Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

Vì sao dùng thuốc chống dị ứng mà vẫn ngứa?

Trong lúc bận rộn với công việc mà bị cảm giác ngứa râm ran trên da, bạn sẽ rất dễ phân tâm. Đặc biệt là khi chỗ ngứa ở sau lưng, nơi bạn không... với tay được.

Tiền mất, tật vẫn mang
Nhiều người đã tìm mua thuốc chống dị ứng, nhưng vấn đề vẫn không được giải quyết. Vì sao vậy? Thông thường, dị ứng là do cơ thể tiếp xúc với một số yếu tố, chẳng hạn qua đường hô hấp như mùi sơn còn mới, qua đường tiêu hóa như chất phụ gia trong thực phẩm, hay qua da như nước rửa chén… Nói cách khác, bệnh tấn công từ bên ngoài. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy...
Vì sao dùng thuốc chống dị ứng mà vẫn ngứa?
"Vì sao dùng thuốc chống dị ứng mà vẫn ngứa?" là câu hỏi được nhiều người quan tâm
Nguyên nhân gây ngứa
Chuyên gia ở ĐH Berkeley, California cho biết tình trạng ngứa ngáy, nhất là khi đổ mồ hôi vì trời nóng, sau khi tắm nước nóng, khi bực bội… thường không do dị ứng mà vì hai nguyên nhân khác.
Trước hết, nhiều trường hợp nay ngứa chỗ này mai nhột chỗ khác là hậu quả của tình trạng căng thẳng thần kinh (stress) kéo dài. Đó là lý do tại sao dấu hiệu ngứa trên mặt, trên lưng thường gặp ở người xin việc, sắp về hưu, chờ ly dị, đợi bản án tòa… 
Cũng chính vì thế mà thuốc chứa khoáng tố kẽm tuy không trực tiếp chống dị ứng, lại hữu hiệu. Trong nhiều trường hợp, tình trạng bệnh lý được cải thiện thấy rõ chỉ sau vài ngày dùng thuốc kẽm.
Dễ hiểu vì khoáng tố kẽm là nhân tố cần thiết để tuyến thượng thận có thể hoạt động một cách tối ưu. Người càng có cuộc sống căng thẳng càng mau thiếu hụt kẽm. Chất này lại không được dự trữ trong cơ thể như các khoáng tố vi lượng khác. 
Thiếu kẽm, vì thế, dễ xảy ra và kéo theo rối loạn dẫn truyền thần kinh. Khi đó ngứa ngáy trên mặt da không mời vẫn đến. Nếu không hiểu bệnh rồi điều trị theo định kiến thì tình trạng ngứa ngáy, dù có uống bao nhiều thuốc chống dị ứng, cũng bằng không,
Kế đến, theo thống kê còn nóng hổi của các hãng bảo hiểm y tế bên châu Âu, không dưới 2% dân số đang thường xuyên là nạn nhân của tình trạng dị ứng do chất sinh dị ứng (histamin), sản sinh ngay trong khung ruột. 
Hậu quả là người bệnh buồn nôn, ngứa ngáy toàn thân, thậm chí hen suyễn. Một số người bệnh do không tìm ra đúng nguyên nhân, bị chẩn đoán và điều trị nhầm nên uống đủ thuốc mà bệnh không thuyên giảm.
Các bác sĩ ở châu Âu từ lâu đã khuyến khích một số biện pháp nên áp dụng thường xuyên để giảm hàm lượng histamin trong khung ruột như:
Sữa chua có men tiêu hóa và vi sinh hữu ích như Bifidum, Acidobacillus.
Hoạt chất có công năng hút hơi trong khung ruột như Simethicon, Alverin.
Dược thảo có công năng nhuận trường như atisô.
Chất xơ trong rau cải để mượn tác dụng cơ học vừa kéo chất béo, vừa kéo độc chất ra ngoài.
Các bác sĩ ở châu Âu luôn khuyến cáo bệnh nhân nên đến thầy thuốc sớm nếu ghi nhận dấu hiệu ngứa ngáy ngoài da. Lý do rất đơn giản. Ngứa nói riêng và dị ứng nói chung là triệu chứng cho thấy hệ miễn dịch và hệ thần kinh giao cảm không còn hoạt động ăn khớp. 
Tình trạng dị ứng, nếu xảy ra quá thường, nếu càng lúc càng nặng, sớm muộn cũng là đòn bẩy của nhiều bệnh chứng nghiêm trọng khác; những căn bệnh có thể dự phòng nếu dấu hiệu dị ứng trước đó được điều trị đến nơi đến chốn, thay vì chỉ gãi ngứa ngoài da.
Dị ứng thường thể hiện qua triệu chứng ngứa. Nhưng điều đó không có nghĩa hễ ngứa là dị ứng. Nếu ngứa nhưng không do dị ứng thì giải pháp tất nhiên không thể là dùng thuốc chống dị ứng. 
Đừng quên thuốc chống dị ứng tác dụng bằng cách ức chế hoạt động của hệ miễn dịch, nghĩa là mở ngỏ cho nhiều căn bệnh khác, đặc biệt là bệnh bội nhiễm, nếu dùng thuốc lâu dài. Do đó, bệnh nào cũng thế, nếu dùng thuốc nhiều ngày nhưng vẫn như không thì phải nhanh chóng khám tìm rõ căn nguyên và đổi thuốc.



Trẻ dùng sai thuốc nhỏ mũi dễ bị xuất huyết não?

Dùng naphazolin quá liều có thể gây ức chế hệ thần kinh trung ương như hạ thân nhiệt, tim đập chậm, ra mồ hôi, buồn ngủ, co giật, hôn mê đặc biệt ở trẻ em.

Rẻ, dễ mua nên nhiều phụ huynh thường tự ý ra hàng thuốc mua thuốc nhỏ mũi cho con mà không lường trước được nhiều khả năng trẻ sẽ nguy kịch vì bị ngộ độc thuốc nhỏ mũi.
Mới đây, BV Nhi Đồng 2, TPHCM tiếp nhận bệnh nhi T.H.T.B (2 tuổi, ngụ quận Thủ Đức) bị ngộ độc thuốc nhỏ mũi. Bé B nhập viện trong tình trạng vã mồ hôi, cao huyết áp, nhịp tim nhanh, co mạch sau khi được bố nhỏ thuốc nhỏ mũi. Theo các bác sĩ, nếu không được điều trị kịp thời, bệnh nhi dễ bị xuất huyết não gây tử vong.

Trước đó cũng đã có nhiều bé đã nhập viện trong tình trạng bứt rứt, vật vã, thở nấc, nhịp tim chậm và không đều. Các bác sĩ cho biết, các cháu bé trên đều nhập viện trong tình trạng bị cao huyết áp, rối loạn nhịp tim do ngộ độc chất naphazolin, thành phần chính trong một loại thuốc nhỏ mũi của người lớn.

BS Nguyễn Thị Minh - Khoa Nội Tổng hợp (BV Nhi Đồng 2) cho biết, naphazolin có tác dụng làm co mạch tại chỗ nhanh và kéo dài, giảm sưng và sung huyết niêm mạc. Sau khi nhỏ dung dịch naphazolin tác dụng co mạch đạt trong vòng 10 phút và kéo dài khoảng 2 – 6 giờ.

Khi sử dụng, không được dùng naphazolin liên tục quá 3 ngày. Ngộ độc do quá liều (khi dùng tại chỗ liều quá cao hoặc uống nhầm) có thể gây ức chế hệ thần kinh trung ương như hạ thân nhiệt, tim đập chậm, ra mồ hôi, buồn ngủ, co giật, hôn mê đặc biệt ở trẻ em.

Sau khi nhỏ mũi thì chỉ với một khoảng thời gian ngắn (30 phút – 2 giờ) trẻ sẽ xuất hiện các biểu hiện như tay chân lạnh, vã mồ hôi, trẻ lừ đừ, thở yếu thậm chí có thể dẫn đến hôn mê. Những dấu hiệu nặng của tình trạng này là nhịp tim không đều, ngưng thở từng cơn.

Theo các bác sĩ, các trường hợp ngộ độc thuốc nhỏ mũi khá nhiều, thường rơi vào những trẻ dưới 3 tuổi (chiếm 90%) do nhỏ quá liều và không đúng chỉ định. Sau nhiều tai nạn đáng tiếc đã xảy ra dường như các bậc cha mẹ vẫn còn mắc sai lầm trong việc sử dụng loại thuốc này.

Về mặt giải phẫu và sinh lý, đường thở của trẻ nhỏ rất dễ bị kích ứng, sung huyết khi nhiệt độ thay đổi đột ngột, đặc biệt là khi chuyển mùa. Khi bị nghẹt mũi, trẻ sẽ khó bú, khó ngủ và quấy khóc.

Những lúc như thế, phần vì thương con, phần vì nôn nóng các bậc cha mẹ thường tự ý dùng các loại thuốc nhỏ mũi cho trẻ mà không hiểu hết về thành phần cũng như tác dụng của thuốc.
Thuốc được dùng phổ biến là naphazolin với khá nhiều tên thương mại như Rhinex, Rhinazin, Nasoline... với hàm lượng 0,025%, 0,05%, 0,1% . Thuốc có giá thành rẻ, dễ mua ở hầu hết các nhà thuốc và nhanh chóng làm giảm triệu chứng nghẹt mũi khi mới sử dụng.

Để tránh nguy hiểm, không nên dùng thuốc cho trẻ em dưới 6 tuổi. Đối với người lớn và trẻ em trên 12 tuổi nếu có chỉ định có thể dùng dung dịch 0,05% hoặc 0,1%. Trẻ em 6-12 tuổi, dùng dung dịch 0,025% hoặc 0,05% theo chỉ định và dưới sự theo dõi của thầy thuốc.

Ngoài việc không sử dụng thuốc nhỏ mũi của người lớn cho trẻ, ngay cả thuốc nhỏ mũi của trẻ cũng được khuyến cáo chỉ nên dùng trong thời gian vài ngày theo chỉ định của bác sĩ. Các bậc cha mẹ không tự ý mua thuốc nhỏ mũi cho con và cũng không được sử dụng dài ngày một loại thuốc nhỏ mũi vì sẽ khiến các bệnh về mũi của trẻ tăng nặng.

Nếu trẻ sổ mũi, ngạt mũi, có thể dùng nước muối sinh lý để vệ sinh mũi cho trẻ, có tác dụng làm ẩm niêm mạc mũi trong trường hợp không khí khô và ô nhiễm, làm long đờm, loãng đờm khi mũi bị viêm. Sử dụng nước muối để vệ sinh mũi rất an toàn, không có tác dụng phụ.

Ngoài ra, cũng có thể sử dụng khăn giấy mềm, dai làm bấc sâu kén đặt vào hốc mũi của trẻ để thấm ướt dịch mũi, sau đó lấy ra và đặt lại một bấc sạch. Lập lại các bước này cho đến khi sạch mũi.



Ðể thuốc phát huy hiệu quả cao nhất

Từ lâu, người ta thường chọn lựa thời điểm dùng thuốc thích hợp dựa vào các bữa ăn (ngay, gần hoặc xa bữa ăn) tùy vào sự tương tác của thuốc với thức ăn và đồ uống.

Vì, thức ăn và đồ uống nếu được dùng chung cùng với thuốc sẽ ảnh hưởng làm thay đổi mức độ hấp thu, phân bố, chuyển hóa và thải trừ của thuốc, do đó làm thay đổi tác dụng và cả độc tính đối với thuốc, gây ra những tương tác bất lợi. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có nhiều thuốc không ảnh hưởng bởi thực phẩm, muốn uống lúc nào cũng được.


Cần biết rõ thời điểm uống thuốc để phát huy hiệu quả và tránh tương tác bất lợi.


Trước hết, thức ăn thức uống có thể làm thay đổi mức độ hấp thu của thuốc đưa đến thuốc có tác dụng nhanh hay chậm. Nếu uống thuốc vào lúc đói (trước khi ăn 1h chẳng hạn) thời gian lưu thuốc tại dạ dày chỉ trong vòng vài chục phút rồi xuống ruột giúp thuốc được hấp thu khá nhanh. Trái lại, nếu thuốc uống ngay sau bữa ăn, thời gian lưu thuốc tại dạ dày sẽ lâu hơn, từ 1- 4h làm ảnh hưởng đến sinh khả dụng của thuốc, tức thuốc được hấp thu chậm và kém, đưa đến thuốc cho tác dụng chậm.

Dựa vào bữa ăn, có thể chia thuốc uống ra làm 4 loại: loại nên uống vào lúc bụng no, loại uống vào lúc bụng đói, loại nên uống cùng với bữa ăn và loại uống tùy thuộc vào tính chất của từng loại thuốc.

Thuốc nên uống vào lúc bụng no (tức uống ngay sau khi ăn)

Một số kháng sinh kém bền với môi trường acid như ampicillin, erythromycin, lincomycin... nên uống vào lúc bụng no (nhờ thức ăn trung hòa acid ở dạ dày); nếu uống vào lúc bụng đói làm tăng khả năng phân hủy thuốc do môi trường có nhiều acid tại dạ dày. Aspirin và các thuốc chống viêm không steroid (như diclofenac, ibuprofen...) nếu dùng dạng không bao bảo vệ niêm mạc dạ dày thì nên uống vào lúc bụng no để không hại dạ dày.

Thuốc nên uống vào lúc bụng đói (tức uống trước khi ăn 1h hoặc sau khi ăn 1-2h)

Có khá nhiều thuốc kháng sinh nên uống vào lúc bụng đói vì giúp hấp thu thuốc vào máu nhanh hơn để thuốc sớm cho tác dụng điều trị. Còn thuốc được bào chế dạng bao tan ở ruột (như aspirin pH8) hay dạng phóng thích dược chất kéo dài (như adalate LP) nên uống vào lúc bụng đói, tức để thuốc được đưa xuống ruột nhanh giúp màng bao viên thuốc không bị vỡ gây ảnh hưởng đến tác dụng thuốc.

Thuốc nên uống cùng với bữa ăn

Các thuốc tan nhiều trong dầu mỡ như vitamin A, D, E, K, kháng sinh kháng nấm griseofulvin nên uống cùng bữa ăn (ngay trước hoặc ngay sau cũng được) để nhờ chất béo của thức ăn thức uống giúp thuốc hấp thu tốt hơn. Thuốc trợ tiêu hóa bổ sung enzym tiêu hóa pancreatin (festal, neopeptine...) cũng nên uống cùng với bữa ăn (hoặc trước khi ăn 5-10 phút) để giúp tiêu hóa thức ăn tốt hơn.

Thuốc uống lúc nào tùy thuộc vào tính chất của từng loại thuốc

Vì mỗi loại thuốc có bản chất khác nhau nên không có quy luật chung về uống thuốc vào lúc nào cho tất cả các loại thuốc. Cũng như không có tài liệu nào trình bày đầy đủ cách uống thuốc cho mọi loại thuốc. Mà cách dùng thuốc lúc nào sẽ tùy vào sự hiểu biết về dược động học, dược lực học của từng loại thuốc cụ thể mà được áp dụng (thông thường bản hướng dẫn sử dụng thuốc có đề cập nhưng có khi không nói đến).

Ví dụ thứ nhất cho thấy uống thuốc lúc nào tùy thuộc vào tác dụng của thuốc như domperidon (motilium-M) là thuốc có tác dụng kích thích nhu động của dạ dày, làm tăng trương lực cơ thắt tâm vị và làm tăng biên độ mở rộng của cơ thắt môn vị sau bữa ăn; cho nên, domperidon được dùng trị chứng khó tiêu đầy bụng, no lâu do thức ăn chậm xuống ruột.


Cần uống thuốc domperidon 15 - 30 phút trước bữa ăn nhằm cho thuốc có đủ thời gian hấp thu vào máu cho tác dụng trị chứng khó tiêu do dạ dày hoạt động không tốt. Bởi vì sau khi uống doperidom khoảng 30 phút thì thuốc mới vào được trong máu và đạt được nồng độ đỉnh trong huyết tương, tức khi đó thuốc mới cho tác dụng tốt nhất.


Nếu ta uống thuốc sau bữa ăn và thời gian uống sau bữa ăn lại quá dài, domperidon không kịp phát huy tác dụng trị chứng khó tiêu đã phát sinh.

Ví dụ thứ hai cho thấy uống thuốc lúc nào không chỉ tùy thuộc vào tác dụng của thuốc mà còn tùy thuộc vào tác dụng phụ có hại của thuốc là glimepirid là thuốc trị đái tháo đường tuýp 2 (ĐTĐ2) theo cơ chế kích thích tế bào bêta của tuyến tụy tiết insulin để giúp hạ đường huyết nếu có sự tăng đường huyết.


Đối với người bệnh ĐTĐ2, thời điểm tăng đường huyết dễ xảy ra sau bữa ăn. Vì vậy, nên uống thuốc glimepirid ngay trước bữa ăn sáng hoặc bữa ăn chính đầu tiên trong ngày (có tài liệu ghi uống vào bữa ăn thì cũng tương tự).


Uống ngay trước bữa ăn để glimepirid có thời gian cho tác dụng đúng lúc đường huyết bắt đầu tăng do bữa ăn.


Còn metformin cũng là thuốc trị ĐTĐ2 nhưng nên uống metformin sau bữa ăn (không như glimepirid nên uống trước bữa ăn) vì metformin có tác dụng phụ gây rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy), nếu uống bụng trống dễ bị rối loạn tiêu hóa hơn (uống trước bữa ăn do bụng đói dễ bị nôn hơn).

Tóm lại, để biết lúc nào uống thuốc tốt nhất, người sử dụng thuốc nên tham khảo thông tin bằng cách hỏi bác sĩ chỉ định thuốc, dược sĩ nơi mua thuốc, nhất là đọc kỹ bản hướng dẫn sử dụng thuốc. Nếu có yêu cầu về thời điểm đặc biệt dùng thuốc, bạn sẽ được hướng dẫn, còn nếu không thì uống thuốc lúc nào cũng được.



Axit folic giảm nguy cơ mắc chứng tự kỷ

Nghiên cứu với 85.000 trẻ em ra đời từ 2002 - 2008 cho thấy các rối loạn phổ tự kỷ xuất hiện ở 10% trẻ có mẹ bổ sung axit folic, 21% trẻ có mẹ không bổ sung axit folic.

Axit folic giảm nguy cơ mắc chứng tự kỷ



Trẻ sử dụng nhiều kháng sinh trước 2 tuổi dễ béo phì

Các nhà nghiên cứu đã xem xét hồ sơ sức khỏe của hơn 64.500 trẻ em Mỹ trong 12 năm từ 2001 đến 2013. Những đứa trẻ được theo dõi cho đến khi 5 tuổi. Gần 70% trong số này đã dùng thuốc kháng sinh trước 2 tuổi.
Kết quả cho thấy những trẻ đã được điều trị kháng sinh trên 4 lần trong 2 năm đầu đời có nguy cơ béo phì cao hơn 10% so với những trẻ còn lại. Ngoài ra, những trẻ 2-4 tuổi sử dụng nhiều kháng sinh cũng có nguy cơ béo phì và thừa cân cao hơn.
Ảnh minh họa: BBC
Trẻ dưới 2 tuổi nếu được điều trị bằng thuốc kháng sinh quá sớm sẽ có nhiều nguy cơ bị béo phì sau này. Ảnh minh họa: BBC.
Theo các nhà nghiên cứu, thuốc kháng sinh không thích hợp có thể tác động tiêu cực đến sự phát triển trẻ. Ở những trẻ sử dụng kháng sinh phổ rộng (loại kháng sinh có tác dụng mạnh với nhiều loại vi khuẩn),khả năng béo phì là rất cao. Trong khi đó, những trẻ được điều trị bằng kháng sinh phổ hẹp (loại kháng sinh chỉ tác động với một số vi khuẩn nhất định) ít có nguy cơ gặp các vấn đề về cân nặng sau này.
Kháng sinh phổ rộng - bao gồm amoxicillin, tetracycline, streptomycin, moxifloxacin và ciprofloxacin - được dùng để điều trị nhiễm trùng, trong trường hợp các vi khuẩn gây bệnh chưa được xác định, hoặc trong trường hợp một bệnh nhân đang bị tấn công bởi một chủng các vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh.
GS Charles Bailey tại Đại học Pennsylvania cho biết khi dùng nhiều kháng sinh quá sớm, một số vi khuẩn trong đường ruột có lợi trong việc phân tầng trọng lượng đi đúng hướng có thể bị giết chết.
Các chuyên gia khuyến cáo phụ huynh và bác sĩ nhi khoa cần cân nhắc và thận trọng khi sử dụng kháng sinh cho trẻ. Nên hạn chế sử dụng kháng sinh phổ rộng và ưu tiên kháng sinh phổ hẹp trong điều trị bệnh.



Nên ăn gì khi đang uống thuốc kháng sinh?

Nếu phải uống thuốc kháng sinh, bạn cần ăn các loại thực phẩm giàu probiotics và prebiotics bởi sự gắn kết hoàn hảo giữa chúng trong đường ruột.

Hiện nay hầu hết mọi người đã trở thành người ăn ở quá sạch và luôn bị ám ảnh chỗ nào cũng tồn tại vi khuẩn. Bếp và phòng tắm luôn được chúng ta cọ rửa bằng đủ các loại hóa chất để diệt vi khuẩn mà không biết rằng vi khuẩn nhiềuhơn chúng ta hàng tỉ lần.
Số lượng vi khuẩn trong cơ thể đông gấp 10 lần tế bào. Có hơn 500 loài vi khuẩn khác nhau tồn tại ở đường tiêu hóa của mỗi người. Tuy nhiên, cũng không phải vì thế mà chúng ta vội hoảng sợ. Bởi vì, bên cạnh một số những sinh vật có hại, còn có nhiều lợi khuẩn bảo vệ chúng ta.
Nên ăn gì khi đang uống thuốc kháng sinh?
Trong đường ruột, Probiotics là các vi khuẩn sống có lợi cho đường ruột, tạo thành hệ vi sinh vật trong đường ruột, có chức năng hỗ trợ quá trình tiêu hóa của ruột. Các sản phẩm chứa Probiotics giúp đào thải các vi sinh vật gây hại, hỗ trợ kích thích quá trình tiêu hóa, trung hòa các độc tố được tạo ra trong quá trình tiêu hóa thức ăn cũng như tổng hợp các vitamin.
Nguồn thức ăn cho Probiotics chính là Prebiotis. Prebiotis tạo điều kiện cho lợi khuẩn phát triển mạnh mẽ và cải thiện hệ tiêu hóa của cơ thể. Prebiotics nuôi dưỡng vi khuẩn ở ruột già và làm gia tăng hoạt động của chúng ở đây.
Nên ăn gì khi đang uống thuốc kháng sinh?
Tuy nhiên, Probiotics luôn bị tiêu diệt do dùng thuốc kháng sinh bởi vì "các chiến binh diệt khuẩn" không thể phân biệt được đâu là vi khuẩn có lợi và đâu là vi khuẩn có hại. Các lợi khuẩn sinh học cho hệ tiêu hóa này ngoài ra còn có tác dụng tăng cường hệ thống miễn dịch, kháng viêm, chống nhiễm trùng, tiêu chảy, chống nấm men, hội chứng ruột kích thích, giúp duy trì Ph đường ruột và tổng hợp vitamin K, B12 , B5 và biotin.
Nguồn phổ biến nhất cung cấp chế phẩm sinh học là các sản phẩm được lên men nhưsữa chua, rượu kefir và pho mát chín, hoặc các chế phẩm dạng sữa làm từ gạo, đậu nành và nước cốt dừa. Các loại thực phẩm lên men khác như dưa cải bắp, dưa chua, Kombucha, miso, và men bia cũng chứa men vi sinh và các lợi khuẩn khác.
Prebiotics - thuật ngữ khá mới và là dạng đặc biệt của chất xơ được tìm thấy trong nhiều loại trái cây và rau quả.
Những sợi xơ này không bị tiêu hóa ở dạ dày và ruột non, chính vì vậy khi xuống ruột già, nơi có rất nhiều lợi khuẩn, chúng trở thành lương thực cho các chế phẩm sinh học có lợi.
Nên ăn gì khi đang uống thuốc kháng sinh?
Các nguồn giàu prebiotics trong tự nhiên là rau diếp xoăn, táo, măng tây, cà chua, hành tây, tỏi, chuối, ngũ cốc nguyên hạt, các loại đậu… Prebiotics là công cụ giúp nhu động ruột hoạt động đều ​​đặn, chống được táo bón và tiêu chảy. 
Nó đặc biệt hữu ích trong việc đối phó với một số rối loạn tiêu hóa mạn tính như bệnh viêm ruột. Prebiotics giúp trái tim khỏe mạnh, với khuyến nghị liều dùng hàng ngày là 25 gram góp phần làm giảm 50% lượng cholesterol có hại và tăng cholesterol có lợi.
Nếu phải uống thuốc kháng sinh, bạn cần ăn các loại thực phẩm giàu probiotics và prebiotics bởi sự gắn kết hoàn hảo giữa chúng trong đường ruột.



5 nguyên tắc cần tuyệt đối tuân thủ khi dùng thuốc

Thuốc giúp chúng ta phòng ngừa và chữa trị được nhiều bệnh. Tuy nhiên nếu không sử dụng hay bảo quản đúng cách thuốc sẽ mất tác dụng và gây ra những hậu quả khôn lường.

(Khỏe +)Nên sử dụng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ
Thuốc có tới hàng chục, hàng trăm dạng thức và công dụng khác nhau. Hầu hết trong mỗi gia đình đều có một tủ thuốc riêng, tuy nhiên do thiếu hiểu biết về cách sử dụng chúng mà chúng ta vô tình làm mất tác dụng hoặc có thể gây ra những phản ứng hóa học giữa các loại thuốc và tạo sự tương tác không mong đợi.
Dược sĩ Nguyễn Bá Huy Cường cho hay: mới đây, cómột bệnh nhân cao niên vừa xuất viện sau một cơn đau thắt ngực nghiêm trọng. Khi dược sĩ hỏi về bệnh tình thì được biết ông vẫn uống thuốc đều đặn và đúng giờ như bác sĩ đã chỉ dẫn. 
Hỏi thêm một hồi thì các dược sĩ phát hiện ông đã cất thuốc trị đau thắt ngực là viên nén nitroglycerin trong một cái lọ quên đậy nắp và đặt ở cửa sổ nhà bếp. Thì ra, bệnh nhân đã không biết rằng loại thuốc này sẽ bị ánh sáng mặt trời hủy tác dụng.
Có một vài điều cần tuân thủ nghiêm ngặt khi sử dụng thuốc để tránh gây ra những hậu quả đáng tiếc bạn cần phải thực hiện. Dưới đây là 5 điều cần biết khi sử dụng thuốc, bạn có thể tham khảo để chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình được tốt nhất.
1. Đừng bao giờ để dược phẩm trong những tủ đựng kem đánh răng, dầu gội đầu trong nhà tắm vì hơi nước từ vòi nước nóng hoặc bồn nước nóng sẽ hủy hoại thuốc hoặc làm giảm tác dụng của thuốc. Nên để thuốc ở phòng khô ráo, nhiệt độ trong khoảng 15oC-30oC và tránh xa ánh sáng chiếu trực tiếp. Tốt nhất, mỗi nhà nên có một tủ thuốc gia đình đặt ở nơi thích hợp.
Lọ thuốc khi sử dụng xong phải đậy nắp chặt (nhưng không quá chặt vì người cao tuổi sẽ gặp khó khăn khi mở). Vì vậy, cần yêu cầu dược sĩ cung cấp một loại chai lọ thích hợp có dán đầy đủ thông tin, cách sử dụng để những người cao tuổi mở được dễ dàng. Lọ thuốc này thuận lợi cho nhóm bệnh nhân lớn tuổi nhưng cũng phải bảo đảm rằng trẻ em không dễ dàng mở chúng. Cần xem kỹ nhãn thuốc hoặc hỏi dược sĩ cung cấp thuốc có cần thêm điều kiện bảo quản đặc biệt nào nữa không.
2. Cần lưu ý những loại dược phẩm nào nên để trong tủ lạnh (thường gặp ở các chế phẩm kháng sinh dạng lỏng). Không nên để ở ngăn đá vì sẽ làm đông các chế phẩm dạng này mà chỉ được để ở ngăn lạnh. Khi để ở ngăn lạnh một thời gian, lúc lấy ra thì chế phẩm hơi đặc, có thể gây khó khăn cho việc lấy thuốc ra khỏi lọ nên cần lắc mạnh hoặc đặt đáy lọ thuốc vào một chén nước ấm.
3. Cần giữ thuốc trong lọ ban đầu của nó. Đã có nhiều trường hợp uống nhầm thuốc khi loại thuốc này bỏ vào lọ chứa thuốc khác. Cũng không nên bỏ chung nhiều loại thuốc trong cùng một lọ vì có thể gây ra những phản ứng hóa học giữa chúng và tạo sự tương tác không mong đợi. Người sử dụng cũng sẽ có thể uống nhầm thuốc khi đựng nhiều loại thuốc trong cùng một lọ.
4. Khi được kê một loại kháng sinh, cần tuân thủ liều lượng và uống cho hết thời gian trị liệu, không được ngưng thuốc giữa chừng khi cảm thấy mình hồi phục. Không nên lưu trữ thuốc cho lần bệnh sau vì nó có thể đã hết hạn sử dụng hoặc không phải chữa cho những bệnh của lần trước (dù rằng những bệnh này có chung triệu chứng).
5. Khi đi công tác hoặc du lịch, phải mang theo thuốc thì cần để trong hành lý xách tay vì nếu để chung với hành lý ký gửi sẽ khiến thuốc bị giảm hoặc mất tác dụng do nhiệt độ rất cao trong khoang hành lý. Chưa kể trường hợp hành lý bị thất lạc, việc sử dụng thuốc sẽ gặp nhiều trở ngại. Đối với những loại thuốc có yêu cầu giữ lạnh, nên hỏi tiếp viên những thiết bị giữ lạnh và cách sử dụng để có thể giữ thuốc trong suốt quá trình di chuyển.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons