Thứ Bảy, 18 tháng 7, 2015

Tìm ra kháng thể diệt virut gây sốt xuất huyết

Các nhà khoa học thuộc Trường Y Duke-NUS đã phát hiện một kháng thể mới có thể tiêu diệt virut gây sốt xuất huyết DENV-2, một trong hai loại huyết thanh sốt xuất huyết phổ biến ở Singapore.

Nghiên cứu này là bước đột phá mới trong việc tìm ra phương cách chữa trị dứt điểm bệnh sốt xuất huyết.
​Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát triển một loại thuốc tổng hợp có thể tiêu diệt virut gây bệnh sốt xuất huyết, sau khi đã tìm ra kháng thể huyết thanh DENV-1 vào năm 2012 và DENV-3 vào tháng 2/2015.
​Theo các nhà khoa học, virut DENV-2 phức tạp hơn các huyết thanh khác do nó tự biến đổi cấu trúc của mình trong cơ thể người, ngăn cản các kháng thể khác gắn kết với cấu trúc mới.
​GS Lok Shee-Mei, người đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết, kháng thể DENV-2 mới có thể điều trị sốt xuất huyết trước và sau khi nhiễm, cũng như điều trị cho những bệnh nhân từng nhiễm các virut gây bệnh sốt xuất huyết khác



Cách dùng một số loại xà phòng sát khuẩn

Hay phối hợp thêm chất hexaclorophen là chất kìm khuẩn mạnh. Xà phòng và chất tẩy uế chứa 3% hexaclorophen có tác dụng kìm khuẩn mạnh và lâu bền vì giữ lại ở lớp sừng của da.

Nhưng dùng nhiều lần có thể bị nhiễm độc, nhất là ở trẻ nhỏ. Dùng thường xuyên xà phòng này có thể làm giảm mùi của cơ thể do ngăn ngừa được sự phân hủy của vi khuẩn với các chất hữu cơ có trong mồ hôi. Các loại xà phòng này có thể gây dị ứng hoặc mẫn cảm với ánh sáng.
Các thuốc sát khuẩn sau khi pha chế, đóng gói phải dán nhãn theo đúng quy chế và ghi trên nhãn dòng chữ "không được uống". Thuốc sát khuẩn tùy từng loại và ở những nồng độ khác nhau sẽ có tính chất rất khác nhau đối với vi khuẩn. 
Vì vậy phải sử dụng theo đúng quy định ở nồng độ thích hợp đối với từng loại hoạt chất. Nếu dùng sai sẽ không đem lại hiệu quả sát khuẩn mà còn khiến vi khuẩn sinh sôi mạnh hơn. 
Các thuốc sát khuẩn tốt có tác dụng diệt khuẩn còn nhanh hơn thuốc kháng sinh nên trong một số trường hợp người ta có thể dùng chúng để tiêu diệt vi khuẩn tại chỗ như nước súc miệng, dung dịch bôi rửa vết thương... 
Nguyên tắc dùng thuốc sát khuẩn ở da lành cần rửa sạch chất nhờn sau đó bôi thuốc sát khuẩn lên da ở vị trí cần sát khuẩn. Nếu trên da có vết thương cần phải làm sạch vết thương sau đó rửa bằng nước diệt khuẩn và chọn bôi thuốc tùy theo pH vết thương.



Cấm không dùng aspirin cho trẻ em, vì sao?

Ngoài tác dụng giảm đau, hạ sốt, aspirin còn có tác dụng như thuốc chống viêm và làm loãng máu.Nhiều tác dụng là thế, nhưng aspirin có những tác dụng không mong muốn đáng ngại.




Vì vậy, các nhà chuyên môn đã có nhiều khuyến cáo không dùng aspirin trong một số trường hợp, đặc biệt là trẻ em, do thuốc gây ra các rối loạn nguy hiểm.
Trong mùa hè, trẻ dễ mắc sốt virut với bệnh cảnh sốt cao liên tục, li bì. Nhiều người đã cho con dùng paracetamol với liều cao nhất có thể so với cân nặng của con mà thân nhiệt chỉ hạ chút rồi lại lên cao. 
Trong trường hợp này, họ đã tìm đến giải pháp cho con dùng thêm thuốc giảm đau, hạ sốt aspirin.Tuy nhiên, đây lại là loại thuốc dễ gây cho trẻ nhiều phiền toái. 
Tại nhiều nước châu Âu, đặc biệt là ở Anh, kể từ năm 1986 đã cấm sử dụng aspirin cho trẻ dưới 12 tuổi vì nguy cơ gây hội chứng Reye. 
Gần đây, Cơ quan Quản lý Dược phẩm của Anh (MCA) lại đưa ra thêm khuyến cáo trẻ dưới 16 tuổi không được dùng aspirin trong giai đoạn bị sốt. Điều đó cho thấy, trẻ em dùng aspirin sẽ phải đối diện với nhiều nguy cơ.
Cấm không dùng aspirin cho trẻ em, vì sao?
Không cho trẻ dùng aspirin khi chưa có chỉ định và sự theo dõi của thầy thuốc.
Những bệnh cảnh có thể gặp khi trẻ em dùng aspirin
Aspirin thúc đẩy hội chứng Reye
Hội chứng Reye là một bệnh rất hiếm gặp, chủ yếu xảy ra ở trẻ từ 4-14 tuổi, có liên quan trực tiếp đến não và gan của bé. Bệnh sẽ gây ra hiện tượng phù não, thoái hóa tế bào thần kinh não, suy gan... 
Bệnh bắt đầu với triệu chứng thở nhanh và lượng đường trong máu thấp, sau đó là nôn dữ dội, thậm chí có thể khiến trẻ bị co giật hoặc hôn mê.Nếu không được cứu chữa kịp thời, trẻ sẽ tử vong sau vài giờ. 
Nếu được điều trị ngay, trẻ có thể hồi phục nhưng thường để lại khuyết tật nhẹ hay di chứng về não. Nguyên nhân gây nên hội chứng này còn khá nhiều tranh cãi. 
Tuy nhiên, người ta nhận thấy rằng những trẻ bị Reye thường có nồng độ aspirin hay dẫn chất có gốc salicylat trong máu khá cao và việc cho trẻ dùng aspirin khi bị sốt có thể là yếu tố dẫn đến bệnh. Vì vậy, khi trẻ bị nhiễm virut không được dùng aspirin, nếu lỡ dùng thì khi trẻ có các biểu hiện bất thường, cần nhập viện ngay để được điều trị.
Gây rối loạn cân bằng đông máu
Aspirin làm giảm tập kết tiểu cầu, chống đông máu. Điều này có lợi cho người bệnh tim mạch để ngăn ngừa đông máu, nhưng lại gây hại cho người đang bị hay có nguy cơ chảy máu, do làm giảm sự vững bền của mao mạch, gây xuất huyết, kéo dài thời gian chảy máu. 
Với trẻ bình thường, dùng aspirin nhiều lần sẽ gây rối loạn cân bằng đông máu, chảy máu. Với trẻ em bị chảy máu, có ban xuất huyết dưới da hay mắc sốt xuất huyết thì dùng aspirin càng nguy hiểm. Đặc biệt, với sốt xuất huyết, sẽ có xuất huyết đường tiêu hóa, không cầm được chảy máu, dẫn đến tụt huyết áp, trụy tim mạch, tử vong.
Aspirin gây viêm loét dạ dày
Ở trẻ em, do niêm mạc dạ dày chưa phát triển hoàn thiện, có sự phân tiết acid thấp.Trong khi đó, aspirin sẽ trực tiếp làm tăng acid dạ dày, gây cồn cào khó chịu, hủy hoại các tế bào biểu mô. 
Đồng thời, aspirin còn ức chế COX-1 (cyclo-oxygenase-1) làm giảm tiết các prostaglandin (PG), từ đó không sinh ra đủ các chất bảo vệ (chất keo, natri bicarbonat), tăng sự tiết dịch vị làm niêm mạc dạ dày tá tràng bị bào mòn, dẫn đến loét và xuất huyết dạ dày.
Nguy cơ tăng huyết áp và hại thận
Do aspirin ức chế COX-1 làm giảm PG-I2, tăng giải phóng rennin nên sẽ gây tăng huyết áp. Mặt khác, aspirin thải trừ chủ yếu qua thận, mà ở trẻ em, do chức năng lọc của cầu thận và thải trừ thuốc qua ống thận kém, nên khi dùng aspirin, thuốc bị thải trừ chậm, dễ gây độc. 
Trẻ nhỏ dùng aspirin lặp lại nhiều lần càng dễ xảy ra các tai biến: rối loạn chức năng tiểu cầu thận, viêm thận mô kẽ, hoại tử nhú thận, suy thận cấp, tăng kali máu...
Gây dị ứng và bệnh hô hấp
Trẻ em có hệ miễn dịch còn non nớt nên thường hay bị dị ứng. Việc dùng aspirin có thể gây dị ứng cho bé, có khi nhẹ (nổi mày đay, ban xuất huyết) nhưng có khi rất nặng (sốc phản vệ). 
Hơn nữa, aspirin có thể gây ảnh hưởng xấu đến hệ hô hấp của trẻ, khiến trẻ giảm hoặc suy hô hấp, đặc biệt gây co thắt phế quản, làm nặng thêm bệnh hen.
Người bệnh cần lưu ý
Dùng aspirin có nhiều nguy cơ cho trẻ, nhưng đây lại là loại thuốc trị bệnh tốt, nên trong một số trường hợp, việc điều trị bằng aspirin là điều không thể tránh khỏi, như: điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp thiếu niên, thấp do liên cầu khuẩn, bệnh tim liên quan đến huyết khối, hội chứng Kawasaki...
Những trường hợp cho trẻ dùng aspirin phải do thầy thuốc chỉ định và được theo dõi chặt chẽ trong quá trình dùng thuốc. Khi uống aspirin, nên dùng viên bao tan ở ruột dạng aspirin pH8 hoặc viên phóng thích kéo dài, nên uống sau khi ăn và uống với thật nhiều nước, để hạn chế tác hại cho dạ dày. 
Không nên nghiền nát hoặc bẻ nhỏ thuốc khi uống. Khi đang dùng aspirin, trẻ gặp bất kỳ trường hợp nào liên quan chống chỉ định của thuốc (nhiễm virut, chảy máu, lên cơn hen, dị ứng...) cần ngừng dùng thuốc và báo ngay cho bác sĩ để xử trí kịp thời.




Rước sỏi vào người vì uống can xi, vitamin bừa bãi

Thấy đồng nghiệp thi nhau gửi mua vitamin tổng hợp, vitamin D xách tay từ Mỹ về, chị Hoa (Cầu Giấy) cũng cố gửi mua cho bằng được. Đều đặn mỗi ngày chị uống 2 viên loại 1.200 đơn vị.

Người khỏe mạnh bình thường có cần bổ sung vitamin?
Nguy cơ suy thận
Vừa đặt chai nước râu ngô, bông mã đề xuống bàn làm việc, chị Hoa vừa thở hắt vừa than phiền, đúng là bỏ tiền mua bệnh vào thân, không dại nào giống cái dại nào khi mà cứ ngỡ thuốc bổ là tốt, ai dè…
“Nghe bạn bè rủ, lại thấy trên mạng rao bán những loại vitamin có tác dụng hạn chế lão hóa, chống loãng xương, tăng cường độ dẻo dai nên giá thành không hề rẻ tôi vẫn quyết định mua về dùng.
Không bổ ngang thì bổ dọc, nhất là với cơ thể của đàn bà qua hai lần sinh nở, ngấp nghé tuổi tiền mãn kinh. Thế là đều đặn trong 2 năm trời tôi mỗi ngày làm 2 viên vitamin tổng hợp và 1 viên canxi loại 1.200 đơn vị” - chị Hoa kể lại.
Sẽ không có chuyện gì xảy ra nếu một ngày cách đây 2 tháng chị bắt đầu xuất hiện từng cơn đau, đầu tiên đau ở hai hố thắt lưng, rồi lan ra bụng, xuống bụng dưới và xuống đùi. Thậm chí đi tiểu ra máu. Lúc này chị mới hốt hoảng đến viện và té ngửa khi bác sĩ kết luận chị bị sỏi thận, nguy cơ suy thận nếu đến viện muộn hơn.
Chị Hoa cho biết thêm nghe các bác sĩ giải thích sỏi thận nếu không được điều trị thì nguy cơ thận bị tổn thương do sự viêm nhiễm của sỏi thận gây nên khiến chị hoảng sợ. Bởi từ đây thận có thể bị suy, tạo ra một loạt biến chứng nguy hiểm. 
Đa phần các trường hợp bị sỏi đường tiết niệu là do sự lắng đọng các khoáng chất (oxalat, canxi, vitamin C, acid uric, photpho...), trong khi lượng nước đào thải qua thận ít hoặc rất ít sẽ làm lắng đọng các khoáng chất gây nên cặn thận, sỏi thận.
Đặc biệt, trong các loại sỏi thận thì sỏi canxi là loại hay gặp nhất, chiếm khoảng 80 - 90% các trường hợp sỏi thận. Lý do là lượng canxi dư thừa trong cơ thể không sử dụng hết và được loại bỏ qua thận, lượng dư thừa này thường chảy vào nước tiểu.
Nếu canxi không được đưa ra ngoài, hoặc đơn giản là quá nhiều để có thể hòa tan trong nước tiểu, nó sẽ rắn lại và kết hợp với các khoáng chất khác tạo thành sỏi. Sỏi canxi thường xuất hiện ở những người có lượng vitamin D cao. Những người bị suy thận thường có khả năng bị sỏi canxi.
Không tự ý sử dụng
BS Nguyễn Duy Đông, Bộ môn Dinh dưỡng, BV quân y 103 cho rằng, canxi là thành phần thiết yếu với cơ thể. Nó giữ nhiều chức năng: phát triển hệ xương, răng; giữ cân bằng nội môi... Tự ý bổ sung canxi, vitamin D mà không theo hướng dẫn của bác sĩ sẽ dẫn đến nguy cơ hình thành sỏi thận gây suy thận nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
BS Đông cũng ái ngại cho rằng việc tự ý mua các thuốc, sản phẩm bổ sung nói chung ở nước ta vẫn còn bừa bãi, phổ biến không theo hướng dẫn của nhân viên y tế hoặc nhân viên y tế không đúng chuyên môn. Điều này không những không điều trị đúng bệnh mà còn để lại hậu quả khôn lường như quá liều dẫn đến nhiễm độc, hoặc không đủ liều không có hiệu lực điều trị...
Thông thường có hai nhóm vitamin là nhóm tan trong dầu và nhóm tan trong nước. Cả hai nhóm đều rất thiết yếu với cơ thể con người. Nếu một người khỏe mạnh, không có bệnh gì với một chế độ ăn cân bằng đa dạng thì cơ thể sẽ không sợ bị thiếu vitamin.
Tuy nhiên với những người có thể trạng không tốt, sau những đợt ốm bệnh, chế độ ăn không cân bằng cơ thể dễ bị mất hay thiếu vitamin thì việc bổ sung là cần thiết. Tuy nhiên, việc bổ sung quá liều cũng sẽ gây nguy hại ngay cả với người cần được bổ sung. Theo đó, tùy loại thừa vitamin nào sẽ có biểu hiện riêng từ nhẹ đến nặng khác nhau.
Bổ sung thêm, PGS.TS Nguyễn Thanh Chò, Chủ nhiệm Bộ môn Dinh dưỡng, BV quân y 103 cho biết trong các loại vitamin thì việc thừa vitamin D, A hay được nhắc đến nhiều nhất. Bởi thiếu vitamin D cũng ảnh hưởng đến hệ cơ xương của cơ thể. Nhưng thừa vitamin D cũng như thừa vitamin A lại gây ra những nguy hiểm hơn nhiều các loại vitamin khác.
Vì thế nếu người lớn tùy tiện uống không theo chỉ dẫn của bác sĩ rất nguy hiểm. Chất nào quá gây bất thường đều không có lợi cho cơ thể. Theo đó, uống quá nhiều vitamin D hoặc viên canxi có thể gây táo bón….gây rối loạn chuyển hóa, gây lắng đọng ở thận gây sỏi thận. Điều này khiến mất cân bằng chất ion, chất khoáng trong cơ thể.
Các chuyên gia cũng cho biết thêm thừa vitamin D còn đặc biệt nguy hại ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ rất nhạy cảm dễ có biến chứng nặng nề. Theo đó, nếu trẻ dùng vitamin D liều cao dài ngày sẽ gây tích luỹ thuốc, làm tăng calci trong máu, khiến trẻ mệt mỏi, chán ăn, nôn, tiêu chảy, đau nhức xương khớp, bàng quang, luôn khát và tiểu nhiều.
Ngoài ra còn có thể gây tổn thương thận, tăng huyết áp. Đặc biệt ở trẻ em thừa viatmin D hay có hiện tượng có lớp màng che ở kết mạc hoặc triệu chứng viêm giác mạc dải băng (cần được chỉ định phẫu thuật ngay). 
Ở một số trường hợp ngộ độc cấp nếu cha mẹ tùy tiện cho uống dài ngày các loại bổ sung vitamin và chất khoáng, trong đó có chứa vitamin D liều cao, hoặc cho trẻ uống cùng lúc các loại thuốc có chứa vitamin D nếu liều lượng lên đến 50.000 IU có thể khiến trẻ suy thận, tử vong.
Vì thế, PGS Chò khuyến cáo, người dân không nên hiểu bất kỳ loại vitamin nào cũng là thuốc bổ và được sử dụng thoải mái mà không cần sự chỉ dẫn của bác sĩ. 
Nó có thể là thuốc bổ với trường hợp này trong một thời điểm cụ thể nhưng lại là thuốc độc đối với trường hợp khác ở một tình trạng sức khỏe khác. Vì thế, người dân tuyệt đối không uống theo sự mách bảo của bạn bè, càng không nên uống theo trào lưu thay vào đó nên đến bác sĩ để xem cơ thể thiếu chất gì mới bổ sung chất đó.



Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2015

Thuốc an thần Benzodiazepine có thực sự hiệu quả?

Nhóm thuốc an thần benzodiazepine được sử dụng rộng rãi để điều trị cho các bệnh nhân có chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương tâm lý (PTSD). 

Tuy nhiên, theo kết luận trên tờ Journal of Psychiatric Practice được xuất bản bởi Wolters Kluwer vào tháng 7 cho thấy, thuốc benzodiazepine không có tác dụng hiệu quả, thậm chí còn gây hại đến sức khỏe của bệnh nhân.
TS Jeffrey Guina và các đồng nghiệp tại ĐH Wright State, Dayton, Ohio, Mỹ cho biết: "Benzodiazepine không hiệu quả trong việc phòng chống và điều trị PTSD mà còn dẫn đến các nguy cơ có hại cho sức khỏe”. 
Họ cũng tìm ra các bằng chứng cho thấy rằng việc sử dụng các thuốc benzodiazepine ở bệnh nhân chấn thương gần đây thậm chí còn có thể làm tăng nguy cơ phát triển PTSD.
Thuốc an thần benzodiazepine không có tác dụng điều trị bệnh PTSD
Thuốc an thần benzodiazepine không có tác dụng điều trị bệnh PTSD
Benzodiazepine hiện là thuốc điều trị PTSD "phổ biến và gây tranh cãi”. Một số chuyên gia sức khỏe tâm thần cho rằng benzodiazepine có thể giảm bớt chứng lo âu, mất ngủ, dễ bị kích thích của PTSD. 
Một số khác lại cho rằng benzodiazepine thực sự có thể làm kéo dài và trầm trọng thêm các rối loạn thần kinh”. 
Các nhà nghiên cứu đã thực hiện tổng quan hệ thống để xác định các thử nghiệm lâm sàng và các nghiên cứu quan sát liên quan đến việc sử dụng thuốc benzodiazepine ở những bệnh nhân PTSD hoặc những bệnh nhân bị chấn thương gần đây được chẩn đoán là có thể mắc PTSD.
Việc phân tích tổng quan được xác định trên 18 nghiên cứu gồm 5.200 người đã trải qua các chấn thương về thể chất, chấn thương đe dọa mạng sống, chấn thương liên quan đến chiến đấu, chấn thương tình dục và các chấn thương liên quan đến thiên tai. 
Dựa trên bằng chứng từ các nghiên cứu này, thuốc benzodiazepine thực sự không có tác dụng cải thiện hoặc có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng trầm cảm, nóng nảy ở những bệnh nhân PTSD. 
TS Guina và các đồng tác giả cho biết: "Những nghiên cứu này đưa ra dữ liệu đầy đủ cho thấy nguy cơ phát triển PTSD từ 2 đến 5 lần ở nhóm sử dụng thuốc benzodiazepine so với nhóm không dùng thuốc”.
Các nhà nghiên cứu cũng cho biết thêm cần thực hiện nhiều nghiên cứu hơn nữa để kết luận rằng benzodiazepine làm trầm trọng thêm bệnh PTSD. 
Dựa trên những bằng chứng về nguy cơ tiềm ẩn của thuốc, các nhà khoa học khuyến cáo nên sử dụng các phương pháp điều trị khác cho bệnh PTSD như tâm lý liệu pháp, thuốc chống trầm cảm và thuốc ức chế adrenergic.

Ợ nóng, dùng thuốc gì?

Thứ Năm, 16 tháng 7, 2015

Cách dùng một số loại xà phòng sát khuẩn

Hay phối hợp thêm chất hexaclorophen là chất kìm khuẩn mạnh. Xà phòng và chất tẩy uế chứa 3% hexaclorophen có tác dụng kìm khuẩn mạnh và lâu bền vì giữ lại ở lớp sừng của da.

Nhưng dùng nhiều lần có thể bị nhiễm độc, nhất là ở trẻ nhỏ. Dùng thường xuyên xà phòng này có thể làm giảm mùi của cơ thể do ngăn ngừa được sự phân hủy của vi khuẩn với các chất hữu cơ có trong mồ hôi. Các loại xà phòng này có thể gây dị ứng hoặc mẫn cảm với ánh sáng.
Các thuốc sát khuẩn sau khi pha chế, đóng gói phải dán nhãn theo đúng quy chế và ghi trên nhãn dòng chữ "không được uống". Thuốc sát khuẩn tùy từng loại và ở những nồng độ khác nhau sẽ có tính chất rất khác nhau đối với vi khuẩn. 
Vì vậy phải sử dụng theo đúng quy định ở nồng độ thích hợp đối với từng loại hoạt chất. Nếu dùng sai sẽ không đem lại hiệu quả sát khuẩn mà còn khiến vi khuẩn sinh sôi mạnh hơn. 
Các thuốc sát khuẩn tốt có tác dụng diệt khuẩn còn nhanh hơn thuốc kháng sinh nên trong một số trường hợp người ta có thể dùng chúng để tiêu diệt vi khuẩn tại chỗ như nước súc miệng, dung dịch bôi rửa vết thương... 
Nguyên tắc dùng thuốc sát khuẩn ở da lành cần rửa sạch chất nhờn sau đó bôi thuốc sát khuẩn lên da ở vị trí cần sát khuẩn. Nếu trên da có vết thương cần phải làm sạch vết thương sau đó rửa bằng nước diệt khuẩn và chọn bôi thuốc tùy theo pH vết thương.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons