Thứ Hai, 20 tháng 7, 2015

Cảnh báo thuốc giảm cân, tăng cường tình dục chứa chất cấm

FDA (Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ) vừa có thông báo cảnh báo về một số sản phẩm thuốc giảm cân, tăng cường tình dục có chứa chất cấm lưu hành và khuyên người tiêu dùng không nên mua và sử dụng các sản phẩm này.

1. Thuốc giảm cân Slim-K
Phân tích trong phòng thí nghiệm, FDA cho biết, thuốc giảm cân Slim-K, chứa sibutramine và phenolphthalein.
Sibutramine là một chất đã bị loại bỏ khỏi thị trường từ tháng 10/2010 vì lý do an toàn. Sản phẩm này đặt ra một mối đe dọa cho người tiêu dùng vì sibutramine được biết đến như làm tăng đáng kể huyết áp và/hoặc nhịp tim ở một số bệnh nhân và nguy hiểm khi dùng cho những bệnh nhân có tiền sử bệnh động mạch vành, suy tim sung huyết, loạn nhịp tim, hoặc đột quỵ. Sản phẩm này cũng có thể tương tác với các thuốc chữa bệnh khác đe dọa tới tính mạng.
Còn Phenolphtalein là một chất hóa học không phải là một phần trong bất kỳ loại thuốc đã được phê duyệt tại Hoa Kỳ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nó có nguy cơ gây ung thư.
2. Thuốc giảm cân B-Lipo
Với B- Lipo, FDA cho biết, sản phẩm này có chứa lorcaserin, một chất bị kiểm soát và các thành phần hoạt chất trong thuốc theo đơn được FDA phê chuẩn, được sử dụng để kiểm soát cân nặng mãn tính ở một số người lớn thừa cân hoặc béo phì. Lorcaserin có thể gây rối loạn tâm thần, suy giảm sự tập trung hoặc trí nhớ. Ngoài ra, nếu dùng đồng thời lorsaserin với các thuốc điều trị trầm cảm, đau nửa đầu, có thể dẫn đến một sự tương tác thuốc đe dọa tính mạng.
3. Ba thuốc tăng cường tình dục Samurai-X, Zhansheng Weige Chaoyue Xilishi và Triple PowerZEN Gold
Ba thuốc này được rao bán trên các trang web khác nhau hoặc trong một số các cửa hàng bán lẻ. FDA phân tích trong phòng thí nghiệm và xác nhận ba sản phẩm trên có chứa sildenafil, một hoạt chất trong thuốc kê đơn được FDA phê chuẩn sử dụng để điều trị rối loạn cương dương (ED).
Thành phần này không được công bố trong sản phẩm có thể tương tác với các nitrat được tìm thấy trong một số loại thuốc theo toa như nitroglycerin và có thể làm giảm huyết áp đến mức nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm khi dùng ở người bị bệnh tiểu đường, huyết áp cao, cholesterol cao, bệnh tim...


Thuốc hỗ trợ phục hồi trí nhớ

Trí nhớ kém là một trong các triệu chứng điển hình thường gặp ở bệnh nhân tâm thần.

Vì vậy, phục hồi trí nhớ là một trong những phần quan trọng giúp bệnh nhân sớm hòa nhập cộng đồng. Sau đây là một số bệnh có triệu chứng trí nhớ kém thường gặp và những lưu ý khi dùng thuốc hỗ trợ phục hồi trí nhớ.
Trầm cảm
Quên (trí nhớ kém) trong trầm cảm là một triệu chứng gặp ở trên 90% số bệnh nhân bị trầm cảm, dù là trầm cảm mức độ nhẹ, vừa hay nặng. Quên ở rối loạn trầm cảm là quên trí nhớ gần (nghĩa là các sự vật, hiện tượng mới xảy ra), còn trí nhớ xa thì vẫn tương đối tốt. Vì thế, bệnh nhân hay bỏ đâu, quên đấy (vừa để chùm chìa khóa hoặc cái bút ở đâu mà không sao nhớ ra). 
Do trí nhớ gần bị tổn thương nên bệnh nhân hầu như không có khả năng tiếp thu các kiến thức mới, điều này thể hiện rất rõ ở kết quả học tập sút kém đột ngột ở bệnh nhân là học sinh, sinh viên. Họ bỏ đâu, quên đó, vừa dặn họ xong thì họ đã quên ngay. Bệnh nhân cao tuổi thì triệu chứng quên thể hiện rất trầm trọng. Họ tuy vẫn nhớ được tên, tuổi, quê quán của mình (trí nhớ xa), nhưng lại không nhớ nổi mình đã ăn sáng hay chưa và ăn cái gì. Để lấp vào khoảng trống về trí nhớ này, họ có thể bịa chuyện một cách không chủ ý (nhớ bịa). 
Vì vậy, nhiều khi con cháu trong gia đình bệnh nhân rất xấu hổ vì bệnh nhân than phiền với mọi người rằng "chúng nó không cho tôi ăn gì". Nhiều trường hợp bệnh nhân quên trầm trọng đến mức không nhớ đường về nhà, tình trạng này được gọi là mất trí giả (để phân biệt với các bệnh mất trí thật như Alzheimer).
​Suy yếu hoạt động các tế bào thần kinh gây trí nhớ kém.
​Suy yếu hoạt động các tế bào thần kinh gây trí nhớ kém.
Thuốc hỗ trợ phục hồi trí nhớ ở đây chính là các thuốc chống trầm cảm. Người ta khuyên dùng các thuốc chống trầm cảm thế hệ mới như sertraline, paroxetine, mirtazapine và venlafaxine vì chúng dung nạp tốt, ít tác dụng phụ, có thể điều trị lâu dài mà không sợ độc hại đến tim, gan, thận... 
Thông thường, sau 1 tháng đầu, trí nhớ của bệnh nhân phục hồi rất tốt cùng với các triệu chứng trầm cảm khác. Nhưng sau đó, trí nhớ phục hồi với tốc độ chậm hơn và phải sau 6 - 12 tháng thì trí nhớ mới bình phục hoàn toàn. Tập chép bài nhiều lần, đọc báo, xem tivi và sau đó kể lại những nội dung chính là phương pháp hỗ trợ luyện trí nhớ hiệu quả.
Lo âu lan tỏa
Quên trong lo âu lan tỏa cũng là quên trí nhớ gần. Quên ở đây có nguyên nhân là bệnh nhân không thể tập trung chú ý được vào một sự vật hiện tượng nào quá vài phút, do vậy họ không thể ghi nhớ được. Họ miêu tả rằng họ có trí nhớ "trống rỗng" hoặc đầu óc trống rỗng. Những bệnh nhân này luôn trong tình trạng lo lắng, căng thẳng quá mức và không thể kiểm soát được. Họ lo lắng cả với những lý do rất nhỏ như giá xăng tăng (hoặc giảm), con đi học về muộn mấy phút, lo mất điện luân phiên, lo mùa đông mưa dầm, giá thực phẩm biến động... 
Ngoài ra, bệnh nhân còn các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật khác như đánh trống ngực, mót đi tiểu, đầy bụng, dễ mệt, khó vào giấc ngủ, ra nhiều mồ hôi và có các cơn nóng bừng mặt hoặc lạnh buốt. Có thể nói, tình trạng căng thẳng, lo lắng và các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật đã lấy hết năng lượng của họ, khiến họ trở nên kiệt sức dù chỉ sau một cố gắng nhỏ để đọc sách, nghe giảng… Vì vậy, trí nhớ gần của họ cũng rất tồi tệ và kết quả học tập sút kém.
Về thuốc điều trị thì nên ưu tiên cho các thuốc chống trầm cảm là clomipramine và venlafaxine. Cần lưu ý phải tăng liều thuốc một cách từ từ vì bệnh nhân lo âu lan tỏa kém dung nạp với thuốc. Liều thuốc chữa lo âu lan tỏa cũng phải cao hơn liều thuốc chữa trầm cảm, thời gian đạt kết quả đến chậm (thường là sau 3 tháng). 
Để bệnh nhân nhanh hết lo âu, tạo điều kiện cho trí nhớ phục hồi tốt, các bác sĩ thường cho thêm benzodiazepin liều nhỏ trong tháng đầu điều trị. Các thuốc được khuyên dùng là rivotril và lexomil do chúng có hiệu quả chống lo âu cao và ít nguy cơ gây phụ thuộc thuốc.
Nghiện rượu
Rối loạn trí nhớ trong nghiện rượu là quên cả trí nhớ gần và trí nhớ xa. Lúc đầu, bệnh nhân mất trí nhớ gần, khi đã uống rượu lâu ngày (trên 10 năm), bệnh nhân mất cả trí nhớ xa. Nhiều bệnh nhân quên trong cơn say rượu, nghĩa là sau khi tỉnh rượu, họ không thể nhớ được những gì đã xảy ra vừa qua. 
Người ta nhận thấy, rượu có nhiều aldehyd gây rối loạn trí nhớ trầm trọng hơn rượu chứa ít chất này. Nếu rượu có chứa một tỷ lệ nhỏ methanol thì bệnh nhân có thể bị mất trí vĩnh viễn chỉ sau một lần uống rượu (lượng vừa phải) duy nhất.
Để phục hồi trí nhớ trong nghiện rượu thì việc cai nghiện rượu và chống tái nghiện rượu là rất quan trọng. Người ta hay dùng disulfiram (esperal) để phòng tái nghiện rượu. Bên cạnh đó, bệnh nhân cần được dùng vitamin B1 liều cao và piracetam liều cao. Hai thuốc này dùng càng sớm, càng tốt. Với các trường hợp mất trí do rượu (hội chứng Korsakov) thì dù có được điều trị kịp thời và tích cực, tỷ lệ phục hồi về trí nhớ của bệnh nhân chỉ là 40% sau 6 tháng.


Trẻ biếng ăn và thuốc

Có rất nhiều bậc cha mẹ khổ tâm vì chứng biếng ăn của trẻ. Mặc dù cha mẹ đưa cho thức ăn bổ dưỡng, trông rất ngon miệng, kèm theo lời dụ dỗ ngọt ngào hoặc lời đe đọa dữ dằn, trẻ vẫn không thèm ăn.
Nguyên nhân nào?
Có thể chia các nguyên nhân ra làm hai loại:
Thứ nhất là các nguyên nhân do ngoại cảnh. Thời tiết nóng bức mà chúng ta lại ủ trẻ quá kỹ, cho mặc quần áo không thoáng mát, trẻ không được mát mẻ thoải mái có thể đâm ra biếng ăn. Hoặc do có sự nuông chiều của các bậc cha mẹ. 
Nhiều trẻ biếng ăn chỉ vì cha mẹ chiều con quá, cứ cho ăn quà vặt luôn miệng, đến bữa ăn chính trẻ đầy bụng không thể nào nữa. Hay cha mẹ thương con quá, suốt ngày ẵm bé, không cho chúng hoạt động tiêu hao năng lượng nên trẻ không thấy thèm ăn. Trẻ chỉ ăn ngon miệng khi có sự vận động thích hợp.
Thứ hai là nguyên nhân chủ quan xuất phát từ trẻ. Đây là nguyên nhân chủ quan rất quan trọng. Trước tiên phải kể là cháu bị bệnh, có rất nhiều bệnh, từ nhẹ đến cảm cúm, viêm tai, viêm họng, lở miệng đến nặng như: sơ nhiễm lao, thiếu máu, thời kỳ ủ bệnh của một bệnh nhiễm khuẩn… có thể làm cho trẻ biếng ăn. 
Đương nhiên, nếu bị bệnh phải chữa hết bệnh mới khắc phục chứng biếng ăn. Kế tiếp nữa, trẻ biếng ăn có thể do chức năng tiêu hóa kém. Hiện tượng biếng ăn này có thể gặp ở thuộc lứa tuổi ăn dặm, hệ men tiêu hóa của trẻ kém, chưa được đầy đủ để giúp tiêu hóa tốt, thức ăn làm trẻ khó tiêu, đầy bụng sinh ra biếng ăn.
Nhiều trẻ biếng ăn chỉ vì cha mẹ chiều con quá, cứ cho ăn quà vặt luôn miệng
Nhiều trẻ biếng ăn chỉ vì cha mẹ chiều con quá, cứ cho ăn quà vặt luôn miệng
Nhưng nguyên nhân thường hay gặp làm cho trẻ biếng ăn chính là nguyên nhân tâm lý, có thể kể:
- Cha mẹ cho trẻ ăn thức ăn không hợp khẩu vị, không theo sở thích của trẻ. Trẻ biếng ăn chỉ vì không thích mùi vị hoặc ăn mãi thức ăn mà ta cho là bổ dưỡng có thể sinh chán ăn.
- Cha mẹ áp đặt một chế độ ăn uống quá nghiêm ngặt, khi ăn cứ bắt trẻ vào khuôn mẫu như: không được làm đổ, làm rớt thức ăn dơ quần áo, không được bỏ mứa… Xin lưu ý, trẻ ở lứa tuổi 2 - 4 thường có tâm lý phản kháng, sẽ không thèm ăn khi cha mẹ cứ luôn ép ăn hoặc bắt chúng vào khuôn mẫu.
Dùng thuốc gì?
Khi trẻ biếng ăn, nhiều bậc cha mẹ thường nghĩ đến sử dụng thuốc để giúp trẻ thèm ăn, ăn nhiều hơn. Một số thuốc có thể dùng cho trẻ, bên cạnh việc cải thiện các nguyên nhân gây ra biếng ăn đã kể ở trên, như sau:
Thuốc chứa các loại vitamin và khoáng chất: đây là thuốc có thể dùng cho trẻ nhằm bổ sung các loại vitamin và chất khoáng giúp chuyển hóa tốt các chất dinh dưỡng. Đặc biệt thuốc này có chứa thêm lysin là một acid amin (biệt dược: Nutroplex), hay thuốc chỉ chứa dibencozid là một dẫn chất của vitamin B12(biệt dược: Cobanzyme), được xem có tác dụng kích thích sự thèm ăn.
Thuốc chứa các loại men tiêu hóa: trẻ biếng ăn có thể do thiếu men tiêu hóa, đặc biệt ở trẻ lứa tuổi ăn dặm. Dùng thuốc loại này, các loại men tiêu hóa có trong thuốc như amylase (tiêu hóa chất đường bột), lipase (tiêu hóa mỡ), protease (tiêu hóa chất đạm) sẽ giúp trẻ tiêu hóa tốt, trẻ sẽ chóng đói và thèm ăn khi đến bữa. Đặc biệt, có loại thuốc nhỏ giọt và thêm vitamin nhóm B như thuốc Neopeptin khá thích hợp cho trẻ nhỏ.
Hai loại thuốc kể trên, các bậc cha mẹ có thể dùng cho trẻ thử xem có cải thiện được tình trạng biếng ăn ở trẻ. Việc sử dụng thuốc có thể hỏi dược sĩ ở nhà thuốc để được hướng dẫn.
Có một loại thuốc gọi là thuốc kích thích sự thèm ăn được dùng ở người lớn và cả trẻ con nhưng đòi hỏi phải có sự thận trọng đúng mực khi dùng trước đây, nay thì không nên dùng, đó là thuốc cyproheptadin (tên biệt dược: Peritol, Periactol, Periactin). Đây thật ra là thuốc kháng histamin chống dị ứng nhưng lại có thêm tác dụng kích thích sự thèm ăn tạm thời và có nhiều tác dụng phụ. 
Ta nên ghi nhớ: thuốc cyproheptadin không được dùng cho trẻ dưới 2 tuổi. Trẻ em dưới 2 tuổi tránh dùng cyproheptadin vì ngoài tác dụng kháng histamine chống dị ứng có ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương gây tình trạng ngầy ngật trong thời gian dài, thuốc còn có tác dụng kháng tiết cholin gây khô miệng, táo bón, nhìn mờ, khó tiểu tiện… 
Đối với trẻ lớn hơn có thể tạm dùng nhưng chỉ dùng tạm thời. Không được dùng kéo dài vì thuốc có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương, thể hiện ở chỗ là thuốc làm cho buồn ngủ, ngủ gà ngủ gật, nếu dùng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ của trẻ. Tác dụng gây thèm ăn của cyproheptadin chỉ xuất hiện trong thời gian dùng thuốc. 
Một khi ngừng thuốc có thể trẻ bị tác dụng ngược lại là ăn mất ngon và sụt cân trở lại. Thuốc cyproheptadin ngày nay cả thế giới không còn dùng để trị chứng chán ăn nữa (chỉ dùng trị rối loạn dị ứng).
Coi chừng thuốc có hại!
Đặc biệt có thuốc có tác dụng "làm cho ăn được, ngủ được, làm cho mập ra" nhưng tuyệt đối không dùng cho trẻ biếng ăn, đó là thuốc corticoid. Đây là nhóm thuốc có tên glucocorticoid nhưng thường gọi tắt là corticoid, gồm có dexamethason (thường gọi nôm na là "đề xa" hay thuốc "hột dưa"), prednison, prednisolon… 
Về phương diện chữa bệnh, corticoid là thuốc rất quý dùng để chống viêm, trị các bệnh xương khớp, các bệnh tự miễn, các bệnh dị ứng ngoài da và hệ hô hấp (biểu hiện là hen suyễn nặng), bệnh suy tuyến thượng thận, chứ không bao giờ được sử dụng thuốc trị biếng ăn, làm cho mập. 
Riêng đối với trẻ con, corticoid dùng bừa bãi có thể gây ra các tổn thương rất có hại và không hồi phục. Gần đây, các bà mẹ ở Hải Phòng truyền nhau mua thuốc corticoid để kích thích cho con thèm ăn, mau lớn; đây là việc làm hết sức tai hại cho trẻ.
Tóm lại, trẻ biếng ăn có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Thông thường là nguyên nhân tâm lý, đòi hỏi các bậc cha mẹ phải biết cách đối xử phù hợp với đặc điểm tâm lý của trẻ. Nếu có sự nghi ngờ, ta nên đưa trẻ đi khám để xem trẻ có bị bệnh gì không, đặc biệt là bệnh tiềm ẩn. Nếu muốn dùng thuốc gọi là trị biếng ăn nên lưu ý thuốc chỉ có tính phụ trợ tạm thời. 
Có thể dùng thuốc là các loại vitamin, chất khoáng là các men tiêu hóa. Cảnh giác không dùng thuốc kích thích sự thèm ăn là cyproheptadin, cũng như tuyệt đối không dùng thuốc corticoid để giúp trẻ thèm ăn mau lớn.


Dùng thuốc trị giun

Trẻ con thường bị nhiễm giun đũa, giun kim (lãi đũa, lãi kim) - lưu ý người lớn vẫn có thể bị nhiễm.

Người nhiễm giun đũa là do ăn phải rau sống hoặc thức ăn không bảo quản tốt có lẫn trứng có phôi của giun, còn trẻ con dễ bị giun kim vì chơi nghịch đất cát có lẫn trứng giun, hoặc gãi vùng hậu môn rồi đưa tay lên miệng để nuốt trứng giun. Người trồng màu, cà phê, trồng rẫy ở vùng không ngập nước và đi chân đất dễ bị nhiễm giun móc (do ấu trùng, tức là dạng chưa trưởng thành của giun chui qua da bàn chân xâm nhập).
Ở nước ta, bệnh giun sán là phổ biến vì nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm rất thuận lợi cho sự phát triển các loại ký sinh trùng này. Hơn nữa, dân ta chưa được thấm nhuần vấn đề vệ sinh công cộng và môi trường, nhiều người còn đi tiêu bừa bãi ra ngoại cảnh. Tỷ lệ nhiễm giun (đặc biệt giun đũa) khá cao, ở miền Bắc có nơi tỷ lệ nhiễm đến 86-98%, trung bình 70-85%, còn ở miền Nam có ít hơn khoảng 18-35%.
Thuốc trị giun là thuốc có tác dụng tẩy sạch hoặc làm giảm đáng kể số lượng giun ra khỏi đường tiêu hóa hoặc ra khỏi mô, cơ quan nào đó của cơ thể. Hiện nay có một số thuốc có hoạt phổ rộng, có tác dụng cùng lúc với nhiều loại giun khác nhau, nhưng cần lưu ý: Phải dùng đúng liều lượng, đủ thời gian và có khi lặp lại đợt khác để tránh tái nhiễm. 
Đặc biệt, việc điều trị phải kết hợp với phòng bệnh và cải tạo môi sinh để tránh tái nhiễm, bội nhiễm (vệ sinh cá nhân, rửa tay trước khi ăn, uống nước nấu chín, không ăn thịt cá sống, không dùng phân tươi mà phải ủ phân thật kỹ để bón rau, không đi tiêu bừa bãi, xây cầu tiêu đặt ống cống theo đúng tiêu chuẩn vệ sinh). 
Thuốc chỉ có tác dụng đối với giun trưởng thành, vì vậy nên uống thuốc hai đợt, đợt sau cách đợt trước 2-4 tuần để diệt trứng và ấu trùng còn sót lại. Nên lưu ý, đa số thuốc giun chống chỉ định đối với phụ nữ có thai và trẻ dưới 2 tuổi.
Có một số thuốc trước đây dùng nhiều nhưng nay không dùng nữa, đó là piperazin (sử dụng không tiện vì phải uống trong nhiều ngày liên tiếp), levamisol (không còn dùng trị giun vì có gây tai biến trầm trọng). Thuốc trị giun đang dùng phổ biến hiện nay gồm có: pyrantel pamoat và các thuốc có nhân hóa học chung là benzimidazol (được gọi là các dẫn chất benzimidazol) là mebendazol, albendazol. Thuốc đang được dùng nhiều nhất hiện nay là mebendazol.
Mebendazol là thuốc trị giun được ghi trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ năm năm 2005. Đây là thuốc có hoạt phổ rộng, tức là công hiệu trị cùng lúc các loại giun: giun kim, giun đũa, giun tóc, giun móc, tác động bằng cách ức chế, ngăn cản sự tiêu thụ chất dinh dưỡng của các loại giun. 
Nói một cách chi tiết hơn, mebendazol ức chế sự thành lập các ống tiểu quản trong cơ thể của giun (giun chỉ hoạt động bình thường nhờ có các ống tiểu quản này) nếu không có các ống tiểu quản, giun không tiêu thụ được đường glucose và chết đi. Theo một số tài liệu, mebendazol còn có tác dụng diệt trứng của giun đũa, giun tóc.
Mebendazol không độc nên liều dùng cho người lớn và trẻ em trên 2 tuổi là giống nhau, khi dùng thuốc không phải nhịn ăn hoặc uống kèm thuốc tẩy xổ giống như dùng các thuốc trị giun cổ điển trước đây. Thuốc tránh dùng cho phụ nữ có thai, đặc biệt ba tháng đầu thai kỳ.
Liều dùng: Uống 100mg 2 lần trong ngày (sáng và chiều), uống trong ba ngày. Hoặc uống một liều duy nhất 500mg để trị các loại giun. Nên uống liều lặp lại 2-4 tuần sau.
Albendazol trị hiệu quả các loại giun mà mebendazol trị được, ngoài ra albendazol còn trị được giun tóc và sán dây. Trị các loại giun: người lớn và trẻ trên 2 tuổi uống liều duy nhất 400mg.
Nên kiêng uống rượu trong thời gian 24 giờ sau khi dùng hai thuốc kể trên.



Lưu ý khi sử dụng các loại thuốc sát trùng ngoài da

Tuyệt đối không dùng thuốc đỏ cho những vết thương sâu vì nguy cơ các lượng chất độc mạnh của thuốc đỏ sẽ có khả năng đi vào máu gây ngộ độc.

 Cồn (alcool) có tác dụng làm đông vón lại các thành phần protein của vi khuẩn làm chúng bất hoạt và không còn khả năng dinh dưỡng, tăng trưởng hoặc sinh sản. Cồn 90o được sử dụng cho các trường hợp như sát trùng dụng cụ, bôi trên da trước khi tiêm chích... 
Tuy nhiên, qua thực nghiệm sử dụng chứng minh cho thấy cồn sát trùng cho các vết thương nên là cồn 70o (pha loãng từ cồn 90o với nước theo tỷ lệ) nhờ tính chất bốc hơi chậm hơn cũng như tính thấm của cồn vào các nơi nhiễm khuẩn sâu hơn so với cồn 90o. Các vết thương ngoài da khi tiếp xúc với cồn thường tạo cảm giác kích ứng (xót, rát..).
- Oxi già (eau oxygénée, dưỡng thủy, H2O2) có tác dụng oxy hóa hoặc hiện tượng đốt cháy hóa học các vi sinh vật nhờ nguồn oxy mới sinh (không phải oxy trong không khí) có trong chế phẩm. Trước khi sử dụng, cần kiểm tra sự hiện diện của oxy mới sinh này bằng cách đổ một ít chất lỏng ra và quan sát phải có bọt khí xuất hiện. 
Oxy già không gây kích ứng trên da khi sử dụng. Nếu chai thuốc không được đậy kín ngay sau khi dùng, dạng oxy mới sinh có hoạt tính sẽ chuyển thành khí oxy bình thường sẽ không còn tác dụng diệt khuẩn.
- Thuốc đỏ (mercurochrome) được dùng từ lâu nhờ tác dụng diệt khuẩn mạnh, cần lưu ý không được dùng thuốc đỏ cho những vết thương sâu vì nguy cơ các lượng chất độc mạnh của thuốc đỏ sẽ có khả năng đi vào máu gây ngộ độc.
- Thuốc tím (permanganate de potassium, KMnO4) diệt vi khuẩn nhờ tác dụng oxy hóa của dạng oxy mới sinh khi hòa thuốc tím vào nước. Thuốc tím phải được dùng ở dạng hạt tinh thể được hòa tan vào nước với lượng khoảng 1 gam (1 gói) trong 1 lít nước. Tương tự như oxy già, thuốc tím pha sẵn sẽ không có tác dụng diệt vi khuẩn nhất là khi dùng thuốc tím để rửa rau!
- Cồn Iod (teinture d'iode) thường dùng với nồng độ 5% cũng có tác dụng oxi hóa vi khuẩn, diệt nấm ngoài da. Tác dụng sát trùng, diệt nấm là do chất iod chứ không phải do cồn, độ cồn có trong công thức thường là thấp - chỉ giúp hòa tan iod. 
Cồn iod là một chất sát trùng mạnh có tính phá hủy các chất hữu cơ như da, quần áo, sách vở... vì vậy cần thận trọng khi sử dụng trên những vùng cần giữ thẩm mỹ như da mặt. Hiện nay iod còn được sử dụng ở dạng hữu cơ (betadine, povidone) không gây kích ứng da, được sử dụng an toàn trên các vùng niêm mạc khá nhạy cảm như trong miệng, âm đạo...


Cách dùng thuốc hạ sốt tại nhà đúng và an toàn

Có rất nhiều loại thuốc hạ sốt, tuy nhiên tùy từng trường hợp cụ thể để sử dụng và phải tuân theo các quy tắc chặt chẽ của thầy thuốc.

Lên cơn sốt cao sẽ làm rối loạn sinh lý của nhiều cơ quan, hệ thống, phải dùng thuốc hạ sốt. Đó là các yêu cầu cấp bách trong các tình huống gia đình. Tuy là loại thuốc thông thường có thể tự sử dụng nhưng đặc biệt cần lưu ý khi phải dùng thuốc cho trẻ nhỏ và người cao tuổi.
Chọn thuốc nào?
Trước hết, trong các thuốc cần chuẩn bị trong tủ thuốc gia đình, thuốc hạ sốt là thuốc đầu bảng bạn cần phải dự trữ. Có hai lý do: sốt là một phản ứng cấp tính dễ dàng gây ra biến chứng với trẻ em và người già. Vì thế chúng ta cần khẩn trương hạ sốt ngay khi có nguy cơ sốt sẽ lên quá cao. 
Lý do nữa đó là thuốc hạ sốt lại tương đối an toàn và dễ dùng, có thể tự dùng tại nhà mà ít khi gây ra những phản ứng đặc biệt nghiêm trọng. Nên bạn rất cần thiết chuẩn bị thuốc này sẵn sàng để dùng khi cần.
Thuốc hạ sốt trên thị trường rất nhiều loại với các dạng khác nhau. Câu hỏi đặt ra là chúng ta sẽ lựa chọn loại nào. Trong các tình huống thông thường, khuyên bạn nên chọn paracetamol (còn gọi là acetaminophen). Trên thị trường còn một loại thuốc hạ sốt nữa là aspirin nhưng loại này khó dùng hơn và có một số đối tượng chống chỉ định. Vì thế, tốt nhất bạn nên chọn paracetamol.
Ưu điểm của loại này: tác dụng nhanh, an toàn, ít có biến chứng, hiệu lực hạ sốt mạnh và dễ sử dụng.
Ðể dùng thuốc hạ sốt tại nhà đúng và an toàn 1
Nên chọn loại thuốc hạ sốt phù hợp với đối tượng sử dụng.
Cách mua
Khi mua thuốc, bạn thường được dược sĩ giới thiệu nhiều loại để bạn lựa chọn cho cùng một loại thuốc paracetamol. Chung quy lại có một số loại sau đây:
Loại paracetamol đơn thuần: Loại này chỉ có tác dụng hạ sốt và kháng viêm nhẹ, có tác dụng hạ sốt rất mạnh, thích hợp dùng hạ sốt cho trẻ bị sốt do mọc răng, sốt phát ban, sốt virut. Người bán thuốc hay gọi là efferalgan xanh.
Loại có kết hợp với codein: Loại này vừa có tác dụng hạ sốt, vừa có tác dụng chống đau đầu, thích hợp với người lớn bị sốt do bị nhiễm virut, sốt có kèm theo đau đầu, đau mỏi cơ khớp. Người bán thuốc hay gọi là effralgan đỏ.
Loại có kết hợp với chlorpheniramine: Loại này thích hợp với các loại sốt do cúm, do viêm họng, viêm đường hô hấp.
Thuốc hạ sốt dạng viên nén: thích hợp với người lớn và người già, loại dạng gói bột, viên đạn, cao dán thích hợp với trẻ em. Như vậy, tùy thuộc vào gia đình bạn có những thành viên nào mà chúng ta lựa chọn dạng thuốc dùng cho phù hợp.
Nếu nhà bạn chỉ toàn người lớn: bạn nên mua efferalgan xanh và đỏ. Tùy từng trường hợp mà dùng cho thích hợp. Dạng này bào chế với hàm lượng 500mg. Bạn có thể mua mỗi thứ 1 vỉ, gồm 4 viên.
Nếu nhà bạn có trẻ em: bạn nên mua thêm hai loại khác, bao gồm: thuốc dạng gói bột có hương vị cam, chanh, dâu... (hoặc cao dán) và dạng viên đạn. Khi trẻ có thể uống được thì pha gói cho trẻ uống. Ở dạng này thuốc sẽ được hấp thu tốt hơn, đỡ phải dùng liều cao hơn. Còn nếu trẻ sốt li bì, không uống được, hay nôn trớ, bạn có thể dùng cao dán hoặc dùng viên đạn nhét hậu môn. Dùng viên đạn là đơn giản nhất. 
Lưu ý, thuốc dùng cho trẻ em lúc này dùng theo dạng hàm lượng chi tiết cụ thể. Dạng gói bột được bào chế dưới hai hàm lượng: 80mg và 250mg. Dạng 80mg dùng cho trẻ em có cân nặng từ 5-12kg, tức là từ khi sinh đến khoảng 1 tuổi. Dạng 250mg dùng cho trẻ từ 13-50kg, tức là trẻ từ 2 - 15 tuổi.
Dạng viên đạn được bào chế với 3 hàm lượng: 80mg, 150mg và 300mg. Dạng 80mg dùng cho trẻ từ 4-6kg, tức là trẻ từ 1-5 tháng tuổi. Dạng 150mg dùng cho trẻ có cân nặng từ 7-12kg, tức là từ 6 tháng-1 tuổi. Dạng viên đạn 300mg dùng cho trẻ từ 13-24kg, tức là trẻ từ 2-9 tuổi.
Cách dùng
Cách dùng rất đơn giản nhưng phải tuân theo các quy tắc chặt chẽ như sau: Khi trong gia đình có người sốt từ 390C thì bạn đã có thể cho dùng thuốc hạ sốt. Với trẻ em khi sốt trên 38,50C thì bạn nên dùng ngay vì tốc độ sốt của trẻ đến 390C, 400C là rất nhanh. Đây là hai ngưỡng nhiệt độ nguy hiểm.
Thông thường, cách dùng đơn giản với cả người lớn và trẻ em. Với người lớn thì nên dùng liều 2-3 lần/ngày. Mỗi lần 1 viên. Với trẻ em thì nên dùng 3-4 lần/ngày. Mỗi lần dùng một gói hoặc một viên đạn. Không được dùng liên tiếp các liều trong vòng dưới 4 tiếng đồng hồ, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt.
Một số trường hợp đặc biệt đó là thuốc không có tác dụng hạ sốt. Vậy làm thế nào để nhận ra điều này. Trước khi uống thuốc, bạn đo nhiệt độ một lần, đo bằng nhiệt kế thủy ngân, sau đó cho uống thuốc. Nếu sau 30 phút nhiệt độ không giảm có thể cho uống tiếp liều thứ 2. Nếu lần này sốt vẫn không hạ, bạn cần cho đi viện ngay. Không dùng một ngày quá 6 liều quy định liên tiếp.
Các trường hợp cần phải cho đi viện: sốt kéo dài quá 3 ngày, sốt mà dùng thuốc không hạ sốt, sốt quá cao, 40-410C (vừa phải cho dùng thuốc vừa cho đi viện ngay) sốt, có dùng thuốc nhưng bị dị ứng.
Đặc biệt cần lưu ý không dùng thuốc nếu thấy dị ứng, không dùng thuốc với người bị bệnh viêm gan, trẻ em bị bệnh viêm gan vàng da do tắc mật. Các trường hợp này cấm dùng thuốc tại gia. Khi đó, có sốt, phải đưa đi bệnh viện và điều trị theo sự hướng dẫn của bác sĩ.



Thuốc nhỏ mũi naphazolin có gây ngộ độc?

Khi bị các triệu chứng của viêm mũi dị ứng như: chảy nước mũi, ngạt mũi, sổ mũi... người bệnh thường dùng thuốc nhỏ mũi hoặc xịt mũi với mong muốn giảm thật nhanh các triệu chứng này. Naphazolin là thành phần chính trong thuốc nhỏ mũi, xịt mũi có tác dụng giúp giảm tình trạng nghẹt mũi nhờ tác dụng làm co mạch. 
Thuốc được dùng để giảm triệu chứng và giảm sung huyết trong các trường hợp viêm mũi cấp hoặc mạn tính, viêm mũi xoang dị ứng, cảm lạnh... Khi nhỏ thuốc vào niêm mạc mũi, naphazolin làm co tại chỗ các tiểu động mạch đã bị giãn, giảm lưu lượng máu qua mũi và giảm sung huyết. Mũi hết ngạt và dễ thở tạm thời, sau đó thường bị ngạt mũi trở lại ở mức độ nhất định. Tác dụng co mạch đạt trong vòng 10 phút và kéo dài trong khoảng 2 - 6 giờ.
Do thuốc làm thông mũi nhanh, tình trạng ngạt mũi được cải thiện đáng kể nên dễ bị lạm dụng. Liều dùng thông thường của naphazolin là nhỏ 1 - 2 giọt hoặc xịt vào lỗ mũi, 3 - 6 giờ một lần. Không nên dùng nhiều lần và liên tục để tránh bị sung huyết nặng trở lại. Không dùng naphazolin cho trẻ dưới 7 tuổi. 
Người lớn và trẻ em trên 12 tuổi dùng dung dịch 0,05% hoặc 0,1%. Với trẻ dưới 7 tuổi, khi cần thiết, dùng dung dịch 0,025% theo chỉ định và theo dõi của thầy thuốc. Chỉ được dùng dung dịch 0,05% cho trẻ em dưới 12 tuổi khi có chỉ định và giám sát của thầy thuốc. Khi dùng thuốc nhỏ mũi liên tục 3 ngày không đỡ, người bệnh cần ngừng thuốc và đi khám bác sĩ.

Các triệu chứng ngộ độc cấp xảy ra khi dùng thuốc nhỏ mũi naphazolin là: chóng mặt, nhức đầu, vã mồ hôi, thần kinh bứt rứt, run rẩy, lơ mơ. Nếu nặng, trẻ có thể hôn mê, co giật và ức chế hô hấp như thở chậm, hoặc ngưng thở gây nguy hiểm đến tính mạng...



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons