Thứ Ba, 21 tháng 7, 2015

Dùng ibuprofen giảm đau, chống viêm

Là thuốc có tác dụng giảm đau, hạ sốt và chống viêm nên ibuprofen được dùng trong rất nhiều trường hợp như thống kinh, nhức đầu, làm các thủ thuật về răng, viêm khớp dạng thấp...

Thuốc chỉ sử dụng chống đau và viêm mức độ từ nhẹ đến vừa. Trên thị trường hiện nay thuốc có nhiều dạng bào chế, thuận tiện cho việc sử dụng như viên nén, viên nang (để uống), kem dùng ngoài (dùng tại chỗ, bôi ngoài da), đạn đặt trực tràng (phù hợp với người bệnh không uống được, ví dụ người lớn bị suy hô hấp và cũng tác dụng như uống) và nhũ tương (uống)…

Dùng ibuprofen giảm đau, chống viêm
Khi dùng thuốc này cần lưu ý, rất nhiều tác dụng phụ của thuốc có thể xảy ra. Thường gặp là các biểu hiện mỏi mệt, sốt (do thuốc), chướng bụng, buồn nôn, nôn; nhức đầu, hoa mắt chóng mặt, bồn chồn; mẩn ngứa, ngoại ban. 
Các phản ứng dị ứng (đặc biệt co thắt phế quản ở người bệnh bị hen), viêm mũi, nổi mày đay; đau bụng, chảy máu dạ dày - ruột, làm loét dạ dày tiến triển; lơ mơ, mất ngủ, ù tai; rối loạn thị giác; thính lực giảm… ít gặp hơn song cũng nặng hơn. 
Trường hợp người bệnh thấy nhìn mờ, giảm thị lực, hoặc rối loạn nhận cảm màu sắc thì phải ngừng dùng ibuprofen. Nếu có rối loạn nhẹ về tiêu hóa có thể khắc phục bằng cách uống thuốc lúc ăn hay uống với sữa.
Các trường hợp không được dùng ibuprofen bao gồm: mẫn cảm với thuốc hoặc từng bị dị ứng với thuốc này trước đó, loét dạ dày tá tràng tiến triển, người bệnh bị hen hoặc bị co thắt phế quản, rối loạn chảy máu, bệnh tim mạch, tiền sử loét dạ dày tá tràng, suy gan hoặc suy thận, 3 tháng cuối của thai kỳ. 
Thời kỳ mang thai, các thuốc chống viêm nói chung và ibuprofen nói riêng có thể ức chế co bóp tử cung và làm chậm đẻ hoặc có thể gây tăng áp lực phổi nặng và suy hô hấp nặng ở trẻ sơ sinh do đóng sớm ống động mạch trong tử cung. 
Sau khi uống các thuốc chống viêm không steroid cũng có nguy cơ ít nước ối và vô niệu ở trẻ sơ sinh. Trong 3 tháng cuối thai kỳ, phải hết sức hạn chế sử dụng đối với bất cứ thuốc chống viêm nào. Các thuốc này cũng có chống chỉ định tuyệt đối trong vài ngày trước khi sinh.
Cần thận trọng dùng thuốc đối với người cao tuổi. Ibuprofen có thể làm tăng tác dụng phụ của các kháng sinh nhóm quinolon lên hệ thần kinh trung ương và có thể dẫn đến co giật (không dùng ibuprofen đồng thời với các thuốc kháng sinh này) và tăng nguy cơ chảy máu, gây loét khi dùng ibuprofen với các thuốc giảm đau chống viêm không steroid khác (nên tránh dùng ibuprofen kết hợp với các thuốc chống viêm không steroid khác).


Chữa viêm gan virut C, khó nhất là gì?

Có khoảng 200 triệu người nhiễm virut viêm gan C (HCV) trên thế giới và mỗi năm có thêm 3 - 4 triệu người mắc mới.

Có khoảng 200 triệu người nhiễm virut viêm gan C (HCV) trên thế giới và mỗi năm có thêm 3 - 4 triệu người mắc mới. Tuy nhiễm HCV là một bệnh có thể điều trị khỏi hoàn toàn, nhưng có tới 50 - 80% trường hợp trở thành mạn tính và 50 - 70% các trường hợp ung thư gan là có sự liên quan tới virut viêm gan C. 
Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về các loại thuốc điều trị HCV và lý do vì sao bệnh trở thành mạn tính và khó điều trị.
Các thuốc hiện nay trong điều trị bệnh
Những người mắc viêm gan C không điều trị hiếm khi thanh thải virut tự nhiên trừ khi tình trạng miễn dịch bị thay đổi. Ở các bệnh nhân nhiễm virut viêm gan C mạn, mục tiêu điều trị là diệt trừ virut, ức chế virut sao chép lâu dài và giảm tình trạng viêm gan. Điều trị viêm gan C mạn đã có nhiều tiến triển trong thập niên vừa qua, đầu tiên các liệu trình interferon ngắn hạn đã làm giảm nồng độ men ALT trong huyết thanh, giảm nồng độ HCV và làm giảm tình trạng viêm gan. 
Tuy nhiên diệt trừ virut không xảy ra và phần lớn bệnh nhân tái phát sau khi ngừng thuốc. Sau này liệu trình phối hợp interferon và ribavirin có khả năng diệt trừ virut ở 40% các bệnh nhân. Kể từ năm 2002, liệu pháp Peg - Interferon kết hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng virut học kéo dài trên 50% các bệnh nhân đã dần thay thế các chế độ điều trị cũ.
Chữa viêm gan virut C, khó nhất là gì?
​Hình ảnh virut viêm gan C.
Peg - interferon
Peg - interferon là sự phối hợp giữa interferon với polyethylen glycol, còn gọi là pegylate hóa, làm thanh thải thuốc chậm đi và do đó phơi nhiễm kéo dài với nồng độ thuốc cao hơn, nên chỉ dùng 1 tuần một lần.
Có hai loại peg - interferon là peg - interferon α - 2a và peg - interferon α - 2b có tỷ lệ đáp ứng virut duy trì dao động trên 36% tùy theo genotype. Điều trị phối hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng cao hơn, trên 50%. Trường hợp bệnh nhân chống chỉ định dùng ribavirin có thể được điều trị bằng peg - interferon. Hai loại peg - interferon khác nhau ở trọng lượng phân tử nên việc tính liều điều trị sẽ khác nhau trên từng bệnh nhân.
Các tác dụng phụ: phần lớn các tác dụng ngoại ý là ở mức độ nhẹ và trung bình không cần hạn chế điều trị. Các tác dụng phụ hay gặp là đau nơi tiêm, mệt, ớn lạnh, sốt, đau khớp, triệu chứng giống cúm, trầm cảm..., ngoài ra có thể gặp giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, phát ban, tăng cảm giác, nhìn mờ, lú lẫn, rong kinh, táo bón, rối loạn tâm thần...
Ribavirin
Ribavirin được phát hiện vào năm 1972, là một chất tương tự guanosine có phổ hoạt tính rộng chống lại các virut RNA và DNA gồm cả các flaviviridae như virut viêm gan C. Ribavirin có vai trò quan trọng trong phác đồ phối hợp với peg - interferon trong suốt quá trình điều trị.
Ribavirin có tác dụng làm tăng đáp ứng cytokin kiểu 1 và đáp ứng tăng sinh tế bào T gây độc tế bào. Ribavirin có thời gian bán thải 44 - 49 giờ sau liều duy nhất và sẽ tăng cao sau khi dùng lâu dài, bởi thế sự thanh thải ribavirin cần nhiều tuần sau khi ngừng thuốc. Thanh thải ribavirin giảm nhiều ở bệnh nhân suy thận nên không dùng ở bệnh nhân có độ thành thải creatinin < 50ml/phút.
Các tác dụng phụ hay gặp là gây tan máu, ngoài ra còn gây quái thai do đó không được dùng cho phụ nữ mang thai.
Không dùng peg - interferon và hoặc ribavirin ở bệnh nhân viêm gan virut C mạn tính.
Chống chỉ định tuyệt đối với bệnh nhân xơ gan mất bù, bệnh tự miễn, rối loạn nhịp tim, bệnh thiếu máu và thiếu máu cục bộ, suy thận, phụ nữ có thai và cho con bú, trẻ em dưới 18 tuổi.
Cần thận trọng khi dùng cho các tương đối: thiếu máu 3 dòng, bệnh nhân có các rối loạn tâm thần, các rối loạn co giật.
Hướng điều trị mới
Kết hợp nhiều loại thuốc và nhiều cơ chế tác dụng để có hiệu quả chéo với nhiều loại genotype, cải tiến đáp ứng, giảm thời gian điều trị, cải thiện tính dung nạp, giảm sự đề kháng, có thể áp dụng được với những đối tượng khó điều trị.
Các thuốc mới sẽ được đưa vào sử dụng là thuốc ức chế men protease (telaprevir kết hợp với peg - interferon hoặc ribavirin), thuốc ức chế polymerase (valopicitabine), thuốc interferon mới (albinterferon α - 2b phối hợp với ribavirin), interferon tái tổ hợp omega, taribavirin.
Vì sao bệnh khó điều trị?
Có khoảng 60% nhiễm HCV không có triệu chứng, 39% cảm thấy mệt (giống như cảm cúm, chán ăn, buồn nôn, có thể đau khớp, đau bụng nhẹ), ít khi có biểu hiện vàng da, nước tiểu sậm màu, chỉ 1% có các biểu hiện nặng.
Trong tổng số nhiễm HCV có khoảng 15% tự hồi phục, 85% chuyển qua thể mạn. Thể mạn thường âm thầm kéo dài hàng chục năm và chỉ phát hiện được khi đã có diễn biến nghiêm trọng (xơ gan, cổ trướng, giãn mạch máu đường tiêu hóa, vỡ mạch gây chảy máu ồ ạt, tử vong). Trong số 85% chuyển qua mạn tính thì có 20% bị xơ gan và có khoảng 3% trong số xơ gan bị ung thư gan.
Do nhiễm HCV ở các týp gen khác nhau, khả năng đáp ứng thuốc của các quần thể dân cư khác nhau nên hiệu quả điều trị khá dao động. Một khó khăn trong điều trị bệnh là người bệnh khó nhận biết mình bị mắc bệnh, thường đến bệnh viện muộn có khi đã xơ gan; kết quả điều trị dao động, chi phí điều trị cao nên có người bỏ dở, thậm chí không muốn điều trị.
Tóm lại, sự phát tán của HCV ngày càng có khuynh hướng tăng lên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Điều quan trọng là phát động chiến dịch về tác hại của việc dùng ma túy, làm giảm tác hại bằng chương trình sử dụng bơm kim tiêm một lần, giáo dục cho những người làm nghề xăm và nghề y học cổ truyền cách lựa chọn phương pháp điều trị để giảm thiểu việc lây bệnh qua đường máu.


Trường hợp tiêu chảy nào không được dùng loperamid?

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tiêu chảy cấp tính như virut (Rotavirus thường là nguyên nhân tiêu chảy ở trẻ em, Adenovirus...), vi khuẩn (E.coli), ký sinh trùng, do thuốc men và rối loạn đường ruột...





Vì vậy, trong điều trị tiêu chảy, ngoài việc điều trị nguyên nhân, vấn đề ưu tiên trong mọi trường hợp là đánh giá và xử lý đúng những rối loạn nước và điện giải (bù nước và điện giải). Vậy thuốc trị tiêu chảy loperamid được dùng trong trường hợp nào?
Loperamid là một dạng opiat tổng hợp có tác dụng làm giảm nhu động ruột, giảm tiết dịch đường tiêu hóa và tăng trương lực cơ thắt hậu môn. Thuốc còn có tác dụng kéo dài thời gian vận chuyển thức ăn qua ruột, tăng vận chuyển dịch và chất điện giải qua niêm mạc ruột, do đó làm giảm sự mất nước và điện giải, giảm lượng phân. Chính vì vậy, thuốc được dùng để điều trị triệu chứng tiêu chảy cấp không có biến chứng hoặc tiêu chảy mạn ở người lớn.
Không dùng loperamid trong các trường hợp như mẫn cảm với thuốc, khi cần tránh ức chế nhu động ruột, có tổn thương gan, viêm đại tràng nặng, viêm đại tràng màng giả (có thể gây đại tràng to nhiễm độc), hội chứng lỵ, bụng trướng. Thuốc cũng không được khuyến cáo dùng cho trẻ em một cách thường quy trong tiêu chảy cấp. 
Trong quá trình dùng thuốc cần theo dõi nhu động ruột và lượng phân, nhiệt độ cơ thể, theo dõi trướng bụng. Với những người bệnh giảm chức năng gan hoặc viêm loét đại tràng cần dùng thuốc một cách thận trọng. Ngừng thuốc nếu không thấy có kết quả trong vòng 48 giờ.
Không nên dùng cho phụ nữ có thai (vì chưa có đủ các nghiên cứu để đánh giá dùng thuốc ở đối tượng này). Loperamid bài tiết ra sữa rất ít, có thể dùng thuốc cho bà mẹ đang cho con bú nhưng chỉ với liều thấp.
Hầu hết các tác dụng phụ thường gặp khi dùng thuốc là phản ứng ở đường tiêu hóa. Thường gặp các triệu chứng như táo bón, đau bụng, buồn nôn, nôn, tắc ruột do liệt (hiếm gặp hơn). Các tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương như ngủ gật, trầm cảm, hôn mê, thường hay gặp với trẻ em dưới 6 tháng tuổi.
Vì vậy loperamid không được dùng trong điều trị tiêu chảy cho trẻ nhỏ. Chỉ dùng cho trẻ em trên 6 tuổi khi thật cần thiết. Ngoài ra, một số người còn thấy mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, dị ứng... khi dùng thuốc này.
Tình trạng quá liều thường xảy ra khi liều dùng hàng ngày khoảng 60mg loperamid với các triệu chứng suy hô hấp và hệ thần kinh trung ương, co cứng bụng, táo bón, kích ứng đường tiêu hóa, buồn nôn và nôn. Người bệnh cần được đưa tới cơ sở y tế để được cấp cứu xử lý ngộ độc thuốc.





4 nhóm thuốc điều trị chóng mặt

Chóng mặt là chứng bệnh rất thường gặp có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường xảy ra ở người cao tuổi và nữ nhiều hơn nam.

Thuốc được sử dụng trong điều trị chóng mặt tùy thuộc vào nguyên nhân:
Nhóm thuốc kháng sinh và thuốc glucocorticoid:
Các thuốc kháng sinh (amoxicillin, cefuroxim, clarithromycin…) và các thuốc glucocorticoid (prednisolon, dexamethason, betamethason…) được sử dụng trong điều trị chóng mặt do viêm mê đạo hay viêm dây thần kinh tiền đình gây ra bởi vi khuẩn.
Nhóm thuốc kháng histamin:
Là nhóm thuốc thông dụng trong điều trị chóng mặt. Các thuốc thường được sử dụng là dyphenhydramin, betahistin, meclizin... Nhóm thuốc này tác động bằng cách duy trì sự hoạt động bình thường của tai trong, giúp kiểm soát trạng thái thăng bằng của cơ thể.
Nhóm thuốc kháng tiết cholin:
Scopolamin là hoạt chất thuộc nhóm kháng tiết cholin, có trong cây cà độc dược và được sử dụng trong điều trị chóng mặt, buồn nôn do say tàu xe.
Nên lưu ý không sử dụng scopolamin trong trường hợp sau:
- Người mắc bệnh tăng nhãn áp (glaucoma).
- Phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu.
- Trẻ em dưới 8 tuổi.
4 nhóm thuốc điều trị chóng mặt
Nhóm thuốc đối kháng canxi có chọn lọc:
Các thuốc đối kháng canxi có chọn lọc như cinarizin, flunarizin… còn có tính chất của thuốc kháng histamin, thường được sử dụng hiệu quả trong điều trị chóng mặt do say tàu xe, do bệnh đau nửa đầu…
Các thuốc này có tác dụng giãn mạch ngoại biên, tăng cường tuần hoàn máu ở tai trong.
Nhóm thuốc tăng cường tuần hoàn não:
Các thuốc tăng cường tuần hoàn não như piracetam, vinpocetin, ginkgo biloba… giúp tăng cường máu lên não, hoạt hóa não thực hiện tốt chức năng dẫn truyền thần kinh, làm giảm chóng mặt, ù tai.
Nhóm thuốc benzodiazepin:
Các thuốc benzodiazepin như: diazepam, clonazepam, lorazepam…thường được sử dụng trong điều trị chóng mặt do bệnh Ménière, do viêm dây thần kinh tiền đình hay do nguyên nhân tâm lý. Các thuốc này làm giảm các triệu chứng chóng mặt, ù tai… và điều chỉnh sự hồi phục tổn thương tiền đình.
Nhóm thuốc lợi tiểu:
Các thuốc lợi tiểu như furosemid, hydrochlorothiazid… giúp thoát dịch ở tai trong nên được sử dụng trong điều trị chóng mặt gây ra do bệnh Ménière.
Acetyl-DL-leucin là một axít amin được sử dụng hiệu quả trong điều trị các cơn chóng mặt, tuy cơ chế tác động chưa được biết rõ.
Hầu hết các thuốc sử dụng trong điều trị chóng mặt là các thuốc kê đơn và có nhiều tác dụng phụ, nên cần phải được sự chỉ định và theo dõi của thầy thuốc. 
Nên lưu ý: một số nhóm thuốc có tác dụng phụ là gây buồn ngủ. Do đó, không được sử dụng khi đang lái tàu xe, vận hành máy móc và thận trọng khi sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú…
Theo BS Mai Xuân Dũng - Sức khỏe và Đời sống


Đột quỵ vì thuốc chống viêm, giảm đau

Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) được sử dụng rộng rãi để điều trị đau và sốt từ nhẹ đến vừa trong các trường hợp như viêm khớp.

Các NSAID có thể là thuốc kê đơn và không kê đơn (OTC) như ibuprofen, diclofenac, meloxicam, indomethacin và piroxicam…
Thực tế cho thấy, các thuốc chống viêm không steroid có nguy cơ làm tăng các cơn đau tim hoặc đột quỵ có thể dẫn tới tử vong. 
Dựa trên đánh giá toàn diện về thông tin an toàn mới của nhóm thuốc này, Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) đang tăng cường một nhãn hiệu cảnh báo về nguy cơ trên và yêu cầu cập nhật cho các nhãn thuốc của tất cả các NSAID kê đơn (mặc dù aspirin cũng là một NSAID, nhưng cảnh báo sửa đổi này không áp dụng đối với aspirin). Đó là:
Các nguy cơ đau tim hoặc đột quỵ có thể xảy ra sớm nhất là vào tuần đầu tiên của việc sử dụng một NSAID, và nguy cơ này có thể tăng khi tiếp tục dùng thuốc. Nguy cơ xuất hiện nhiều hơn ở liều cao hơn, vì vậy nên sử dụng thuốc ở liều thấp nhất có hiệu quả và trong thời gian ngắn nhất (có thể). 
Người bệnh cần ngừng dùng thuốc và tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu có các triệu chứng như: đau ngực, khó thở, điểm yếu đột ngột hoặc tê ở một phần hoặc bên của cơ thể, nói lắp… vì đây là những triệu chứng có thể báo hiệu vấn đề về tim hoặc đột quỵ.
Các loại thuốc kê đơn trong nhóm này thường được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh viêm khớp và các chứng đau khác. Còn thuốc OTC (không kê đơn) trong nhóm này như ibuprofen, naproxen… được sử dụng để làm giảm tạm thời cơn đau và sốt như đau đầu, đau răng, đau lưng, đau nhức cơ bắp, đau bụng kinh… 
Ngoài ra, một số OTC trị cảm cúm, cảm lạnh cũng chứa NSAID. Trên thực tế nhiều đơn thuốc và thuốc OTC có chứa NSAID, nên điều quan trọng là phải đọc kỹ nhãn thuốc để tránh uống nhiều loại thuốc cùng chứa thành phần hoạt tính tương tự.
Những người có bệnh tim mạch, đặc biệt là những người gần đây đã có một cơn đau tim hoặc phẫu thuật tim, có nguy cơ lớn nhất đối với các tác dụng phụ tim mạch kết hợp với NSAID. Vì vậy, nếu bạn có bệnh tim hoặc tăng huyết áp cần nói cho bác sĩ biết trước khi sử một NSAID. Cân bằng lợi ích của NSAID với những rủi ro có thể để cân nhắc lựa chọn thuốc điều trị.
Trong quá trình sử dụng thuốc người bệnh cần biết phát hiện tác dụng phụ của thuốc để kịp thời báo cho các nhà chuyên môn biết để được xử lý kịp thời, thích hợp.
Đối với bác sĩ, cảnh giác đối với sự phát triển của các tác dụng phụ tim mạch trong suốt toàn bộ quá trình điều trị của bệnh nhân, ngay cả trong trường hợp không có triệu chứng tim mạch trước đó.


7 vitamin cần thiết bổ sung khi mang thai

Trong thời kỳ mang thai, để đảm bảo sức khỏe bà mẹ và sự phát triển của thai nhi, ngoài việc phải đảm bảo một chế độ dinh dưỡng tăng cường năng lượng, chất đạm, chất béo và chất khoáng, trong bữa ăn hằng ngày, thai phụ cần chú ý bổ sung một số vitamin cần thiết như sau:
Vitamin A: Phụ nữ mang thai bị thiếu vitamin A có nguy cơ sinh non hoặc sinh con thiếu cân. Đối với người phụ nữ có tình trạng dinh dưỡng tốt, chỉ cần tăng cường sử dụng các thức ăn nguồn động vật (thịt, cá, trứng, sữa) và các thức ăn giàu chất tiền vitamin A có trong các thức ăn rau lá màu xanh thẫm (rau ngót, rau muống, rau dền, rau bí...), quả chín có màu vàng, da cam như đu đủ, xoài, mít, hồng hoặc củ, quả có màu đỏ, vàng, da cam như cà chua, bí đỏ, khoai lang nghệ...7 vitamin cần thiết bổ sung khi mang thai
Cà chua chứa nhiều vitamin A.
Vitamin B1: Là yếu tố cần thiết để chuyển hoá gluxit. Các loại hạt cần dự trữ vitamin B1 cho quá trình nảy mầm do đó ngũ cốc và các hạt họ đậu là những nguồn vitamin B1 tốt. Ăn gạo không xay xát quá kỹ, và ăn nhiều đậu đỗ là cách tốt nhất bổ sung đủ vitamin B1 cho thai phụ và chống được bệnh tê phù.
Vitamin B2: Tham gia quá trình tạo máu. Nếu thiếu vitamin B2 sẽ gây thiếu máu nhược sắc, gây tổn thương ở da, niêm mạc miệng, mũi, chậm lớn, dễ sảy thai... Cần bổ sung vitamin B2 trong thức ăn từ động vật, sữa, các loại rau, đậu...
Vitamin B9 (acid folic hay folate): Rất cần thiết cho sự phát triển của bào thai, phòng tránh khuyết tật bẩm sinh nghiêm trọng cho thai nhi như dị tật ống thần kinh, giảm nguy cơ sảy thai, suy dinh dưỡng thai nhi,... Nguồn cung cấp axit folic là rau xanh, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt,...
Vitamin C: Có vai trò lớn tăng sức đề kháng của cơ thể, hỗ trợ hấp thu sắt phòng chống thiếu máu do thiếu sắt. Vitamin C có nhiều trong các loại rau xanh, quả chín như: chanh, cà chua, xoài, dâu, dứa, ớt đỏ, khoai lang, khoai tây, củ cải xanh...
7 vitamin cần thiết bổ sung khi mang thai
Ăn nhiều đậu đỗ là cách tốt nhất để bổ sung vitamin B1 cho thai phụ.
Vitamin D: Vitamin D góp phần vào sự hình thành hoàn chỉnh bộ xương thai nhi và củng cố xương của bà mẹ. Vitamin D có trong dầu cá, lòng đỏ trứng, bơ, gan các loại, sữa toàn phần, cá biển… Ánh nắng mặt trời cũng là nguồn vitamin D giúp da tổng hợp vitamin D3. Do đó, phụ nữ có thai nên có thời gian hoạt động ngoài trời càng nhiều càng tốt.
Vitamin E: Là một chất chống ôxy hóa, làm giảm tỷ lệ sảy thai hoặc sinh non do trung hòa hoặc làm mất hiệu lực của gốc tự do trong cơ thể. Vitamin E có rất nhiều trong các thực phẩm nguồn gốc thiên nhiên có nhiều chất béo như: đậu tương, giá đỗ, vừng, lạc, mầm lúa mạch, hạt hướng dương, dầu ô-liu. Vì vậy chỉ cần ăn nhiều dầu thực vật hoặc các thức ăn có nhiều vitamin E hàng ngày là đủ.



Thứ Hai, 20 tháng 7, 2015

Thuốc trị nhược giáp - dùng sao cho đúng?

Bệnh nhược giáp (hypothyroidism) nếu không được điều trị sẽ làm cơ thể luôn mệt mỏi, trầm cảm, tăng cân...

Rối loạn tinh thần, táo bón, khô da, rụng tóc, giảm ham muốn tình dục... cùng hàng loạt triệu chứng “dở khóc dở cười” khác.
Tuy nhiên, việc sử dụng các loại dược phẩm trị nhược giáp cần đúng cách, nếu không tác dụng của thuốc cũng như... “nước đổ đầu vịt”. Dưới đây là một số điều cần lưu ý khi sử dụng các loại dược phẩm trị nhược giáp:
- Không sử dụng thuốc trị nhược giáp 1 hoặc 2 giờ sau khi bạn đã uống calcium, caffeine hoặc các loại viên bổ sung sắt. Có nghĩa là nếu dùng thuốc trị nhược giáp buổi sáng, bạn không được uống cà phê, uống sữa trong vòng 1 hoặc 2 giờ. Cũng cần tránh các bữa ăn có thịt đỏ, nhất là thịt bò, vì chúng chứa nhiều chất sắt.
- Nên uống thuốc trị nhược giáp sau khi ăn ít nhất 2 giờ hoặc trước khi ăn 1 giờ. Nhiều bệnh nhân nhược giáp thường cài đồng hồ báo thức sớm hơn một tiếng so với giờ thức bình thường, khi nghe đồng hồ báo thức thì dậy uống thuốc với một ly nước đầy rồi ngủ tiếp, vì khi ấy dạ dày trống sẽ giúp thuốc hấp thu tốt hơn.
- Nên tránh dùng đậu nành và các sản phẩm được chế biến từ đậu nành vì đậu nành vô hiệu hóa tác động của đa số thuốc trị nhược giáp.
- Tránh dùng bưởi và dịch ép nước bưởi do bưởi có thể làm chậm quá trình chuyển hóa thuốc ở gan.
- Khi uống thuốc, cần uống một ly to đầy nước vì thuốc cần nhiều nước để hấp thu và phân bố tốt hơn trong cơ thể.
- Nhược giáp thường dẫn đến trầm cảm, vì vậy khi sử dụng một loại thuốc kháng trầm cảm cần có chỉ định của bác sĩ, phải báo cho bác sĩ biết bệnh nhân đang sử dụng thuốc trị nhược giáp, vì đa số thuốc kháng trầm cảm sẽ làm giảm hoặc mất tác dụng của các thuốc trị nhược giáp.
- Sử dụng thuốc vào một giờ cố định trong ngày, ví dụ hôm nay uống lúc 6g thì ngày mai nên uống vào đúng 6g.
- Không tùy tiện sử dụng các loại thực phẩm chức năng.
- Một số loại thuốc trị cảm, ho thông thường có thể làm mất tác dụng của các loại thuốc trị nhược giáp. Vì vậy không nên tự ý mua dùng, nên báo cho dược sĩ tại nhà thuốc khi bạn đang dùng thuốc trị nhược giáp.
- Thuốc trị nhược giáp dễ bị biến chất khi thay đổi nhiệt độ, vì vậy cần phải bảo quản thuốc ở nhiệt độ an toàn.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons