Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

4 loại thuốc quen thuộc có thể gây bệnh Parkinson


Parkinson
Parkinson là bệnh rối loạn thần kinh thuộc hệ vận động, cụ thể là hệ vận động ngoại tháp (điều khiển những động tác tự động). Biểu hiện khó chịu nhất của bệnh là run tay chân và thân mình. Bệnh không gây tử vong nhưng lại khiến cho cuộc sống của bệnh nhân trở nên tồi tệ. Những bệnh nhân mắc bệnh nặng không thể cầm nắm các đồ vật chỉ vì… run. Người bệnh phải phụ thuộc vào người khác, dần dần sinh chán nản và thất vọng về bản thân và cuộc sống.
Cho đến nay, nguyên nhân chính xác của bệnh Parkinson nguyên phát chưa được chỉ ra. Nhưng có một điều rõ ràng là ngày càng có nhiều bệnh nhân bị bệnh Parkinson do lạm dụng thuốc. Dưới đây là 4 nhóm thuốc nằm trong top nguy hiểm mà bạn cần phải cẩn trọng.
1. Nhóm thuốc an thần
Nhóm thuốc an thần là nhóm thuốc đầu bảng gây ra biến chứng Parkinson. Chúng bao gồm Phenothiazin (Clorpromazin), Butyrophenon (Haloperidol) và Thioxanthen.
Đây là những thuốc hướng thần kinh mạnh có tác dụng xoa dịu thần kinh, giúp cho hệ thần kinh nghỉ ngơi hồi phục. Nhóm này thường dùng điều trị cho các bệnh tâm thần như hưng cảm, lo âu, tâm thần phân liệt, mất ngủ, suy nhược.
Nhưng không may, chúng lại gây tác dụng phụ trên hệ thần kinh tâm thần và là một nguy cơ gây ra bệnh Parkinson. Chỉ cần dùng liều cao thuốc này trên 2 tuần là bạn đã có thể có nguy cơ bị Parkinson. Nếu dùng trên 6 tháng thì gần như 100% tai biến xảy ra.
2. Nhóm thuốc bổ não
Nhóm thuốc bổ não từ trước đến nay vẫn được xếp vào nhóm thuốc hay bị lạm dụng. Quan niệm thuốc bổ thì uống không có hại khiến cho không ít người… "bỗng dưng" mắc bệnh. Hai loại thuốc điển hình trong nhóm này là Cinnarizin (Stugeron, Vertizin) và Flunarizin (Vasotense, Siberizin); thường xuyên được sử dụng ở những người đau đầu, chóng mặt do thiểu năng tuần hoàn não, do rối loạn tiền đình.
Việc lạm dụng thuốc này có thể gây ra các triệu chứng của bệnh Parkinson được phát hiện từ năm 1985, đồng thời các nhà nghiên cứu cũng thấy rằng phụ nữ thì dễ bị tai biến hơn nam giới. 
Vẫn chưa tìm ra nguyên nhân rõ ràng nhưng các chuyên gia thiên về giả thiết: Nhóm thuốc này làm ức chế bơm calci, ức chế các điểm nhận cảm dopamin mà đây lại là một chất rất cần thiết để điều trị Parkinson. Vì vậy, những bệnh nhân nữ mắc chứng tiền đình cần đặc biệt cẩn trọng với loại thuốc này để không mắc Parkinson.
3. Nhóm thuốc chẹn calci
Nhóm thuốc chẹn canxi được sử dụng cho bệnh nhân tim mạch như tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim khá thường xuyên và có thể phải sử dụng kéo dài. Thuốc có thể giúp bệnh nhân khống chế các rắc rối do bệnh tim mạch gây ra nhưng lại gây tác dụng phụ lên hệ thần kinh.
Amlodipine, Manidipine, Diltiazem, và Verapamil là những loại thuốc điều trị bệnh tăng huyết áp, thiểu năng động mạch vành và nhịp tim nhanh thông qua việc ức chế bơm calci ở cơ tim. 
Tuy nhiên, chúng cũng vô tình ức chế luôn việc bơm calci trên hệ thần kinh ngoại tháp, làm ảnh hưởng đến khả năng giải phóng các chất trung gian hóa học thần kinh, dẫn đến bệnh Parkinson. Người ta đã ghi nhận có nhiều trường hợp bị bệnh này khi đang dùng những thuốc kể trên.
4. Thuốc động kinh
Thuốc chống động kinh loại axit valproic là một thuốc chống động kinh thế hệ mới có hiệu quả khá cao. Nhưng nó đang bị nghi ngờ là gây ra tác dụng phụ trên hệ thần kinh ngoại tháp. Thậm chí một số ý kiến còn cho rằng nó là nguyên nhân chính gây ra tình trạng bệnh Parkinson sau khi điều trị động kinh. Và nếu so sánh giữa việc bị co giật do động kinh thì việc run tay chân đến mức không cầm nổi cốc uống nước do Parkinson cũng không hề dễ chịu hơn.



Thuốc ho - Dùng sao cho đúng?

Dextromethorphan là thuốc giảm ho có tác dụng lên trung tâm ho ở hành não, được dùng giảm ho nhất thời do kích thích nhẹ ở phế quản và họng như cảm lạnh thông thường hoặc hít phải các chất kích thích. Dextromethorphan có hiệu quả nhất trong điều trị ho mạn tính, không có đờm. 
Thuốc thường được dùng phối hợp với nhiều chất khác trong điều trị triệu chứng đường hô hấp trên và thuốc không có tác dụng long đờm. Với liều điều trị, tác dụng chống ho của thuốc kéo dài được 5 - 6 giờ. Ðộc tính thấp, nhưng với liều rất cao có thể gây ức chế hệ thần kinh trung ương.
Thuốc ho - Dùng sao cho đúng?Dùng thuốc giảm ho cần theo chỉ định của bác sĩ
Cần lưu ý, ho là một phản ứng của cơ thể nhằm loại bỏ chất nhầy và các chất khác ra khỏi phổi và đường hô hấp. Việc ngăn chặn ho sẽ làm giảm cơ chế bảo vệ quan trọng của phổi, do vậy dùng thuốc giảm ho chưa hẳn là cách tốt nhất với người bệnh, đặc biệt là trẻ nhỏ. Chỉ nên dùng thuốc giảm ho khi ho gây khó chịu, khiến cho cơ thể mệt mỏi, ho kéo dài trên 1 tuần...
Hiện trên thị trường thuốc có nhiều dạng như viên để nhai, viên nang, siro, dung dịch uống... Thuốc còn có mặt trong nhiều chế phẩm trị ho và cảm lạnh. 
Trong các chế phẩm này dextromethorphan thường được dùng phối hợp với nhiều thuốc khác như: acetaminophen (hạ sốt, giảm đau), pseudoephedrin, clorpheniramin (chống dị ứng), guaifenesin, phenylpropanolamin... 
Do có nhiều loại, nhiều dạng thuốc ho khác nhau dành cho từng đối tượng, mỗi loại có tác dụng và nhược điểm riêng. Vì vậy, dùng loại thuốc ho nào, liều lượng và thời gian dùng bao lâu cần phải theo chỉ định của bác sĩ.
Không dùng thuốc cho trẻ em dưới 2 tuổi, người dị ứng với thuốc hoặc với bất cứ thành phần nào của thuốc, người bệnh đang điều trị các thuốc ức chế monoamin oxydase (MAO) vì có thể gây những phản ứng nặng như sốt cao, chóng mặt, tăng huyết áp, chảy máu não, thậm chí tử vong.
Đối với các trường hợp cần thận trọng khi dùng thuốc này bao gồm: người bệnh bị ho có quá nhiều đờm và ho mạn tính ở người hút thuốc, hen hoặc tràn khí; Người bệnh có nguy cơ hoặc đang bị suy giảm hô hấp; Dùng dextromethorphan có liên quan đến giải phóng histamin và nên thận trọng với trẻ em bị dị ứng; Việc lạm dụng và phụ thuộc vào thuốc dextromethorphan có thể xảy ra (tuy hiếm), đặc biệt do dùng liều cao kéo dài.

Khi sử dụng thuốc một số người bệnh có thể gặp các tác dụng không mong muốn của thuốc như thấy mệt mỏi, chóng mặt, nhịp tim nhanh, buồn nôn, da đỏ bừng...  hoặc thấy buồn ngủ nhẹ, rối loạn tiêu hóa. Do thuốc có thể gây buồn ngủ nên khi dùng thuốc cần tránh dùng cùng các thuốc ức chế thần kinh trung ương và rượu.



Sử dụng thuốc mới trị lao kháng thuốc có gì đặc biệt?

Tổ chức Y tế Thế giới vừa tổ chức Hội thảo quốc tế liên khu vực tại Hà Nội về chuẩn bị áp dụng thuốc điều trị lao siêu kháng thuốc và triển khai cảnh giác dược cho các thuốc chống lao mới ở cấp quốc gia. 
Hội nghị đã thu hút gần 70 nhà khoa học, nhà quản lý đến từ 9 nước là Bangladesh, Belarus, Philippines, Indonesia, Nam Phi, Kazakhstan, Lào, Myanmar, Việt Nam và chuyên gia đến từ các tổ chức quốc tế như WHO, CDC, KNCV, MSH, USAID, Hiệp hội chống lao và bệnh phổi quốc tế, Trung tâm cảnh giác dược thế giới.
Tại hội nghị, Việt Nam được đánh giá là nước có hoạt động cảnh giác dược phát triển với việc triển khai đồng thời nhiều phương pháp theo dõi cảnh giác dược áp dụng tại Chương trình Chống lao và có thể đảm bảo được việc theo dõi, phát hiện, đánh giá, xử trí và phòng ngừa các biến cố bất lợi xảy ra khi triển khai sử dụng một thuốc mới, một phác đồ điều trị mới.
Sử dụng thuốc mới trị lao kháng thuốc có gì đặc biệt?Phác đồ điều trị mới mang lại hy vọng cho những bệnh nhân mắc lao kháng thuốc
Việc áp dụng thuốc và phác đồ điều trị lao mới mở ra một cơ hội nhằm cải thiện kết quả điều trị, tăng cơ hội sống sót cho nhiều người bệnh lao kháng thuốc mà với các thuốc lao thông thường gần như thất bại, đồng thời là cơ hội để tăng cường quản lý thuốc chống lao nói chung bao gồm các thuốc lao hiện tại đang còn tác dụng điều trị với nhiều bệnh nhân, dự phòng phát sinh các chủng vi khuẩn lao kháng thuốc.
Chấp thuận có điều kiện là chấp thuận mà nơi triển khai cần phải cung cấp dữ liệu về hiệu quả/độ an toàn của thuốc bedaquiline. Cơ quan Quản lý Dược phẩm châu Âu (EMA) vẫn đang cân nhắc từ "điều kiện" với mỗi một năm, yêu cầu phải đệ trình những báo cáo mới lên Ủy ban Các sản phẩm thuốc sử dụng cho người (CHMP) thuộc EMA bao gồm tình hình cập nhật về các giao ước đặc biệt. Sau đó, thuốc sẽ được chuyển đến trạng thái được chấp thuận toàn bộ sau khi xem xét được 5 năm.
Điều trị lao nói chung và đặc biệt là điều trị bằng thuốc mới nói riêng yêu cầu triển khai một hệ thống cảnh giác dược cho Chương trình Chống lao phối hợp và lồng ghép với hệ thống cảnh giác dược quốc gia. Vì vậy, đó cũng là cơ hội để xây dựng và phát triển hệ thống cảnh giác dược trên toàn quốc theo hướng hiện đại hóa và toàn cầu hóa, tạo điều kiện trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm giữa các đơn vị triển khai cũng như giữa các quốc gia.
Từ phía 9 quốc gia tham gia, trong đó có Việt Nam, các đại biểu đã thu nhận được những thông tin rõ ràng, không còn mơ hồ, sợ hãi khi sử dụng các thuốc mới trong điều kiện đặc biệt cho đúng đối tượng với sự theo dõi chặt chẽ và dự phòng các biến cố có thể xảy ra. Tuy nhiên, đã có những số liệu ban đầu cho thấy tính an toàn của thuốc bedaquiline và delamanid là một ví dụ khả quan. Bằng cách này, bệnh nhân của chúng ta được tiếp cận với phác đồ mới sớm nhất có thể và đó là cơ hội sống của con người.
Việc áp dụng triển khai thuốc mới và xây dựng hệ thống cảnh giác dược trong điều trị bệnh lao là thể hiện sự phối hợp và lồng ghép đòi hỏi tinh thần học hỏi, sáng tạo, hợp tác giữa chương trình chống lao với các đối tác. Các bên đều thu được những lợi ích với hợp tác thành công và đặc biệt lợi ích quan trọng nhất chính là phục vụ người bệnh tốt hơn.
Việc bắt đầu triển khai ở mỗi quốc gia có thể khác nhau tùy thuộc vào tình hình hiện tại của chương trình và mức độ phát triển của hệ thống cảnh giác dược. Ngay cả những nước chưa có cảnh giác dược trong chương trình chống lao thì thực chất cảnh giác dược đã thể hiện trong quản lý lao đa kháng - các tập huấn, biểu mẫu theo dõi và xử trí và báo cáo tác dụng phụ của thuốc cũng chính là cảnh giác dược. 
Hội thảo đã mang lại những thông tin đầy đủ cho mỗi quốc gia để quyết định đúng đắn việc sử dụng thuốc mới như thế nào. Đồng thời, các quốc gia cùng đồng thuận chia sẻ thông tin, kinh nghiệm để có một bước đi hiệu quả trong việc sử dụng các thuốc mới trong đó bắt đầu là bedaquiline, delamanid.
Chúng ta, các thầy thuốc, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách có thể đợi, nhưng người bệnh không thể chờ đợi khi mà họ đang trên đường tử vong vì không có thuốc chữa. Hiện nay, Việt Nam ước tính có khoảng 500 - 550 bệnh nhân lao không có phác đồ điều trị với nguy cơ tử vong rất cao. 
Việc tiếp cận một thuốc chống lao mới với phác đồ điều trị mới mang đến niềm hi vọng và cơ hội sống còn cho họ, đồng thời làm giảm đi nguy cơ lây truyền chủng vi khuẩn lao rất nguy hiểm cho cộng đồng. Với sự hỗ trợ của WHO và các đối tác cùng kinh nghiệm triển khai của các quốc gia đã cho thấy tính khả thi và thực tiễn của việc áp dụng triển khai này tại Việt Nam.



Trị táo bón ở phụ nữ mang thai

Việc dùng bất cứ loại thuốc nào ở phụ nữ có thai cũng phải đặc biệt thận trọng. Người bệnh cần đi khám để được bác sĩ chuyên khoa chẩn đoán và chỉ định thuốc thích hợp.

Trước hết cần phải nhấn mạnh rằng, việc dùng bất cứ loại thuốc nào ở phụ nữ có thai cũng phải đặc biệt thận trọng. Người bệnh cần đi khám để được bác sĩ chuyên khoa chẩn đoán và chỉ định thuốc thích hợp. Bác sĩ sẽ cân nhắc kỹ lợi hại và chọn lựa thuốc phù hợp, an toàn cho phụ nữ có thai.
Có nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng táo bón ở phụ nữ mang thai như do hormon thai kỳ là progesterone gây giãn và làm giảm hoạt động của nhu động ruột, do thuốc (bổ sung viên sắt trong thai kỳ), do hạn chế vận động, mệt mỏi. 
Hơn nữa, quá trình phát triển của thai nhi cũng làm gia tăng áp lực lên khung xương chậu, gây sung huyết, làm tình trạng táo bón gia tăng. Các yếu tố làm trầm trọng hơn tình trạng táo bón: nghén, đã từng bị táo bón trước đó, mắc hội chứng ruột kích thích...
Chỉ sử dụng thuốc nhuận tràng khi người bệnh đã cố gắng thay đổi chế độ ăn, lối sống nhưng vẫn không có hiệu quả. Khi sử dụng các thuốc nhuận tràng điều quan trọng là người bệnh cần phải uống nhiều nước để tăng hiệu quả của thuốc đồng thời tránh bị táo bón dội ngược.
Nhóm thuốc nhuận tràng ưu tiên sử dụng là nhuận tràng cơ học (cellulose, agar-agar, hemicellulose...) và nhuận tràng thẩm thấu (muối natri, muối magie, glycerin, sorbitol). Hạn chế sử dụng thuốc nhuận tràng làm trơn (dầu paraffin), nhuận tràng làm mềm phân (muối docusate) và không được sử dụng (chống chỉ định) với thuốc nhuận tràng kích thích (dầu thầu dầu) do làm tăng co bóp tử cung gây sẩy thai hoặc sinh non. 
Cũng không dùng các thuốc như bisacodyl, picosulfate cho phụ nữ có thai. Cần lưu ý, khi bị táo bón phụ nữ có thai cần tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi dùng thuốc.
Để cải thiện tình trạng táo bón trong thai kỳ, các bà mẹ nên có chế độ ăn cân bằng, bổ sung nhiều chất xơ như đậu, cám, ngũ cốc, trái cây tươi và rau xanh. Cần uống nhiều nước và tránh những đồ uống có chứa chất kích thích; Tập thể dục nhẹ nhàng, thường xuyên. Dành thời gian và tập thói quen đi tiêu đều đặn.



Đừng để mất sữa vì thuốc

Giảm đau nhưng lại tắc sữa
Chị Hương Thủy (ngõ 20 Ngô Gia Tự, Long Biên, Hà Nội) mới sinh con đầu lòng. Chị rất vui mừng vì sức khỏe tốt, có nhiều sữa cho con. Nhưng sau 1 tháng sinh, tuyến sữa quá nhiều, lúc nào chị cũng bị căng tức ngực, rất khó chịu và đau. 
Chị tìm hiểu, thấy thông tin thuốc cabergolin có tác dụng giảm sưng vú nên giảm đau bầu vú. Chị đã nói với chồng mua về dùng. Sau 1 tháng chị thấy đúng là hiệu nghiệm thật, không còn căng tức ngực như trước. Tuy nhiên, đồng nghĩa với việc "sướng mẹ, khổ con", nguồn sữa của mẹ cho con không còn được như trước nữa.
Khi chị gọi điện đến trung tâm tư vấn dinh dưỡng thì được biết loại thuốc đó dùng bình thường thì không sao, nhưng nếu dùng liều cao có thể làm mất hoàn toàn việc tiết sữa. Bình thường, sự tổng hợp và bài tiết sữa mẹ được điều hòa và kiểm soát chủ yếu thông qua prolactin (một hormone được bài tiết từ tuyến yên). Nồng độ của hormone này thường tăng cao nhất trong 2 tuần đầu sau đẻ, sau đó giảm dần và trở về mức bình thường sau 6 tháng.
Một số thuốc như estrogen, testosteron, progestin, pseudoephedrin và các dẫn xuất ergot như bromocriptin, ergotamin, cabergolin được ghi nhận có khả năng gây mất sữa ở người do làm giảm bài tiết prolactin từ tuyến yên hoặc ức chế hoạt tính của hormone này trên các mô tạo sữa.
Ngoài ra, một loại thuốc tên pseudoephedrin (tác dụng giảm phù nề cuống mũi và chống nghẹt mũi) cũng có thể gây ức chế tiết sữa. Mặc dù các nghiên cứu về tác dụng của thuốc này đối với việc tiết sữa vẫn đang tiếp tục nhưng các bà mẹ đang nuôi con vẫn nên hết sức thận trọng khi sử dụng, đặc biệt trong những tháng cuối của thời gian cho con bú, khi nguồn sữa đã giảm.
Lưu ý: Một số thuốc dùng cho mẹ có thể kìm hãm bài tiết sữa, làm mất sữa: thuốc lợi tiểu thiazid, vitamin B6 (liều cao), metoclopramid, domperidon, ergotamin (tamic), các thuốc chữa bệnh parkingson, thuốc tránh thai có chứa estrogen (phụ nữ cho con bú nên sử dụng thuốc tránh thai chỉ chứa progesteron đơn độc).
Kích thích tuyến sữa
Một số thuốc ức chế các thụ cảm thể dopamin ở vùng dưới đồi như: Metoclopramide, Domperidon, Risperidon hoặc các dẫn xuất của nhóm phenothiazin có thể gây tăng tiết prolactin từ tuyến yên và kích thích việc tạo sữa. Trong đó, Metoclopramide và Domperidon là hai loại thuốc được sử dụng nhiều nhất cho mục đích này:
1. Metoclopramide với liều thường sử dụng là 10-15mg, 3 lần mỗi ngày, thuốc làm tăng rõ rệt lượng sữa bài tiết, một số trường hợp có thể tăng gấp đôi. Lượng thuốc được bài tiết qua sữa rất nhỏ, thường không đủ để gây ảnh hưởng đối với trẻ. Tuy vậy, cần lưu ý các tác dụng phụ hay gặp nhất đối với bà mẹ là biểu hiện trầm cảm và co thắt dạ dày.
2. Domperidon cũng là một thuốc kích thích bài tiết prolactin nhưng an toàn hơn so với metoclopramide vì không qua hàng rào máu não và do đó không có các tác dụng phụ. Thuốc này có thể làm tăng thể tích sữa khoảng 44,5% sau 7 ngày dùng, nồng độ của thuốc trong sữa cũng rất nhỏ (khoảng 1,2 nanogam/ml).
Lưu ý: Các thuốc giúp tăng tiết sữa chỉ có tác dụng với một số người có nồng độ hormone prolactin thấp, nhỏ hơn 100 nanogam/ml.



Những loại thuốc dùng ngay mà bạn nên biết

Những người có tiền sử bị những bệnh dưới đây nên dự phòng sẵn những loại thuốc "cấp cứu" này trong tủ thuốc của gia đình hoặc luôn mang theo bên mình.

thuoc
Thuốc trị hen
Hẹn phế quản là hội chứng viêm mạn tính đường hô hấp, có gia tăng tính phản ứng của phế quản với các tác nhân gây kích thích, gây nên tình trạng co thắt, phù nề, tăng xuất tiết ở phế quản, làm tắc nghẽn đường thở.
Bệnh có thể do dị ứng (bụi, phấn hoa, lông vũ, thực phẩm) hoặc không do dị ứng (nhiễm khuẩn, rối loạn nội tiết, gắng sức, dùng thuốc chống viêm không steroid) ở người hen do dị ứng, khi tiếp xúc với dị nguyên, rất nhiều chất trung gian hóa học được giải phóng từ dưỡng bào (tế bào mastocyt), gây nhiều tác dụng ở phế quản và các nơi khác trong cơ thể.
Đã hen thì phải dùng thuốc và phải dùng ngay, không chậm trễ. Vì bệnh hen là bệnh rất dễ xảy ra biến chứng. Nếu cơn hen không được khống chế, bạn có thể rơi vào tình trạng nguy kịch. Vì vậy, bạn cần có thuốc sẵn ở trong nhà. Một trong những loại thuốc cần có để dùng ngay cấp tốc là một lọ thuốc xịt chống hen. Bạn có thể ra ngoài quầy thuốc hoặc liên hệ với bác sĩ điều trị kê đơn.
Những thuốc này không được câu nệ là dùng trước ăn hay sau ăn. Bất cứ khi nào bệnh xảy ra, bạn đều có thể dùng. Để không muốn ai biết bệnh của bạn, bạn chỉ cần lịch sự quay người đi, đưa lọ xịt lên miệng, ngậm kín, xịt mạnh rồi hít thật mạnh, cơn hen sẽ được khống chế dễ như không. Nhưng bạn cần chú ý, ngay khi có triệu chứng khó thở, rít lên, bạn phải dùng ngay thì coi như việc điều trị hen chỉ đúng như là việc nhấp một chén trà lên vậy.
Thuốc huyết áp cao
Huyết áp cao là do tim bơm máu đi nuôi các cơ quan của cơ thể qua những hệ thống mạch máu gọi là động mạch. Ví như một máy bơm nước đẩy nước qua các ống dẫn. Khi máu được tim bơm đầy, và chảy trong lòng các mạch máu, sức ép của máu vào thành thay mạch máu sẽ tạo một áp suất gọi là áp huyết. Áp huyết thay đổi tùy lúc, và tùy các hoạt động của cơ thể. Huyết áp xuống thấp hơn lúc ta ngủ, nghỉ và lên cao hơn khi tinh thần ta kích động, buồn bực hoặc trong lúc ta tập thể dục, chơi thể thao...
Bệnh huyết áp cao nguy hiểm, đưa đến những biến chứng nghiêm trọng như tai biến mạch máu não, chết cơ tim cấp tính, suy tim, suy thận. Huyết áp cao còn rút ngắn tuổi thọ. Khổ cái, trong đa số các trường hợp bệnh không gây triệu chứng. Nhiều người không biết mình mang bệnh, tình cờ đi thăm bác sỹ vì một lý do gì khác, được bác sĩ cho biết bị huyết áp cao. Cho nên, bệnh này nổi danh là một "căn bệnh thầm lặng''.
Khi huyết áp tăng cao, thấy bốc hỏa, nóng bừng, nhức đầu, đau nhói, mạch máu giật giật mạnh vùng thái dương, hãy đo huyết áp ngay. Nếu chỉ số huyết áp tối đa cao từ 200mmHg trở lên, ngậm ngay 1 viên adalat 10mg. Đây là thuốc công hiệu hạ áp nhanh. Nếu có thuốc dạng gel, bạn chọc một lỗ nhỏ bằng cây kim khâu, bóp nhẹ, nhỏ 1 giọt vào dưới lưỡi thay vì ngậm thuốc viên. Vậy là huyết áp hạ xuống.
Tiếp sau đó là gọi điện hoặc đến bác sĩ riêng để có hướng xử trí an toàn tiếp theo. Và dĩ nhiên đối với người tăng huyết áp đã phải dùng thuốc cần phải dùng thuốc thường xuyên, hàng ngày như cơm bữa để bình ổn huyết áp. Khi huyết áp bình ổn bạn sẽ không phải dùng thuốc cấp cứu nữa.
Thuốc chống dị ứng
Dị ứng là bệnh gặp khá phổ biến. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, không phân biệt giới, vùng, miền. Bệnh không phải là bệnh truyền nhiễm, tuy vậy bệnh hay tái phát, nhất là lúc thời tiết chuyển mùa. Có nhiều yếu tố gây bệnh (bên trong, bên ngoài cơ thể, cơ địa) và trên một bệnh nhân, nhiều khi không chỉ có một mà gồm nhiều yếu tố cùng kết hợp. Vì vậy, nếu xác định được nguyên nhân thì việc chỉ định thích hợp và phòng tái phát cũng thuận lợi hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, ăn, uống cũng đóng góp khá tích cực trong việc phòng bệnh mề đay tái phát. Người bị bệnh mề đay nên kiêng các loại thức ăn dễ gây bệnh mề đay như tôm, cua, ốc… Không nên uống rượu, bia bởi vì đây là yếu tố thuận lợi cho bệnh mề đay tái phát. Dị ứng phấn hoa, bụi phấn, bụi mạt cứ lơ lửng trong không khí... là những dị nguyên gây ra dị ứng.
thuoc1
Những người có tiền sử bị dị ứng cần chuẩn bị sẵn sàng thuốc chống dị ứng là có thể ổn định như Clorpheniramin, Telfast. Nếu không có thuốc bạn sẽ khó chịu và không thể ngồi yên được. Vì vậy, khi có biểu hiện dị ứng (ngứa da, nổi mẩn hoặc sụt sịt mũi), chỉ cần dùng ngay 1 liều Clorpheniramin hoặc Telfast. Sau 30 phút, bạn sẽ thấy đỡ ngay. Sau 2 giờ thì bạn hoàn toàn bình thường. Nhưng cần lưu ý là Clorpheniramin sẽ gây buồn ngủ.
Thuốc cắt nhịp nhanh
Tình trạng rối loạn nhịp tim xuất hiện là do có các vấn đề trong hệ thống điện tim - hệ thống này có trách nhiệm điều hòa nhịp đập của tim. Nhịp đập bình thường của tim là đều đặn và bền chắc. 
Nhịp đập bất thường có thể là quá nhanh hoặc quá chậm, nó có thể vẫn đập đều hoặc không đều và loạn nhịp rất đáng sợ. Bạn gần như không còn đủ sức làm bất cứ thứ gì. Đang ngồi ở nhà, bạn cũng phải gục xuống. Mức nhịp tim nhanh có thể dẫn tới ngất khi tim co bóp rỗng, đe dọa tính mạng rất đáng sợ và nguy hiểm. Nhưng sự cố này lại có thể chống cự ngay chỉ với một liều thuốc.
Lúc đó không thể đợi gọi bác sĩ hay nhân viên y tế. Điều cần làm lúc này đó là với lấy một liều thuốc cắt nhịp tim nhanh. Thuốc chống nhịp nhanh cấp cứu không được dùng bừa bãi nhưng cũng không được trì hoãn. Nhớ chỉ dùng trong trường hợp cấp cứu và phải thật khẩn trương. Đó là thuốc Cordarone. Ngậm ngay dưới lưỡi 1 viên thuốc. Sau đó chừng dăm phút là nhịp đã giảm, chừng 15 phút sau bạn thấy êm và sau 1 giờ thì bạn hoàn toàn thoát khỏi. Sau đó, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ để được hướng dẫn dùng thuốc an toàn.



Thuốc chữa tiểu đường làm chậm lão hóa, tăng tuổi thọ

Metformin - thuốc được dùng để điều trị bệnh tiểu đường tuýp 2 đã được chứng minh có khả năng làm chậm quá trình lão hóa và tăng tuổi thọ, theo nghiên cứu của Viện hàn lâm Khoa học Anh.

thuoc chua tieu duong
Metformin thuộc nhóm thuốc được gọi là biguanide, có tác dụng giúp các bệnh nhân bị tiểu đường tuýp 2 kiểm soát lượng đường trong máu bằng cách giảm lượng glucose hấp thụ từ thức ăn và mức độ glucose được sản xuất bởi gan. Nó cũng làm tăng phản ứng tự nhiên của cơ thể với insulin.
Theo nghiên cứu mới được tiến hành bởi nhóm nghiên cứu của Wouter De Haes đến từ Đại học Công giáo Leuven (KU Leuven) tại Bỉ, Metformin có thể ngăn chặn quá trình lão hóa.
Để đạt được kết quả này, nhóm nghiên cứu đã tiến hành một loạt các thí nghiệm trên giun tròn Caenorhabditis elegans - đây được coi là mô hình nghiên cứu lý tưởng bởi tuổi thọ của chúng chỉ kéo dài 3 tuần.
Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng, Metformin làm tăng số lượng các phân tử độc hại được sản sinh trong các tế bào của sâu và chúng làm tăng sức mạnh cũng như kéo dài tuổi thọ của chúng.
Tác giả nghiên cứu cho biết: "Những chú giun được thử nghiệm cho thấy chúng có ít nếp nhăn hơn, sống lâu và khỏe mạnh hơn".
Giải thích về cơ chế làm việc của Metformin, các nhà khoa học cho biết, các tế bào của cơ thể lấy năng lượng từ ti thể - các "cường quốc" trong mỗi tế bào kích hoạt dòng điện nhỏ. Quá trình này có thể tạo ra các phân tử ôxy phản ứng cao.
Các phân tử này có thể gây hại cho cơ thể. Chúng có thể làm hư hại các protein và DNA, gây trở ngại cho chức năng của tế bào bình thường. Nhưng nhóm nghiên cứu cho biết, các phân tử cũng có thể có lợi với số lượng nhỏ.
Metformin làm tăng lượng ít các phân tử ôxy có hại. Tuy nhiên, điều này làm cho các tế bào mạnh mẽ hơn và có thể kéo dài tuổi thọ cũng như sức khỏe của họ.
Những phát hiện này hứa hẹn sẽ tìm ra cách chống lão hóa hiệu quả, song các nhà khoa học cũng nhấn mạnh rằng cần có thêm nhiều nghiên cứu hơn nữa để làm được điều này.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons