Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

5 nguyên tắc cần tuyệt đối tuân thủ khi dùng thuốc

Thuốc giúp chúng ta phòng ngừa và chữa trị được nhiều bệnh. Tuy nhiên nếu không sử dụng hay bảo quản đúng cách thuốc sẽ mất tác dụng và gây ra những hậu quả khôn lường.

(Khỏe +)Nên sử dụng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ
Thuốc có tới hàng chục, hàng trăm dạng thức và công dụng khác nhau. Hầu hết trong mỗi gia đình đều có một tủ thuốc riêng, tuy nhiên do thiếu hiểu biết về cách sử dụng chúng mà chúng ta vô tình làm mất tác dụng hoặc có thể gây ra những phản ứng hóa học giữa các loại thuốc và tạo sự tương tác không mong đợi.
Dược sĩ Nguyễn Bá Huy Cường cho hay: mới đây, cómột bệnh nhân cao niên vừa xuất viện sau một cơn đau thắt ngực nghiêm trọng. Khi dược sĩ hỏi về bệnh tình thì được biết ông vẫn uống thuốc đều đặn và đúng giờ như bác sĩ đã chỉ dẫn. 
Hỏi thêm một hồi thì các dược sĩ phát hiện ông đã cất thuốc trị đau thắt ngực là viên nén nitroglycerin trong một cái lọ quên đậy nắp và đặt ở cửa sổ nhà bếp. Thì ra, bệnh nhân đã không biết rằng loại thuốc này sẽ bị ánh sáng mặt trời hủy tác dụng.
Có một vài điều cần tuân thủ nghiêm ngặt khi sử dụng thuốc để tránh gây ra những hậu quả đáng tiếc bạn cần phải thực hiện. Dưới đây là 5 điều cần biết khi sử dụng thuốc, bạn có thể tham khảo để chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình được tốt nhất.
1. Đừng bao giờ để dược phẩm trong những tủ đựng kem đánh răng, dầu gội đầu trong nhà tắm vì hơi nước từ vòi nước nóng hoặc bồn nước nóng sẽ hủy hoại thuốc hoặc làm giảm tác dụng của thuốc. Nên để thuốc ở phòng khô ráo, nhiệt độ trong khoảng 15oC-30oC và tránh xa ánh sáng chiếu trực tiếp. Tốt nhất, mỗi nhà nên có một tủ thuốc gia đình đặt ở nơi thích hợp.
Lọ thuốc khi sử dụng xong phải đậy nắp chặt (nhưng không quá chặt vì người cao tuổi sẽ gặp khó khăn khi mở). Vì vậy, cần yêu cầu dược sĩ cung cấp một loại chai lọ thích hợp có dán đầy đủ thông tin, cách sử dụng để những người cao tuổi mở được dễ dàng. Lọ thuốc này thuận lợi cho nhóm bệnh nhân lớn tuổi nhưng cũng phải bảo đảm rằng trẻ em không dễ dàng mở chúng. Cần xem kỹ nhãn thuốc hoặc hỏi dược sĩ cung cấp thuốc có cần thêm điều kiện bảo quản đặc biệt nào nữa không.
2. Cần lưu ý những loại dược phẩm nào nên để trong tủ lạnh (thường gặp ở các chế phẩm kháng sinh dạng lỏng). Không nên để ở ngăn đá vì sẽ làm đông các chế phẩm dạng này mà chỉ được để ở ngăn lạnh. Khi để ở ngăn lạnh một thời gian, lúc lấy ra thì chế phẩm hơi đặc, có thể gây khó khăn cho việc lấy thuốc ra khỏi lọ nên cần lắc mạnh hoặc đặt đáy lọ thuốc vào một chén nước ấm.
3. Cần giữ thuốc trong lọ ban đầu của nó. Đã có nhiều trường hợp uống nhầm thuốc khi loại thuốc này bỏ vào lọ chứa thuốc khác. Cũng không nên bỏ chung nhiều loại thuốc trong cùng một lọ vì có thể gây ra những phản ứng hóa học giữa chúng và tạo sự tương tác không mong đợi. Người sử dụng cũng sẽ có thể uống nhầm thuốc khi đựng nhiều loại thuốc trong cùng một lọ.
4. Khi được kê một loại kháng sinh, cần tuân thủ liều lượng và uống cho hết thời gian trị liệu, không được ngưng thuốc giữa chừng khi cảm thấy mình hồi phục. Không nên lưu trữ thuốc cho lần bệnh sau vì nó có thể đã hết hạn sử dụng hoặc không phải chữa cho những bệnh của lần trước (dù rằng những bệnh này có chung triệu chứng).
5. Khi đi công tác hoặc du lịch, phải mang theo thuốc thì cần để trong hành lý xách tay vì nếu để chung với hành lý ký gửi sẽ khiến thuốc bị giảm hoặc mất tác dụng do nhiệt độ rất cao trong khoang hành lý. Chưa kể trường hợp hành lý bị thất lạc, việc sử dụng thuốc sẽ gặp nhiều trở ngại. Đối với những loại thuốc có yêu cầu giữ lạnh, nên hỏi tiếp viên những thiết bị giữ lạnh và cách sử dụng để có thể giữ thuốc trong suốt quá trình di chuyển.



7 điều bạn nên biết về thuốc kháng sinh

Việc sử dụng tràn lan và lạm dụng thuốc kháng sinh đã dẫn đến các vấn đề sức khỏe như nhiễm nấm hoặc tiêu hóa kém vì thuốc kháng sinh có thể giết chết vi khuẩn có lợi.


thuoc-khang-sinh
1. Thuốc kháng sinh không thể điều trị tất cả các loại nhiễm trùng
Thuốc kháng sinh loại Antiobiotics điều trị các trường hợp bị nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn. Chúng không có hiệu quả đối với những người bị bệnh virus hoặc tác nhân gây bệnh khác. 
Nhiều người tin rằng thuốc kháng sinh sẽ giúp điều trị được bệnh cảm lạnh hoặc cúm, nhưng nó không giúp ích được gì.
2. Cần dùng đủ liều thuốc kháng sinh
Nhiều người sẽ chỉ dùng thuốc kháng sinh cho đến khi các triệu chứng của họ đã hết. Tuy nhiên, hãy uống đủ liều để đảm bảo rằng các triệu chứng nhiễm trùng đã hoàn toàn bị xóa sổ. Nếu chỉ sử dụng một phần của toa thuốc cũng có thể giúp thúc đẩy vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh.
3. Kháng sinh nên được uống đều đặn
Ví dụ, nếu thuốc kháng sinh của bạn cần phải được dùng 3 lần/ngày, bạn không nên dùng tất cả 3 viên thuốc cùng một lúc mà khoảng cách giữa mỗi lần uống thuốc cách nhau khoảng 8 tiếng. Đây là khoảng thời gian thích hợp làm cho thuốc có hiệu quả hơn trong điều trị các trường hợp nhiễm trùng.
4. Có sự khác biệt giữa các loại thuốc kháng sinh
Thuốc kháng sinh có thể được tạm chia thành 2 loại chính: phổ rộng và phổ hẹp. Thông thường, khi mới chẩn đoán, bác sĩ sẽ thử nghiệm mẫu đờm để xác định loại vi khuẩn gây ra nhiễm trùng. 
Trong khi chờ đợi kết quả, bác sĩ sẽ chỉ định cho bạn dùng kháng sinh phổ rộng có thể giết chết nhiều loại vi khuẩn khác nhau. Khi có kết quả chính xác, bác sĩ sẽ áp dụng loại kháng sinh phổ hẹp (đặc hiệu với một loại vi khuẩn xác định).
5. Tốt nhất là uống thuốc kháng sinh với nước
Dùng thuốc kháng sinh với nước là tốt nhất. Điều này sẽ thúc đẩy hydrat hóa và giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng. Ngoài ra, một số thuốc kháng sinh như Ciprofloxican không nên dùng với đồ uống sữa, vì nó cản trở hiệu quả của thuốc. 
Thuốc kháng sinh không bao giờ được uống với rượu. Điều này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc và thời gian nó được hấp thụ và được bài tiết khỏi cơ thể.
6. Nguy hiểm khi dùng thuốc kháng sinh của người khác
Nhiều người sẽ chỉ sử dụng một số thuốc kháng sinh nhất định và đặt chúng trong tủ thuốc của họ để các thành viên trong gia đình sử dụng khi cần. Điều này là rất nguy hiểm. 
Không phải ai cũng có phản ứng giống nhau với cùng một loại thuốc và thậm chí thuốc kháng sinh đó có thể không điều trị loại nhiễm trùng mới. Hãy để bác sĩ kê toa thuốc mới là cách tốt nhất để bạn điều trị bệnh.
7. Kháng sinh không có tác dụng tránh thai
Trong một số loại thuốc kháng sinh không có tác dụng ngăn ngừa thụ thai, việc sử dụng lâu dài cho mục đích này là rất nguy hiểm. Thay vào đó, sử dụng các biện pháp tránh thai như thuốc tránh thai hoặc đặt vòng đã được bộ y tế kiểm duyệt để ngăn ngừa mang thai ngoài ý muốn.
Thuốc kháng sinh, nếu được sử dụng một cách hợp lý vẫn có tác dụng điều trị tuyệt vời. Nhớ kỹ những hướng dẫn sử dụng sẽ giúp bạn dùng chúng một cách an toàn và tránh các biến chứng nghiêm trọng có thể phát sinh từ việc sử dụng sai.



Viên thuốc chống béo phì thay cho thể dục

Một viên thuốc chống béo phì chuyển đổi mỡ xấu thành tốt có thể thay cho thể dục, giúp người dân giảm cân đồng thời giảm nguy cơ tiểu đường tuýp 2, tim mạch và ung thư.

Đó là công bố của các nhà khoa học. Họ tin rằng đã có một bước đột phá trong cuộc chiến chống phì đại.
Khám phá này có thể là "bước đầu tiên để cho ra đời một viên thuốc có thể thay thế cho việc tập luyện nhàm chán."
Viện tế bào gốc Harvard và BVĐK Massachusetts đã xác định được hai hợp chất có thể biến tế bào trắng hoặc "xấu" thành tế bào nâu tốt trong cơ thể.
Khi một người ăn quá nhiều calori cơ thể không đốt hết. Chúng được tích trữ dưới dạng tế bào mỡ trắng thay vì là những tế bào gốc trưởng thành.
Đó là lý do khiến người ta béo tốt lên.
Nghiên cứu mới phát hiện ra hai phân tử nhỏ chuyển đổi các tế bào mỡ gốc vốn bình thường sản sinh ra tế bào mỡ trắng, thành những tế bào mỡ nâu.
Các tế bào mỡ nâu này đốt cháy năng lượng dư thừa rồi sau đó giảm kích cỡ và số lượng các tế bào mỡ trắng.
PGS Chad Cowan, ĐH Harvard, nói: "Điều làm chúng tôi ấn tượng thực sự là một số hợp chất có cùng loại hiệu ứng khi được dùng cho động vật, nhưng khi chúng ta loại bỏ chúng, hiệu ứng không còn nữa.
"Nhưng điều chúng tôi thấy ở đây là một sự chuyển đổi ổn định tế bào mỡ trắng thành tế bào nâu.
Viện tế bào gốc Harvard và bệnh viện Đa khoa Massachusetts đã xác định được hai hợp chất có thể biến tế bào trắng hoặc “xấu” thành tế bào nâu tốt trong cơ thể.
Viện tế bào gốc Harvard và BVĐK Massachusetts đã xác định được hai hợp chất có thể biến tế bào trắng hoặc “xấu” thành tế bào nâu tốt trong cơ thể.
Viện tế bào gốc Harvard và BVĐK Massachusetts đã xác định được hai hợp chất có thể biến tế bào trắng hoặc "xấu" thành tế bào nâu tốt trong cơ thể.
"Chúng ta liên tục bổ sung mô mỡ của chúng ta vì vậy nếu chúng ta dùng thuốc để chuyển đổi tế bào, mỗi tế bào mỡ mới sẽ tích cực hơn về mặt trao đổi chất và sẽ chuyển đổi thành mỡ nâu theo thời gian."
Những nhà nghiên cứu cho biết điều đó làm giảm các cơ hội để một con người phát triển tiểu đường tuýp 2, hoặc bất kỳ điều kiện nào khác có liên quan đến việc gia tăng mỡ.
Nhóm nghiên cứu cho rằng một thư viện tiêu biểu của một công ty dược có khoảng từ 1,5 đến 2 triệu hợp chất, nghĩa là sẽ có những hợp chất tương tự được chọn ra.
Một nhóm chuyên gia Đức hiện nay cũng đang tiến hành các thử nghiệm về hai hợp chất trên chuột nhắt phòng thí nghiệm và PGS Cowan nói thêm: "Chúng tôi kỳ vọng sẽ có kết quả khá sớm."
"Các hợp chất dường như hoạt động cùng một cách nơi chuột, nhưng chúng tôi không biết có ảnh hưởng gì đến việc trao đổi chất và hệ thống miễn dịch về lâu dài.
"Tin tốt và tin xấu đều là khoa học thật chậm chạp, chỉ mỗi việc tạo ra chứng cớ về khái niệm cũng đã mất hàng khối thời gian.
"Chúng tôi nghĩ rằng nghiên cứu các tế bào gốc sẽ khám phá ra thuốc và phương pháp điều trị mới, và giờ đây điều đó bắt đầu xảy ra - để có được cơ sở khoa học đó đã phải mất cả một thập kỷ nghiên cứu công phu."
Các tế bào mỡ trắng tích trữ năng lượng như chất béo và giữ một vai trò trong phát triển béo phì, tiểu đường tuýp 2, cùng những điều kiện liên quan - trong đó có bệnh tim.
Tuy nhiên nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mặc dầu có thuốc giúp chúng ta thon thả, nhưng thuốc không thể thay thế những lợi ích khác do thể dục mang lại.
Một trong hai phân tử đã được chấp nhận để điều trị viêm khớp dạng thấp, nhưng các nhà khoa học lưu ý rằng thuốc chỉ là một trong những cách.
Họ cảnh báo các hợp chất có thể gây hại cho hệ miễn dịch.
PGS Cowan lưu ý rằng các hợp chất đó "nhắm đến cùng một phân tử, và phân tử ấy đóng một vai trò trong dị ứng.
"Nên, nếu chúng ta dùng chúng lâu dài, người dùng chúng miễn dịch có thể bị tổn thương."
Các hợp chất này được tìm thấy qua sàng lọc một thư viện có khoảng 1.000 hợp chất.
Hormon serotonin làm cho con người tăng cân, gây béo phì và tiểu đường tuýp 2
Một nhóm nghiên cứu đã xác định được một hormon làm cho con người tăng cân, gây béo phì và tiểu đường tuýp 2.
Nghiên cứu phát hiện người béo phì có mức hormon serotonin cao hơn trong máu.
Các nhà khoa học ở đại học McMaster, Ontorio, Canada, đã xác định được một hormon làm cho con người tăng cân, gây béo phì và tiểu đường tuýp 2.
Các nhà khoa học ở đại học McMaster, Ontorio, Canada, đã xác định được một hormon làm cho con người tăng cân, gây béo phì và tiểu đường tuýp 2.
Các nhà khoa học ở ĐH McMaster, Ontorio, Canada, đã xác định được một hormon làm cho con người tăng cân, gây béo phì và tiểu đường tuýp 2.
Hormon ức chế các hiệu ứng có lợi của hoạt động mỡ nâu - tức là loại mỡ đốt được.
Các mô tích mỡ nâu nằm trên xương đòn và hoạt động như là một cái bếp đốt calori để giữ ấm cho cơ thể.
Những người béo phì có mức mỡ nâu thấp, và hoạt động của chúng giảm dần theo tuổi tác.
Nhưng cho đến nay, các nhà khoa học không biết là do đâu.
Nghiên cứu của đại học McMaster ở Ontario, Canada, phát hiện thấy có hai tuýp seretonin khác nhau.
Một tuýp được tìm thấy trong não hoặc hệ thống thần kinh trung ương tác động đến tâm trạng và cảm giác ngon miệng, nhưng chỉ chiếm 5% serotonin trong cơ thể.
Loại serotonin ngoại vi ít được biết đến lưu thông trong máu, và chiếm đến 95% loại hormon này trong cơ thể.
Các nhà khoa học ở McMaster khám phá ra rằng loại serotonin này làm giảm hoạt động của mỡ nâu, nghĩa là "hạ nhiệt" bếp chuyển hoá của cơ thể.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Medicine, là nghiên cứu đầu tiên chứng minh việc giảm sản sinh serotonin ngoại vi làm cho mỡ nâu trở nên tích cực hơn.
GS y học Gregory Steinberg, nói: "Các kết quả của chúng tôi khá là ấn tượng và chỉ ra rằng ức chế sản sinh loại hormon này có thể rất hiệu quả trong việc đảo chiều béo phì và các bênh liên quan đến chuyển hoá trong đó có tiểu đường.
"Quá nhiều seretonin loại này chẳng khác nào cái phanh tay đối với chất béo nâu của chúng ta. Chúng ta có thể nhấn ga mỡ nâu, nhưng nó chả chạy tí nào."
Và các nhà khoa học tin rằng họ cũng có thể xác định được thủ phạm chịu trách nhiệm đối với mức seretonin ngoại vi cao - chế độ ăn uống nhiều chất béo của phương Tây.
PGS bệnh lý học và y học phân tử Waliul Khan, nói: "Có một tín hiệu môi trường có thể gây ra mức serotonin cao trong cơ thể chúng ta và đó chính là chế độ ăn uống nhiều chất béo của phương Tây.
"Quá nhiều seretonin không tốt. Chúng ta cần sự cân bằng. Nếu quá nhiều, điều đó dẫn đến tiểu đường, gan nhiễm mỡ và béo phì."
Phần lớn serotonin trong cơ thể do tryptophan hydroxylaz (Tph1) sản xuất.
Hormon serotonin ngoại vi - kiểu trong hình - ức chế các hiệu ứng có lợi của hoạt động của mỡ nâu - loại mỡ "tốt" có thể đốt hết.
Hormon serotonin ngoại vi – kiểu trong hình - ức chế các hiệu ứng có lợi của hoạt động của mỡ nâu – loại mỡ “tốt” có thể đốt hết.
Hormon serotonin ngoại vi – kiểu trong hình – ức chế các hiệu ứng có lợi của hoạt động của mỡ nâu – loại mỡ “tốt” có thể đốt hết.
Nghiên cứu phát hiện ra rằng khi loại bỏ hoặc ức chế enzym tạo ra serotonin này, chuột nhắt được nuôi bằng chế độ ăn uống nhiều chất béo không bị béo phì, gan nhiễm mỡ và tiền tiểu đường do khả năng mỡ nâu đốt nhiều calori hơn được tăng cường.
Ức chế serotonin ngoại vi không ảnh hưởng đến seretonin trong não hoặc hoạt động của hệ thần kinh trung ương.
Điều này đi ngược lại với các loại thuốc giảm cân trước đây hoạt động bằng cách ngăn chận thèm ăn qua tác động lên mức serotonin của não, nhưng lại có liên quan đến các vấn đề như biến chứng tim mạch và nguy cơ trầm cảm và tự tử.
GS Steiberg nói: "Trong tương lai, chúng tôi nghĩ rằng một phương pháp an toàn hơn để làm tăng tiêu hao năng lượng thay vì làm giảm sự ngon miệng có liên quan đến nhiều nguy cơ hơn."
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng việc sản sinh serotonin bằng cách ức chế Tph1 "có thể là một phương pháp điều trị hiệu quả đối với béo phì và các bệnh đi kèm theo nó", và do đó, nhóm này hiện đang nghiên cứu một loại thuốc "ức chế enzym".


5 sai lầm về thuốc xịt hen suyễn

Sử dụng đúng thuốc xịt sẽ góp phần quan trọng trong chữa trị hen suyễn. Trong ảnh: huấn luyện bệnh nhân xịt thuốc. Ảnh tư liệu tác giả cung cấp

Nhưng không phải BN nào cũng đi khám vì thời tiết mà còn có thể từ những sai lầm khi sử dụng thuốc xịt hen suyễn. Những than phiền sau đây liên quan đến chuyện này.
1."Tôi không hen suyễn!"
Một BN đi khám vì ho, khó thở, khò khè và than phiền: "Có bác sĩ (BS) nói tôi bị hen, cho tôi thuốc xịt mấy tháng mà bệnh không hết. Tôi chắc không bị hen!"
Kiểm tra kỹ lưỡng và làm những xét nghiệm cần thiết, BN quả đúng bị hen. Khai thác một hồi, tôi mới biết BN đã dùng dụng cụ hít không đúng. Dụng cụ hít với mục đích đưa thuốc vào phổi. 
Nếu dùng sai, thuốc không vào phổi mà bay ra ngoài, hay lượng thuốc hít vào phổi không đủ thì không phát huy tác dụng của thuốc được. Có nhiều dụng cụ hít thuốc khác nhau nên cách hít cũng khác nhau. Tuy nhiên, một sai lầm phổ biến là người bệnh không nín thở đủ lâu (thường ít hơn 10 giây). 
Có BN khi ngậm dụng cụ, để lưỡi che luôn đầu ống, vì thế khi xịt thuốc chỉ vào lưỡi mà không vào phổi. Thật ngớ ngẩn? Đúng, nhưng không bằng chuyện có BN quên mở nắp đầu ống ngậm khi xịt thuốc. Hậu quả là xịt bao nhiêu thuốc cũng không vào phổi được!
2. "Thuốc xịt yếu quá, không cắt cơn ngay được!"
"BS ơi, sao thuốc này yếu quá, tôi xịt vào chẳng bớt nhiều, BS đổi thuốc khác cho tôi đi!", BN than thở, hỏi ra mới biết khi lên cơn khó thở thay vì dùng thuốc cắt cơn (còn gọi là thuốc cấp cứu) để giảm khó thở, bệnh nhân lại dùng… thuốc ngừa cơn!
Thuốc trị hen thường gồm hai loại chính: thuốc ngừa cơn và thuốc cắt cơn. Thuốc ngừa dùng đều đặn mỗi ngày, dù người bệnh mệt hay khoẻ, với mục đích giảm số lần lên cơn hen hoặc giảm mức độ nặng của cơn. 
Thuốc này có tác dụng chậm và kéo dài. Trong khi đó, thuốc cắt cơn chỉ định khi BN lên cơn hen cần xịt thuốc để giảm triệu chứng ngay. Thuốc tác dụng nhanh và ngắn. Do đó người bệnh cần sử dụng đúng thuốc cho đúng tình huống.
3. "Tôi xịt thuốc đúng sao bệnh nặng lên?"
Một BN đang chữa hen, bệnh được kiểm soát tốt, đột nhiên tái khám với bệnh trở nặng. BN cho biết vẫn dùng thuốc đều, đúng liều và không có yếu tố khởi phát lên cơn hen. Kiểm tra kỹ, bác sĩ phát hiện lọ thuốc hết từ lâu nhưng BN… không hay biết!
Một số lọ thuốc có vạch chỉ thị liều. Khi vạch chỉ thị liều về số 0 hay vạch đỏ thì lọ thuốc đã hết, cần thay lọ khác. Có lọ thuốc không có vạch chỉ thị liều, BN cần ghi lại thời gian bắt đầu sử dụng thuốc và xem hướng dẫn để biết cách kiểm tra khi nào lọ thuốc hết thuốc.
4. "Sao tôi không hết bệnh?"
    Một BN thắc mắc: "Tôi đi khám bệnh, BS nói tôi bị hen và cho tôi xịt thuốc. Tôi xịt thấy bớt nhưng ngưng thuốc lại lên cơn khó thở. Tôi thấy giống BS "nuôi bệnh" quá, sao BS không chữa cho tôi hết bệnh luôn đi?"
    Ở đây người bệnh chưa hiểu hen suyễn là bệnh mạn tính tương tự các bệnh mạn tính tăng huyết áp hay đái tháo đường. 
    Nếu trong tăng huyết áp hay đái tháo đường, BN phải dùng thuốc đều mỗi ngày huyết áp hay đường huyết mới ổn định, thì trong hen suyễn việc xịt thuốc ngừa cơn đều đặn sẽ giúp kiểm soát hen, giảm tần suất lên cơn khó thở, hoặc có lên cơn thì triệu chứng cũng nhẹ, giảm ảnh hưởng đến công việc và sinh hoạt thường ngày của BN. 
    Do đó BN bị hen suyễn cần điều trị thuốc lâu dài, không tự ý ngưng điều trị nếu không có ý kiến của BS.
    5. "Tôi hết bệnh rồi, BS đừng kê thuốc nữa!"
      Có BN nói: "Bây giờ bệnh suyễn của tôi giảm nhiều, không lên cơn khó thở nữa và không phải dùng thuốc cấp cứu. Lọ thuốc cấp cứu trước đây BS kê toa, tôi xịt vài lần, giờ mua nữa mà không dùng phí lắm".
      Điều này không đúng. Khi bệnh hen được kiểm soát, BN ít lên cơn hen không có nghĩa là cơn hen cấp không xuất hiện nữa. Có BN ở nhà không lên cơn, nhưng đi chơi xa lại lên cơn cấp vì tiếp xúc với dị nguyên lạ. Lần đầu tiên chủ quan, không mang thuốc xịt cắt cơn bên mình, BN phải vào cấp cứu ở một bệnh viện địa phương. 
      BN hen suyễn mà không có lọ thuốc cấp cứu cắt cơn bên mình có thể rơi vào tình huống nguy hiểm không lường được. Do đó người bệnh hen suyễn cần mang theo thuốc hít (cả thuốc ngừa cơn và thuốc cấp cứu).


      Các thuốc hủy hoại tình yêu

      Chúng ta thường nghe nói rằng thuốc có thể cải thiện đời sống tình dục của bạn (như Viagra chẳng hạn) nhưng thực sự một số loại thuốc có thể bóp nghẹt bạn trong chốn phòng the. Do đó, khi bạn đang phải uống một loại thuốc nào đó mà bạn cảm thấy ít hứng thú với "chuyện ấy" thì thủ phạm rất có thể là những viên thuốc kia. Dưới đây là những viên thuốc khiến bạn thua cuộc chốn phòng the.
      Chống trầm cảm chống cả chuyện yêu
      Trầm cảm có thể khiến bạn tăng ham muốn tình dục nhưng thuốc chống trầm cảm thì ngược lại. Các loại thuốc prozac, zoloft và các chất ức chế tái hấp thụ serotonin có chọn lọc (SSRIs) có chức năng cải thiện tâm trạng bằng cách gia tăng lượng serotonin. 
      Không may là nó lại cũng có thể làm giảm ham muốn tình dục. Nếu bạn bị những viên thuốc này ám ảnh, hãy lựa chọn lại. Các thuốc Wellbutrin và Viibryd cũng là 2 chất ức chế SSRIs nhưng không gây ra tác dụng phụ.
      Các thuốc hủy hoại tình yêu
      Các thuốc hủy hoại tình yêu
      Các thuốc hủy hoại tình yêu
      ​Nhiều loại thuốc chữa bệnh có tác dụng phụ làm giảm hứng thú "chuyện ấy"
      Kể từ khi SSRIs hiện diện trên thị trường thì những loại thuốc chống trầm cảm 3 vòng như elavil lại không được sử dụng thường xuyên. Nhưng thuốc này lại được kê toa cho chứng đau thần kinh như bệnh zona. Việc lạm dụng thuốc này có thể làm giảm ham muốn tình dục, do vậy, nếu thực sự cần phải dùng đến thuốc, hãy bắt đầu từ liều thấp nhất.
      Thuốc giảm phì đại tiền liệt tuyến
      Thuốc proscar được dùng để điều trị tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH) hay còn có tên gọi khác là tuyến tiền liệt phì đại. Đó là một vấn đề mà hầu hết nam giới đều gặp phải khi có tuổi. 
      Thành phần hoạt chất trong thuốc proscar là finasteride, trong đó ngăn chặn testosteron chuyển đổi thành một dạng hoạt động. Hạ thấp testosteron cũng có nghĩa là làm giảm ham muốn tình dục. Một hướng điều trị thay thế cho bệnh BPH là một thủ thuật được gọi là "thủ thuật cắt bỏ niệu đạo tuyến tiền liệt". Ca phẫu thuật kéo dài 1 giờ này bao gồm việc gắn một ống trượt lên niệu đạo và loại bỏ một phần của tuyến tiền liệt.
      Ngừa rụng tóc, ngừa... yêu
      Propecia về cơ bản giống với proscar nhưng nó được sử dụng với liều thấp nhằm ngăn ngừa rụng tóc ở nam giới. Ngay cả với nam giới trẻ khi sử dụng thuốc này thì cũng có thể làm giảm ham muốn tình dục (khoảng 2% nam giới báo cáo rằng họ mắc phải những tác dụng phụ sinh lý trong các ca thử nghiệm lâm sàng). 
      Và cũng có các báo cáo rằng các tác động có thể kéo dài ngay cả sau khi ngừng dùng thuốc. Khi gặp tình trạng này, bạn có thể lựa chọn liệu pháp khác để điều trị chứng rụng tóc mà ít tác dụng phụ sinh lý hơn.
      Chống dị ứng và cản cả cuộc yêu
      Các loại thuốc kháng histamin, đặc biệt là diphendyramin (benadryl) và chlorpheniramin (chlor-trimeton) có thể làm giảm bớt những triệu chứng dị ứng của bạn nhưng tạm thời tác động đến chuyện yêu đương của người sử dụng. Giải pháp ở đây có thể đơn giản là cẩn thận thời gian khi bạn uống thuốc. 
      Các thuốc kháng histamin chỉ nên dùng trong khoảng 8 tiếng ở bệnh nhân trẻ và khỏe mạnh.
 Bạn nên nhớ rằng các thuốc kháng histamin cũng có sự kết hợp của các loại thuốc ho, vì thế nên đọc kỹ trước khi dùng. Bạn có thể dùng thuốc kháng histamin và làm giảm nhu cầu ham muốn tình dục mà không hề hay biết.
      Cần sa y tế
      Cần sa chỉ được chấp thuận sử dụng cho các mục đích y tế ở 20 tiểu bang trên đất Mỹ. Cần sa có thể có một tác động tiêu cực đáng kể đến cả ham muốn tình dục và khả năng thực hiện nó. Nếu bạn đang ở một nơi mà không có sự hợp pháp hóa về cần sa thì rõ ràng là bạn không nên sử dụng nó. Còn nếu bạn đang sử dụng cần sa hợp pháp và có vấn đề về tình dục, bạn hãy nên cởi mở trò chuyện với nhà cung cấp chăm sóc y tế về những biện pháp thay thế để giảm đau và chống nôn.
      Thuốc chống động kinh
      Thuốc tegretol có thể là giải pháp thay đổi cuộc đời cho những ai đang bị động kinh và thậm chí với những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực. Mặt khác, nó cũng làm giảm nhu cầu ham muốn tình dục. 
      Tegretol và các loại thuốc khác đã hoạt động bằng cách ngăn chặn các xung động và tế bào thần kinh. Cảm giác cực khoái cũng bị ngăn cản tương tự như cơn động kinh, cảm ứng đầu vào đã kích hoạt một phản ứng cơ thể. Nếu một loại thuốc chống động kinh làm ảnh hưởng tới ham muốn tình dục của bạn, bạn hãy hỏi bác sĩ về một loại thuốc thay thế.
      Thuốc giảm đau opioid
      Thuốc opioid có thể là phước lành cho việc giảm đau nhưng lại là lời nguyền cho ham muốn tình dục. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những loại thuốc opioid chẳng hạn như vicodin, oxycontin và percocet có thể làm giảm testosteron và có thể tác động làm suy giảm ham muốn tình dục.
      Thuốc cần cho tim nhưng hại tình dục
      Hàng chục triệu người Mỹ sử dụng các loại thuốc chẹn beta chẳng hạn như propranolol và metoprolol với những lợi ích to lớn cho tim của họ nhưng lại không cần thiết cho đời sống tình dục. 
      Trong những trường hợp hiếm hoi, thậm chí một giọt thuốc nhỏ mắt có chứa thuốc chẹn beta như timolol (dùng để điều trị bệnh tăng nhãn áp) cũng có thể làm giảm ham muốn tình dục. Các loại thuốc chẹn beta bán trên thị trường đều có tác dụng làm hạ huyết áp nhưng theo những cách khác nhau và nó khiến bạn trở nên yếu đuối chốn phòng the. Hãy nói với bác sĩ để tìm ra một thứ thuốc phù hợp với thể trạng của bạn.


      Chọn thuốc giảm đau hợp lý

      Thuốc giảm đau chỉ là những thuốc chữa triệu chứng. Theo Hiệp hội quốc tế nghiên cứu về đau (1979): "Đau là một kinh nghiệm khó chịu về mặt cảm giác và cảm xúc liên quan đến tổn thương thực thể có thật hoặc được mô tả như là có tổn thương".
      Người ta đã tính có tới 50% bệnh nhân đến gặp thầy thuốc vì triệu chứng đau. Thực ra đau là một trong những phản ứng tự vệ của cơ thể; qua mức độ và tính chất đau, điểm đau… thầy thuốc có thể chẩn đoán bệnh. 
      Song, đau là nỗi thống khổ của bệnh nhân, nhiều khi còn có thể gây ra những rối loạn chức năng. Bởi vậy, dù chỉ là thuốc chữa triệu chứng, nhưng vẫn cần dùng, nhiều trường hợp cần sử dụng với các thuốc điều trị khác để chữa tận gốc căn nguyên bệnh. Các thuốc giảm đau có thể chia thành 3 nhóm tùy theo mức độ hiệu lực giảm đau.
      Với các chứng đau nhẹ, đau vừa (bậc 1/theo thang bậc điều trị đau của WHO):
      Dùng quá liều thuốc giảm đau paracetamol gây tổn thương tế bào gan
      Dùng quá liều thuốc giảm đau paracetamol gây tổn thương tế bào gan
      Dùng một trong các thuốc giảm đau thông dụng nhất là paracetamol, aspirin, ibuprofen… việc chọn lựa tùy theo sự nhạy cảm của từng người, những chống chỉ định khác nhau, và sự tương tác của chúng với các thuốc khác. Các thuốc này có thể mua tại các hiệu thuốc không cần đơn bác sĩ, nhưng cần lưu ý :
      Paracetamol (còn có tên khác là acetaminophen): Tác dụng giảm đau (nhức đầu, đau răng, đau khớp) và hạ sốt hiệu quả, nhanh. Người lớn nên dùng 1-2 viên 500mg/lần, và tối đa là 6 lần/ngày(24 giờ). Paracetamol dễ dùng hơn aspirin hay ibuprofen… 
      Tác dụng phụ chỉ là dị ứng nhưng rất hiếm và nổi mẩn. Tương tác với thuốc khác hầu như không có. Nhưng khác với aspirin, ibuprofen … paracetamol không có tác dụng chống viêm . Hiện nay paracetamol là thuốc được khuyến cáo nên dùng vì có tác dụng tốt và độ an toàn cao. 
      Tuy nhiên, nếu dùng liều quá cao có thể gây độc tính với gan, nên không được dùng liều cao trong thời gian dài. Do vậy thuốc này có chống chỉ định đối với những người bị suy gan. Hiện nay paracetamol có tới 180 tên thương mại (biệt dược) khác nhau, mà trong thành phần có paracetamol, hoặc paracetamol phối hợp với các dược chất khác. Bởi vậy cần lưu ý không được dùng phối hợp các thuốc biệt dược này vì có thể dẫn đến tai biến quá liều.
      Aspirin (acetylsalicylic acid): Có tác dụng giảm đau và hạ sốt tốt, còn tác dụng chống viêm thì rất yếu nếu dùng liều thấp; việc sử dụng cần có chỉ định và theo dõi của bác sĩ điều trị . 
      Tác dụng phụ khó chịu nhất là những kích thích đường tiêu hoá có thể gây ra cảm giác nóng rát ở dạ dày, và có khi chảy máu ở đường tiêu hoá, nhất là những người trước đây đã bị loét dạ dày - tá tràng. Điều này đôi khi chỉ cần một liều với những người nhạy cảm; với liều cao hơn (2g/ngày trong một tuần) có thể gây loét dạ dày. Để giảm nhẹ tác dụng phụ nên uống thuốc vào bữa ăn hoặc ngay khi ăn xong. 
      Aspirin làm loãng máu, do đó nó có thể gây chảy máu mũi hay nướu răng ở những người bị rối loạn về đông máu dù dùng với liều thấp (150-300mg/ngày); gây hiện tượng đa kinh. Cũng nên thận trọng với sản phụ ở đầu thai kỳ (do chảy máu) và cuối thai kỳ (aspirin ngăn chặn sự tiết chất tạo dễ dàng cho việc sinh đẻ). 
      Điều cuối cùng là nó gây dị ứng nổi mẩn, rối loạn hô hấp đôi khi rất nghiêm trọng, nhất là với những người có cơ địa dị ứng (viêm mũi dị ứng, người từng có những cơn hen đã điều trị ổn định…). 
      Với trẻ em có thể gây nên hội chứng Reye - một bệnh nặng có tỷ lệ tử vong rất cao. Về tương tác thuốc: nói chung đừng bao giờ dùng aspirin với một loại thuốc chống viêm khác. Mặt khác nó còn làm giảm tác dụng của những thuốc lợi tiểu và thuốc trợ tim. Ngược lại, nó tăng cường tác dụng của các thuốc chống đông máu, và đôi khi là thuốc chống đái tháo đường.
      Nhóm thuốc ibuprofen, phenylbutazon, indomethacin: Nhóm thuốc này có tác dụng chống viêm tốt, giảm đau và hạ nhiệt, thường được dùng vào điều trị các triệu chứng đau do thấp khớp, thoái hoá cột sống, thống phong (goutte). Nhóm thuốc này nói chung có tác dụng phụ kích ứng dạ dày, do đó chống chỉ định đối với những người loét dạ dày - tá tràng.
      Với các chứng đau dữ dội (bậc 2)
      Có thể dùng các thuốc giảm đau mạnh hơn như codein hoặc dextropropoxyphen . Hai thuốc này thường phối hợp với một trong 3 thuốc thông dụng kể trên như các biệt dược viên sủi giảm đau efferalgan-codein (paracetamol + codein),viên di-altalvic (paracetamol + dextropropoxyphen), alaxan (paracetamol + ibuprofen)…
      Với các chứng đau quá nặng (bậc 3)
      Thường gặp trong các trường hợp đau do ung thư, do bỏng nặng, hoặc chấn thương nặng… thì phải dùng đến morphin và các dẫn chất của nó. Vì dễ gây ra hiện tượng quen thuốc, nghiện thuốc, chỉ sử dụng khi có sự chỉ định của thầy thuốc, dùng đúng liều lượng, và đúng thời gian.
      Ngoài ra, không xếp vào đây các thuốc giảm đau như: Thuốc điều trị đau thắt ngực (nitroglycerin, isosorbid, dinitrat) vì chúng thuộc nhóm thuốc tim mạch. Thuốc giảm đau chống co thắt do làm dãn cơ trơn (alverin, drotaverin, papaverin, spasfon …). Thuốc đặc trị bệnh đau nửa đầu (ergotamin, dihydroergotamin). Thuốc giảm đau do viêm thần kinh đau cơ (các vitamin hướng thần kinh B1, B6, B12). Thuốc loại corticoid. Thuốc an thần gây ngủ (diazepam, hydroxyzin…). Thuốc tê novocain … Cuối cùng cũng không tính đến các loại thuốc giảm đau dùng ngoài như thuốc dán, thuốc bôi xoa, thuốc xịt có tác dụng tại chỗ, không có tác dụng toàn thân.


      Cách sử dụng thuốc điều trị hen ở người cao tuổi

      Việc dùng thuốc trị hen cho NCT sao cho an toàn là điều mà cả thầy thuốc, người bệnh và người nhà bệnh nhân đều quan tâm.
      Nguyên nhân gây hen ở NCT
      Các yếu tố thuận lợi làm cho bệnh hen xuất hiện ở NCT như nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp hay mạn tính do vi sinh vật có hại (vi khuẩn, virut, vi nấm) như viêm họng mạn tính, viêm xoang, viêm phế quản, giãn phế quản do lạnh đột ngột hoặc lạnh kéo dài trong khi mặc không đủ ấm hoặc phòng ngủ không kín, bị gió lùa, mắc chứng hen sữa từ nhỏ… 
      NCT bị hen có thể do gặp phải kháng nguyên lạ từ môi trường sống như: lông súc vật, phấn hoa, thực phẩm (tôm, cua…), khói, bụi đường, khói thuốc lá, thuốc lào. Nấm mốc cũng là một nguyên nhân được nhắc tới nhiều trong căn nguyên gây nên bệnh hen suyễn. NCT thường mắc nhiều bệnh và phải dùng thuốc, trong đó một số loại thuốc có thể gây bệnh hen.
      Biểu hiện của hen suyễn thường là: ho, khó thở, khò khè, thời kỳ đầu có thể khó thở từng cơn có tính chất chu kỳ, đôi khi liên quan đến thời tiết, các chất tiếp xúc… Sau cơn khó thở thường ho, có đờm loãng…
      Lòng phế quản bị thu hẹp ở người bệnh hen.
      Khó khăn trong điều trị
      Việc điều trị hen cho NCT gặp nhiều khó khăn hơn người trẻ vì: NCT thường mắc nhiều bệnh: đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh tim… nên hằng ngày phải dùng đều đặn nhiều thứ thuốc, đôi khi sự tương tác giữa các thuốc làm giảm hiệu quả và gây ra tác dụng phụ. Người bệnh không nhận biết sớm các triệu chứng bệnh trở nặng nên không thể xử trí kịp thời. Người bệnh có thể quên uống thuốc hoặc bỏ thuốc làm tái phát cơn hen mặc dù đã được kiểm soát. 
      NCT dễ bị tác dụng phụ khi dùng thuốc hơn người trẻ. Hơn nữa, do cấu trúc và chức năng của đường hô hấp bị biến đổi và suy giảm do quá trình lão hóa nên sự đáp ứng với thuốc cũng kém đi. NCT thường gặp khó khăn trong việc sử dụng các thuốc dạng hít và thiết bị máy móc. Vì vậy, sự giúp đỡ, hỗ trợ của người thân hoặc người chăm sóc rất cần thiết trong việc kiểm soát bệnh hen cho NCT, giúp người bệnh có thể dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ, theo dõi và phát hiện khi bệnh trở nặng cũng như những biến chứng do bệnh hoặc do thuốc gây ra.
      Sử dụng thuốc
      Thuốc dùng để điều trị hen gồm hai nhóm chính là thuốc chống co thắt phế quản để cắt cơn hen và thuốc chống viêm.
      Chống co thắt phế quản
      Các thuốc nhóm kích thích ß2 adrenergic (còn gọi là thuốc chủ vận ß2) hiện là thuốc hiệu quả và hay dùng nhất trong việc cắt cơn hen. Trong các thuốc thuộc nhóm này, người ta chia làm 2 loại căn cứ vào thời gian tác dụng của thuốc gồm: Thuốc tác dụng ngắn là salbutamol, terbutalin (bricanyl), fenoterol, có khởi phát tác dụng nhanh và thời gian tác dụng chỉ kéo dài từ 4 - 6 giờ. 
      Thuốc tác dụng chỉ kéo dài: salmeterol, formoterol có thời gian tác dụng kéo dài khoảng 12 giờ. Các thuốc dùng để cắt cơn hen này nên dùng dưới dạng hộp có liều định chuẩn (MDI) để xịt họng khi có cơn khó thở hoặc dạng ống khí dung. Để dự phòng cơn hen về đêm thì nên dùng salbutamol tác dụng kéo dài hoặc salmeterol uống buổi tối.
      Thuốc nhóm kháng cholinergic: Tác dụng giãn cơ trơn do ức chế thụ cảm thể muscarinic ở cơ trơn phế quản, ức chế phó giao cảm, tác dụng cắt cơn hen kém hiệu quả hơn so với nhóm kích thích ß2 adrenergic, tác dụng chậm hơn nhưng thời gian kéo dài hơn. Thuốc hay được sử dụng trong nhóm này là ipraptopium bromide (hộp xịt họng) hoặc dùng dạng phối hợp với fenotenol hoặc dùng dạng xịt họng đóng trong hộp có liều định chuẩn.
      Thuốc chống viêm
      Các thuốc hay dùng prednisolon, methylprednisolon dùng đường tiêm trong cơn hen cấp tính nặng. Khi đã cắt cơn thì nên dùng thay bằng đường uống hoặc corticosteroide tại chỗ. Corticosteroid tại chỗ: becotid (beclomethasone), pulmicort (budesonide): dùng dạng xịt hít, nếu hen chưa ổn định có thể khí dung.
      Lưu ý khi dùng thuốc hen cho NCT
      Tác dụng phụ của các thuốc điều trị hen cũng thường gặp ở NCT hơn so với người trẻ. Người bệnh thường rất nhạy cảm với các tác dụng phụ của thuốc, nhất là những người có bệnh tim mạch kết hợp. Khả năng đào thải thuốc kém cũng làm cho bệnh nhân hen lớn tuổi có nguy cơ cao bị ngộ độc thuốc. 
      Những bệnh nhân uống thuốc chống viêm hoặc dùng đường hít kéo dài trong điều trị các đợt hen cấp có nguy cơ cao bị loãng xương nên cần được bổ sung canxi và vitamin D để dự phòng loãng xương.
      Để phòng bệnh, cần hạn chế tiếp xúc với tác nhân gây bệnh như len, dạ, bụi, khói thuốc, các chất khử mùi, các loại dầu thơm…; tránh dùng thực phẩm và gia vị làm bùng phát cơn hen.
      Một số loại thuốc thường dùng có thể gây kịch phát cơn hen hoặc làm triệu chứng hen nặng thêm như: aspirin và các thuốc kháng viêm điều trị viêm khớp, giảm đau.
      Thuốc ức chế beta điều trị tăng huyết áp và bệnh tim hoặc thuốc nhỏ mắt có chứa chất ức chế beta điều trị glaucome có thể làm cho cơn hen nặng hơn. Vì thế, khi đi khám bệnh, NCT cần báo cho bác sĩ những thuốc mình đang dùng.
      Khi nào bệnh nhân hen cần nhập viện?
      Trong quá trình điều trị hen, nếu NCT có những dấu hiệu sau đây thì cần phải nhập viện ngay: Cơn hen rất nặng hoặc không đáp ứng tốt với điều trị. Chức năng phổi kém trên phế dung ký. Có tiền sử phải nhập viện hoặc phải dùng máy giúp thở trong cơn hen. Bệnh nhân mắc kèm bệnh nặng về phổi hoặc tổn thương phổi như viêm phổi hoặc tràn khí màng phổi (xẹp phổi)…


       
      Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons