tác dụng giữ nước và chất khoáng natri trong cơ thể gây phù, gây rối loạn chuyển hóa lipid và làm đọng mỡ lại ở trên mặt, cổ và lưng, nên người dùng thuốc lâu ngày sẽ béo phì, mặt tròn như mặt trăng, nhưng thật ra cơ thể lại bị teo cơ (đây là các biểu hiện trong hội chứng có tên là Cushing).
Thuốc còn gây cảm giác thèm ăn khiến có người dùng thuốc ăn ngon hơn nhưng lại có các tác dụng phụ nguy hiểm khác như làm loãng xương, tăng huyết áp, gây huyết khối làm nghẽn mạch, có thể gây loét dạ dày, làm giảm sự đề kháng của cơ thể dễ dẫn đến nhiễm khuẩn (dễ bị lao, nếu đã bị lao sẽ làm bệnh nặng thêm hoặc các bệnh nấm). 
Đặc biệt, nếu dùng corticoid trong thời gian dài sẽ có nguy cơ teo tuyến thượng thận do tuyến này quen với tình trạng có thuốc trong cơ thể sẽ ngưng hoạt động, không còn duy trì chức năng nội tiết và như thế là rất nguy hiểm. Mới đây, Khoa Hồi sức cấp cứu tích cực, BV Bạch Mai (Hà Nội) cho biết thường xuyên tiếp nhận bệnh nhân có các biến chứng nặng nề như: suy tuyến thượng thận, xuất huyết tiêu hóa... do tự ý lạm dụng corticoid. Riêng đối với trẻ em, do cơ thể chưa phát triển hoàn chỉnh sẽ bị tác hại do corticoid là rất lớn.
Hiện nay, không ít thuốc Đông y "giả mạo" mà nhiều người từng biết đều được quảng cáo chủ yếu: "Mát huyết, trị bệnh gan gây ngứa, trị gầy yếu, thiếu máu, biếng ăn, mất ngủ...". Trên thực tế, các thuốc Đông y "giả mạo" này đều có chứa corticoid, để tạo những tác dụng trước mắt: ăn được, ngủ được, mập ra, nếu có đau nhức xương khớp sẽ giảm ngay hoặc nổi mề đay mẩn ngứa cũng sẽ hết (do tác dụng giảm đau chống viêm, chống dị ứng của corticoid) khiến nhiều người cho là "thần dược", nhưng tác hại do việc dùng lâu ngày các loại đông dược "giả mạo" này không sao lường được.
Ẩn họa từ corticoid - Vẫn còn thời sự...
​Trứng cá đỏ do lạm dụng corticoid.
Ở đây, xin được nhấn mạnh về việc sử dụng thuốc bôi ngoài da dạng kem thuốc (crème) hoặc thuốc mỡ (pommade) có chứa dược chất corticoid, ví dụ như cortibion, celestoderme, synalar, halog, hydrocortisone, flucinar, topsyne, betneval... 
Đây là thuốc bôi ngoài da chứa dược chất chống viêm rất quý, nếu dùng đúng chỉ định có thể chữa khỏi một số bệnh ngoài da khó trị, nhưng ngay cả người lớn, đặc biệt là phụ nữ, có người dùng sai chỉ định, như dùng để chữa các vết lở loét, dùng trị mụn trứng cá, thậm chí dùng như kem dưỡng da đã dẫn tới nhiều hậu quả đáng tiếc. 
Nếu bôi lâu ngày trên da sẽ làm teo da, rạn da, da dễ bị nhiễm trùng do mất sự đề kháng. Nếu bôi lên da mặt lâu ngày, da mặt mịn màng đâu chẳng thấy mà sẽ thấy bị trứng cá đỏ, phát mụn li ti khắp mặt. Không những thế, thuốc có thể thấm qua da vào máu gây tác dụng toàn thân (có nhiều tác dụng phụ nguy hiểm).
Các cô gái trước tuổi dậy thì nếu bôi lên da diện rộng, lâu ngày bị rối loạn sự phát triển hệ lông. Cũng do corticoid có thể thấm qua da vào máu mà có chống chỉ định (tức không được dùng) ở trẻ sơ sinh, nhũ nhi. Bôi ngoài da ở trẻ, thuốc chứa corticoid sẽ làm giảm sức đề kháng ở nơi bôi làm bùng phát hiện tượng nhiễm khuẩn. 
Cách đây không lâu, BV Nhi đồng 2 thông báo trường hợp đau lòng là một trẻ hai tháng tuổi bị hoại tử đầu ngón tay dẫn đến phải phẫu thuật cắt bỏ phần hư chỉ vì người thân mua kem chứa thuốc corticoid thoa mụn bóng nước trên da của trẻ. Bị hoại tử đầu ngón tay vừa kể là do vi khuẩn gây hoại tử do corticoid làm giảm sức đề kháng và vi khuẩn có điều kiện phát triển.
Như vậy, ta thấy thuốc corticoid tuy có nhiều tác dụng trị liệu rất tốt nhưng đồng thời có nhiều tác dụng phụ gây nguy hiểm. Dùng nó như dùng con dao hai lưỡi. Vì vậy, ta không nên tự ý dùng bừa bãi mà chỉ nên dùng khi có sự chỉ định và theo dõi của thầy thuốc.


5 sự thật về thuốc tránh thai khẩn cấp

Mặc dù thuốc tránh thai khẩn cấp cũng có hiệu quả phòng tránh thai như các biện pháp khác nhưng chị em đặc biệt không được chủ quan khi dùng biện pháp này.

Dưới đây là 5 điều quan trọng về thuốc tránh thai khẩn cấp mà chị em cần nắm được:

1. Tác dụng phụ ít gặp và sẽ tự hết

Theo Mary Jane Minkin, MD, giáo sư, bác sĩ lâm sàng tại Trường Y Đại học Yale, các tác dụng phụ khi dùng thuốc tránh thai khẩn cấp thường hiến gặp và không gây ảnh hưởng quá nặng nề. Trước đây, các bác sĩ sản khoa cho rằng, các loại thuốc tránh thai có hàm lượng estrogen cao có thể gây các phản ứng phụ như buồn nôn, đau đầu... Tuy nhiên, thực tế, nguyên nhân không chỉ xuất phát từ lượng estrogen cao mà còn có thể liên quan đến progestin.

Triệu chứng buồn nôn, đau đầu sau khi dùng thuốc tránh thai khẩn cấp có thể tự biến mất sau 1-2 ngày. Trong trường hợp nặng nhưng ít gặp, nó có thể tác động đến chu kì kinh nguyệt của chị em.

5 sự thật về thuốc tránh thai khẩn cấp 1
Thuốc tránh thai khẩn cấp cũng có thể ảnh hưởng đến kinh nguyệt. Ảnh minh họa

2. Nếu đã mang thai, thuốc tránh thai khẩn cấp sẽ không có tác dụng

"Cơ chế hoạt động của thuốc tránh thai khẩn cấp là ức chế hoặc trì hoãn rụng trứng. Trứng không rụng thì sẽ không có sự thụ thai", giáo sư Minkin cho biết. Một số nghiên cứu đã xem xét khả năng thuốc tránh thai khẩn cấp cũng có thể ảnh hưởng đến niêm mạc của tử cung và gây khó khăn cho việc thụ tinh nhưng nhiều nghiên cứu khác lại không tìm thấy bằng chứng cho việc này.

Vì vậy, nếu trứng rụng và thụ tinh để phát triển thành bào thai trước khi uống thuốc tránh thai khẩn cấp thì thuốc sẽ không có tác dụng.

3. Thuốc có tác dụng như nhau trong thời gian nó còn hiệu lực

Rất nhiều người cho rằng, trong thời gian thuốc có hiệu lực thì uống càng gần thời điểm "quan hệ" càng tốt. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu thuốc tránh thai khẩn cấp James Trussell, Tiến sĩ, giảng viên tại Đại học Princeton (Mỹ) cho biết: Sự thật là bạn nên dùng nó càng sớm càng tốt sau khi quan hệ tình dục không được bảo vệ, nhưng nghiên cứu gần đây đã tìm thấy rằng nó vẫn còn hiệu lực cho đến những ngày hôm sau, trong thời điểm hiệu lực cho phép. Vì vậy, đừng cho rằng chỉ uống thuốc ngay sau khi "quan hệ" mới có tác dụng ngừa thai".

4. Hiệu quả của thuốc không liên quan đến trọng lượng cơ thể

Nhiều người cho rằng, những người nặng cân, béo phì khi dùng thuốc sẽ đạt hiệu quả thấp hơn so với những người có trọng lượng khỏe mạnh. Nhưng thực tế không phải vậy. Cơ quan y tế châu Âu gần đây đã xem xét các nghiên cứu và thông báo rằng không có đủ dữ liệu để kết luận điều này. Hiệu quả của thuốc đối với phụ nữ ở các trọng lượng là như nhau.

5 sự thật về thuốc tránh thai khẩn cấp 2
Có nhiều biện pháp tránh thai cho chị em lựa chọn. Ảnh minh họa

5. Một số đối tượng không nên dùng thuốc tránh thai khẩn cấp

Nếu chị em nào thuộc nhóm những đối tượng sau đây thì nên lưu ý, hỏi ý kiến bác sĩ khi dùng thuốc tránh thai khẩn cấp:

- Mẫn cảm với bất cứ thành phần của thuốc.
- Mang thai hoặc nghi mang thai.
- Chảy máu âm đạo bất thường không chẩn đoán được nguyên nhân.
- Viêm tắc tĩnh mạch hoặc bệnh huyết khối tắc mạch thể hoạt động.
- Bị bệnh gan cấp tính, u gan lành hoặc ác tính.
- Bị carcinom vú hoặc có tiền sử bệnh đó.
- Bị vàng da hoặc ngứa dai dẳng trong lần có thai trước.

Aspirin ngăn ngừa chứng nhồi máu cơ tim

Aspirin là một thuốc giảm đau, chống viêm dùng cho các bệnh nhân đau, viêm khớp. Sau này người ta phát hiện ra aspirin có tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu trong máu và ngăn cản sự hình thành cục máu đông. Vì vậy, các chuyên gia tim mạch sử dụng aspirin cho các bệnh nhân bị chứng xơ vữa động mạch nhằm ngăn cản tạo cục máu đông gây ra tai biến não cũng như tim.
Không may là thuốc aspirin có tác dụng phụ là viêm loét dạ dày nên một số người có nguy cơ sẽ không dùng được, thậm chí gây xuất huyết tiêu hóa. Nên việc sử dụng aspirin phải có chỉ định của bác sĩ dù liều dùng thấp nhất (81mg) hoặc thuốc được làm tan ở ruột non.
Aspirin ngăn ngừa chứng nhồi máu cơ tim
Nhiều nghiên cứu cho thấy dùng aspirin ngăn ngừa được các biến cố tim mạch cho những người có nguy cơ.
Theo thống kê thì hàng năm có đến 16 triệu người chết vì bệnh tim mạch, chủ yếu là nhồi máu cơ tim. Bệnh sinh của nhồi máu cơ tim chính là chứng xơ vữa động mạch, có nhiều yếu tố nguy cơ gây ra xơ vữa, các mảng xơ vữa tồn tại đến một lúc nào đó sẽ bung ra khiến tiểu cầu kết dính tạo ra cục máu đông. 
Cục máu đông di chuyển đến khi không di chuyển được thì tắc nghẽn mạch máu, nếu xảy ra ở những mạch máu quan trọng gây ra tai biến: thuyên tắc mạch não, mạch vành tim, mạch máu phổi ... Đây là những tình trạng rất nặng nề và nguy cơ tử vong rất cao. Như đã nêu thì aspirin chỉ là một yếu tố, còn lại nhiều vấn đề khác người bệnh phải lưu ý. 
Chẳng hạn phải duy trì lối sống lành mạnh, ngưng hút thuốc lá, tập luyện thể dục thể thao để duy trì cân nặng phù hợp, kiểm soát đường huyết nếu bị đái tháo đường và quan trọng là phải theo dõi điều trị ở một bác sĩ chuyên khoa.


Không nên dùng kháng sinh để điều trị cảm lạnh

Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, cảm lạnh và ho trong mùa đông là do virus gây ra. Kháng sinh không có tác dụng với virus. Do đó, không nên dùng kháng sinh để điều trị cảm lạnh và ho.

Tại Hà Nội, khoảng 30-40% bệnh nhi vào BV Nhi Trung ương tuần qua hầu hết đều bị viêm đường hô hấp, tiêu chảy cấp. Bệnh nhân cao tuổi bị tiểu đường, cao huyết áp, tai biến mạch máu não nhập viện cũng tăng cao.
PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi (BV Bạch Mai) cho biết, số bệnh nhi viêm phổi tăng gấp đôi ngày thường. Khoa Nhi chỉ cho nhập viện những trường hợp nặng, bệnh nhân nhẹ được khám, kê đơn, cho điều trị tại nhà. PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng cho biết thêm, trẻ phải nhập viện điều trị viêm phổi chủ yếu dưới 1 tuổi, trẻ sơ sinh. Bên cạnh đó, thời tiết thay đổi, bệnh nhân hen cũng tăng lên.
Khi thời tiết đang rét đậm, tại các bệnh viện như Lão Khoa, Bạch Mai, Nội Tiết, Tim mạch, số người già đến khám, nhập viện cũng tăng khoảng 20-30%, chủ yếu là các bệnh tim mạch, tiểu đường, xương khớp, hô hấp...
TS Nguyễn Quốc Thái, Khoa C4 - Viện Tim mạch Việt Nam cho biết, đối với người già hoặc những người mắc bệnh mãn tính, trời lạnh là yếu tố gây nguy hiểm đặc biệt cho tim. Nhiệt độ thấp khiến cơ tim phải làm việc nhiều để cung cấp oxy và năng lượng cho cơ thể, đồng thời trời lạnh làm co mạch làm cho huyết áp tăng cao hơn, nguy cơ huyết khối cao hơn.
Theo TS Nguyễn Quốc Thái, để phòng tránh, cần mặc quần áo đủ ấm, tránh thay đổi nhiệt độ đột ngột từ chỗ ấm ra chỗ lạnh, tránh tập thể dục buổi sáng sớm, ăn uống đủ chất dinh dưỡng, vệ sinh mũi họng, răng miệng thường xuyên... Nếu có những triệu chứng bất thường như đau đầu nhiều, tê chân tay, đau tức ngực thì nên đi khám ngay.
Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, cảm lạnh và ho trong mùa đông là do virus gây ra. Tất cả các kháng sinh đều không có tác dụng với virus. Do đó, không nên dùng kháng sinh để điều trị cảm lạnh và ho. Các trường hợp này nếu dùng kháng sinh chỉ càng làm cho bệnh kéo dài hơn. 
Vì vậy nên dùng các thuốc ho Đông y tự chế tại nhà như hoa hồng hấp đường, húng chanh mật ong... hoặc dùng các thuốc ho Đông y có bán tại các hiệu thuốc. Đồng thời nên nhỏ mũi bằng nước muối sinh lý cho trẻ. 
"Cần giữ môi trường phòng ngủ của trẻ thoáng mát, sạch sẽ, tránh không để các loại lông súc vật bay vào trong nhà. Không nên trải thảm trong phòng ngủ vì thảm rất dễ bắt bụi bẩn, gây ho cho bé. Tránh các loại khói như thuốc lá, thuốc lào, tránh đun bếp than. Ngoài ra nên tăng sức đề kháng cho bé bằng cách cho ăn đầy đủ dinh dưỡng, các vi chất, vitamin, đi tiêm phòng đầy đủ.
Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, mặc dù trời lạnh nhưng cũng phải để cho trẻ được vui chơi, chạy nhảy, không nên giữ trẻ ở trong nhà cả ngày. Nên rửa mặt, đánh răng cho trẻ bằng nước ấm.


Khi người viêm gan dùng thuốc

Người bị bệnh viêm gan dùng các thuốc chữa bệnh khác rất khó, nếu tự ý dùng sẽ bị sai sót, dẫn đến tai biến.

Thuốc có tính độc với gan và không có tính độc với gan
Về tổng thể, có thể chia (một cách tương đối) toàn bộ thuốc ra làm 2 nhóm:
Những thuốc mà người bình thường khỏe mạnh vốn không bị bệnh gan nhưng khi dùng chúng đúng chỉ định, đúng liều lại bị tổn thương gan, được xếp vào nhóm thuốc có tính độc với gan hay còn gọi thuốc gây viêm gan. Những thuốc mà người bình thường khỏe mạnh, trước đó không bị bệnh gan, dùng đúng chỉ định, đúng liều, sẽ không gây tổn thương gan được xếp vào nhóm thuốc không có tính độc với gan hay còn gọi là thuốc không gây viêm gan.
Trong hai định nghĩa này không bao gồm trường hợp người dùng trước đó đã bị bệnh gan hoặc dùng không đúng chỉ định, không đúng liều. Nếu không tuân theo điều kiện giới hạn này, có khi xếp nhóm này vào nhóm khác. Có thể nêu một số thí dụ:
Paracetamol khi uống sẽ chuyển thành chất trung gian có độc cho gan.Nếu dùng đúng chỉ định là để làm giảm đau và đúng liều (mỗi ngày 2 - 4 viên tương đương 1 - 2g) thì chất trung gian ấy sinh ra ít, gan sản xuất đủ glutathion để hóa giải nên không bị hại. Tuy nhiên, khi dùng liều quá cao (mỗi ngày 16 - 24 viên tương đương 8 - 12g) thì chất trung gian gây độc cho gan sinh ra quá nhiều, gan không thể sản xuất đủ glutathion để hóa giải nên bị viêm gan cấp (hoại tử gan, tử vong).
Đây không phải lỗi do bản chất thuốc mà là lỗi do người dùng (dùng liều quá cao) Vì thế, paracetamol vẫn được coi là thuốc hiền lành (tuổi nào cũng dùng được, kể cả trẻ sơ sinh), bán không cần đơn (thuốc OTC) mà không xếp vào nhóm thuốc có tính độc với gan.
Corticoid vốn không có tính độc với gan. Tuy nhiên, khi dùng cho người viêm gan bị phù, cổ trướng thì do corticoid giữ nước nên làm nặng thêm bệnh này. Các thuốc an thần lợi tiểu táo bón… cũng không có tính độc với gan nhưng khi dùng cho người bệnh não do gan thì làm cho bệnh này nặng thêm. Cần tuân theo các "điều kiện giới hạn" đã nêu trong định nghĩa để khỏi xếp nhầm nhóm.
Người viêm gan dùng thuốc chữa bệnh khác thế nào?
Với nhóm không có tính độc với gan:
Người viêm gan dùng nhóm thuốc này cũng có thể bị tác hại:
Người bị viêm gan, chức năng gan suy giảm, sẽ ảnh hưởng đến dược động học của thuốc, làm thay đổi hoạt tính, tác dụng phụ nên có thể gây ra các tại biến khác nhau, kể cả tai biến về gan. Một số thí dụ:
Thông thường, thuốc vào máu sẽ gắn kết với protein của huyết tương thành dạng phức hợp, sau đó dưới tác động của gan mới giải phóng trở lại thành dạng tự do, rồi chuyển hóa thành các chất trung gian có hoạt tính, hoặc các chất trung gian không độc thải ra khỏi cơ thể qua đường phân hay nước tiểu. 
Người bị viêm gan nặng, chức năng sản xuất albumin của gan suy giảm, sự gắn kết giữa thuốc với protein với huyết tương bị giảm, do đó thuốc tồn tại dưới dạng tự do trong máu với tỉ lệ cao, làm tăng độ độc như các thuốc phenytoin, prednisolon.
Khi người viêm gan dùng thuốc
Gan có chức năng sản xuất các yếu tố đông máu. Khi viêm gan, chức năng gan suy giảm, các yếu tố đông máu bị thiếu. Do đó, thời gian đông máu kéo dài ra, thậm chí không đông. Lúc này, nếu bị chấn thương chảy máu, dùng thuốc cầm máu (gây đông máu) thì hiệu lực thuốc cầm máu bị gảm, sự cầm máu sẽ bị chậm trễ hay không cầm máu được. 
Ngược lại khi bị bệnh làm đông máu (tạo ra cục máu đông làm nghẽn mạch), cần dùng một thuốc chống đông (để làm tan cục máu đông ra, trả lại sự thống thoáng mạch) thì hiệu lực thuốc chống đông tăng quá mức, có thể gây ra tác dụng phụ chảy máu.
Người bị viêm gan ứ mật, chức năng sản xuất lẫn tiết mật bị đình trệ. Do thế, sự chuyển hóa thuốc lần đầu bị giảm, thuốc không bị mất đi nhiều, từ đó sinh khả dụng của thuốc tăng; ngược lại cũng do thiếu mật, các chất mỡ không được nhũ hóa để hấp thu, các thuốc tan trong mỡ sẽ hấp thu ít, từ đó sinh khả dụng của thuốc bị giảm.
Người viêm gan dùng nhóm thuốc này thế nào?
Trước hết vì các thuốc này không có tính độc với gan nên người viêm gan vẫn có thể dùng; tuy nhiên cần thận trọng chủ yếu là phải điều chỉnh liều lượng cho phù hợp. Có thể trở lại ví dụ đã nếu ở trên: người bị viêm gan, gan không sản xuất đủ các yếu tố đông máu nên thời gian đông máu kéo dài ra làm cho hoạt tính của thuốc chống đông máu bị tăng lên; nếu cần dùng thuốc chống đông máu thì cần giảm liều dùng để tránh tác dụng phụ gây chảy máu.
Với nhóm có tính độc với gan:
Có rất nhiều nhóm thuốc có tính độc với gan, trong đó có các nhóm chính sau:
Nhóm kháng sinh: gây độc cho gan bằng nhiều cách, với các mức khác nhau. Một số thí dụ: ngay trong nhóm kháng sinh macrolid thì clarithromycin, azithromycin chủ yếu chỉ làm tăng enzyme AST (aminostranferase), bilirubin trong máu kèm theo vàng da tăng bạch cầu ưa eosin; trong khi đó, tellimycin không chỉ gây độc cho gan theo cơ chế này mà còn làm tổn thương tế bào gan với tần suất vượt hẳn hai thuốc trên, còn treoandomycin lại gây độc cho gan theo cách hỗn hợp rất nguy hiểm. 
Tettracyclin dạng uống có thể gây thâm nhiễm mỡ gan bọng nhỏ, song không gây hậu quả về lâm sàng; tuy nhiên khi dùng dạng tiêm tĩnh mạch cho nữ mang thai lại có nguy cơ cao gây suy gan. Kháng nấm griseopulvin gây ứ mật.
Nhóm thuốc chống lao: tạo ra các chất độc, tác động lên protein của tế bào, làm hoại tử tế bào gan, hoặc tạo ra các phức hợp kháng nguyên kích thích tế bào lympho T đưa đến phản ứng miễn dịch gây nhiễm độc gan. Tỉ lệ mắc khoảng 0,6 - 3% trên số người dùng. Trong số đó, đa số do pyrazinamid (82%) thứ đến do isoniazid chiếm (9%), ít nhất do rifampicin (1%). 
Trong điều trị lao, thường dùng nhiều thuốc. Phải dò tìm "thủ phạm" bằng cách: cho ngừng dùng thuốc; điều trị cho enzyme gan trở lại bình thường; sau đó, cho dùng thử từng loại, đủ liều trong khoảng một tuần, thuốc nào làm tăng enzyme gan sẽ được xem là "thủ phạm". Thầy thuốc sẽ loại bỏ thuốc "thủ phạm" này, thay bằng một thuốc khác, rối tiếp tục điều trị lao theo nguyên tắc "đa hóa trị liệu" .
Nhóm diệt ký sinh trùng: thuốc sốt rét (amiodiaquin, mepraquin) gây rối loạn chức năng gan; thuốc giun (thiabenzol) vừa gây rối loạn chức năng gan, vừa gây ứ mật
Nhóm thuốc tim mạch: đa số chỉ gây ứ mật như: thuốc loạn nhịp (quinidin, ajmalin), thuốc mạch vành (verapamil, diltiazem), thuốc huyết áp (catopril, nifedipin). Chỉ một ít thuốc gây hoại tử gan hay hỗn hợp (vừa ứ mật, vừa thoái hóa mỡ, vừa hoại tử) rất nguy hiểm như: thuốc huyết áp (hydralazin, enalapril), thuốc mạch vành (herhexilin). Theo yêu cầu điều trị, nhóm thuốc này thường dùng dài ngày. Khi dùng nhóm thuốc này, phải khám định kỳ, nếu phát hiện thuốc gây độc cho gan, phải đổi thuốc.
Nhóm hoóc-môn: có thuốc gây ứ mật song tự hồi phục như testosteron, thuốc tránh thai nữ (với tỉ lệ thấp). Có thuốc gây ra hoại tử gan như kháng giáp tổng hợp (thiouracin). Theo yêu cầu điều trị thường dùng lâu dài song có thể nghỉ từng đợt khi bệnh ổn định (ví dụ: khi tình trạng cường giáp đã cải thiên, ngừng dùng kháng giáp tổng hợp) hay thay bằng phương pháp khác (ví dụ: thay thuốc tránh thai bằng các cách khác).
Nhóm thuốc trị ung thư: methotrexat gây nhiễm mỡ gan có thể xơ gan. 5- fluorouraci gây viêm gan.
Nhóm thuốc điều trị tâm - thần kinh: thuốc chống động kinh valproic có thể gây bất thường gan sau 2 - 4 tháng dùng; phenytoin có thể gây viêm gan cấp.
Nhóm kháng viêm không steroid: tỉ lệ người dùng các thuốc này bị viêm gan thấp (1 - 10 người trong 100.000 người dùng). Tuy nhiên, do nhóm thuốc này được dùng quá rộng rãi nên chúng vẫn được xếp vào nhóm thuốc chính gây viêm gan.
Người viêm gan có dùng nhóm thuốc này không?
Người viêm gan, chức năng gan bị suy giảm, khả năng hóa giải chất độc bị giảm sút, hoặc không thể hóa giải được chất độc, do thế, không được dùng loại thuốc có tính độc với gan. Một bệnh thường có nhiều thuốc điều trị. Khi điều trị cho người viêm gan thì chỉ chọn loại thuốc không có tính độc với gan. Có thể nêu ra hai ví dụ sau:
Bị viêm phổi, không nhất thiết phải dùng các kháng sinh thuộc nhóm macrolic: clarithromycin, azithromycin, telimycin (những thuốc gây độc cho gan) mà có thể dùng nhóm kháng sinh betalactam: penicillin, khi nặng penicillin không đáp ứng có thể dùng thế hệ mới như: cefuroxim (những thuốc không độc với gan).
Người viêm gan do rượu có thể bị cả viêm gan do virút, nhất thiết phải bỏ rượu. Thuốc cai rượu disulfiram làm gián đoạn quá trình chuyển hóa rượu thành nước và carbonic thải ra ngoài, chỉ cho quá trình này ngừng lại ở giai đoạn tạo thành acetaldehyt, làm cho người nghiện rượu bị khó chịu khi uống mà phải bỏ rượu. 
Người bị viêm gan, chức năng chuyển hóa của gan suy giảm, nếu dùng thuốc này thì quá trình chuyển hóa rượu bị ngừng trệ mạnh hơn, sinh ra quá nhiều acetaldehyt gây độc cho gan, nên không thể dùng được. Trong lúc đó thuốc acamprosat (biệt dược: campral) cai rượu bằng cơ chế lập lại hệ cân bằng GABA- glutamic, không bị chuyển hóa ở gan, không gây hại gan. Thầy thuốc có thể chọn thuốc này cố nhiên acamprosat có một số tác dụng phụ khác cần thận trọng.
Lời kết
Người viêm gan rất khó dùng thuốc chữa bệnh khác. Việc chọn thuốc, điều chỉnh liều (bao gồm kể cả thuốc thuộc nhóm không yêu cầu kê đơn - OTC). Với những thuốc dùng lâu dài, biểu hiên "viêm gan do thuốc" có thể không rõ, cần khám lâm sàng xét nghiệm gan định kỳ theo chỉ dẫn của thầy thuốc. 
Trong quá trình dùng, nếu thấy có một số bất thường (mệt, chán ăn, buồn nôn, nôn, vàng da, nước tiểu sậm, ngứa, phân nhạt màu, rối loạn dạ dày ruột, nổi ban da, sốt, tăng nhạy cảm hạ sườn phải, gan to, lách to, cổ trướng, lú lẫn, hôn mê), cần báo cáo với thầy thuốc (kể cả khi các hiện tượng này không đủ, chưa rõ). 
Nếu khám xác nhận có các triệu chứng trên, kết hợp xét nghiệm thấy enzyme gan tăng (thường tăng gấp 2,5 - 5 lần so với mức bình thường) thì xác định "bị viêm gan do thuốc", xử lý bằng cách ngừng hay đổi thuốc (tùy trường hợp). Người viêm gan khi cần chữa các bệnh khác thì không tự ý dùng hay kéo dài thời gian dùng thuốc.
Người viêm gan, chức năng gan bị suy giảm, khả năng hóa giải chất độc bị giảm sút, hoặc không thể hóa giải được chất độc, do thế, không được dùng loại thuốc có tính độc với gan.


Ứng dụng của doxycycline trong điều trị nhãn khoa

Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia.

Mới đây, thuốc này còn được dùng để dự phòng sốt rét. Với chuyên ngành nhãn khoa dược phẩm này vẫn được sử dụng rộng rãi cả đường tại chỗ dưới dạng thuốc mỡ hay đường uống cho dù đã có thêm nhiều dòng kháng sinh mới. 
Doxycyline được cho là hấp thu tốt hơn, độc tính với gan thận ít hơn, đặc biệt là hạn chế được tác dụng phụ trên phát triển xương và răng của trẻ. Tuy nhiên, người ta khuyên các bà mẹ có thai nên thận trọng dùng thuốc này hoặc phải tham khảo kỹ dược sĩ khi có chỉ định điều trị bằng doxycycline.
Viêm kết mạc cấp do Chlamydia (viêm kết mạc thể vùi ở trẻ em và viêm kết mạc bể bơi ở người lớn) vẫn rất nhạy cảm với doxycycline đường uống và tra nhỏ tại chỗ. Tuy nhiên, trên thị trường Việt Nam không có dạng thuốc mỡ mà chỉ có mỡ tetracycline, một sản phẩm cùng nhóm nhưng kích thích mạnh nếu dùng tra nhỏ tại mắt. Bệnh mắt hột, cho dù đã gần như bị xóa sổ tại nước ta, nếu mắc lại lẻ tẻ vẫn có thể dùng doxycycline đường uống trong vài tuần. 
Bác sĩ mắt yêu thích dược phẩm này còn vì tác dụng chống viêm và hoại tử của nó. Do tác dụng ức chế men tiêu tổ chức protease và collagenase, thuốc có thể dùng đường uống hoặc tại chỗ (nếu nghi ngại tác dụng phụ trên toàn thân). Các loại bỏng mắt có hoại tử đều nên dùng doxycycline để chống lại việc tiêu tổ chức, mất chất dẫn đến loét nhuyễn và thủng nhãn cầu.
Tạp chí Archives Ophthalmology mới đây còn đưa ra kết quả nghiên cứu ứng dụng doxycycline điều trị bệnh võng mạc do đái tháo đường mức độ nhẹ và trung bình khá ấn tượng. Với lý luận thuốc có thể chống viêm, hạn chế hoạt hóa các thành phần vi đệm của võng mạc, góp phần bảo vệ lớp trong của võng mạc trên bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ). 
Hai nghiên cứu liên tiếp đã cho ra những kết quả đáng khích lệ. Nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi trên 33 bệnh nhân trong 24 tháng. Nhóm 1 dùng doxcycline liều 50mg, nhóm 2 dùng giả dược. Ở thời điểm 12 và 24 tháng đã cho thấy khác biệt về thị lực, cảm nhận độ tương phản, độ nhạy sáng của vùng hoàng điểm khi đo thị trường bằng phương pháp PDF với ưu thế thuộc về nhóm bệnh nhân dùng doxycycline.
Cho dù số lượng bệnh nhân tham gia nghiên cứu còn nhỏ, chưa đánh giá đầy đủ các yếu tố giải phẫu: độ dày võng mạc, đường kính mạch máu... và vẫn cần thêm những nghiên cứu bổ sung khác, nhưng loại thuốc này nhất định sẽ góp thêm vào lựa chọn cho các bác sĩ mắt trong việc điều trị bệnh võng mạc ĐTĐ mức độ nhẹ và trung bình chưa có tăng sinh.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons