Thứ Năm, 16 tháng 7, 2015

Thực phẩm cấm dùng khi uống thuốc chống đông máu

Thuc pham cam dung khi uong thuoc chong dong mau
Các chuyên gia cho biết, thuốc chống đông máu được kê cho người mắc bệnh tim mạch, đột quỵ có tác dụng làm cho máu loãng hơn, ngăn ngừa tạo máu đông bất thường trong cơ thể. 
Những người sử dụng thuốc cần đặc biệt lưu ý đến các loại thực phẩm ăn vào bởi việc cung cấp quá nhiều vitamin K dễ làm giảm hiệu quả của thuốc. Ước tính, nam giới trưởng thành chỉ cần nạp khoảng 120mcg trong khi phụ nữ chỉ cần 90mcg.
Thuc pham cam dung khi uong thuoc chong dong mau-Hinh-2
Trà xanh. Trà xanh là thức uống lành mạnh song những người đang sử dụng thuốc chống đông nên hạn chế thưởng thức chúng. Nguyên nhân bởi trong trà chứa lượng lớn vitamin K dễ làm giảm hiệu quả của thuốc, dễ gây hiện tượng đông máu không mong muốn.
Thuc pham cam dung khi uong thuoc chong dong mau-Hinh-3
Nước việt quất. Việt quất được xem là một trong thực phẩm cần hạn chế khi đang sử dụng thuốc. Nếu đi vào cơ thể chúng gây tình trạng loãng máu quá mức, thậm chí dẫn đến xuất huyết nội.
Thuc pham cam dung khi uong thuoc chong dong mau-Hinh-4
Rượu. Không chỉ với nhóm người sử dụng thuốc chống đông, bất kỳ loại thuốc nào cũng không nên kết hợp với rượu. Nguyên nhân bởi các thành phần trong rượu làm giảm hiệu lực của thuốc; uống nhiều rượu còn dễ đầu độc cơ thể.
Thuc pham cam dung khi uong thuoc chong dong mau-Hinh-5
Thực phẩm giàu chất béo omega - 3. Omega - 3 trong hạt bí ngô, đậu nành, quả óc chó… tỏ ra ưu việt trong nỗ lực ngừa ung thư song lại bị liệt vào danh sách thực phẩm cấm kỵ dành cho người dùng thuốc chống đông. Khi đi vào cơ thể, axit béo omega - 3 làm tăng nguy cơ chảy máu không mong muốn.
Thuc pham cam dung khi uong thuoc chong dong mau-Hinh-6
Các loại rau lá xanh. Các loại rau lá xanh cung cấp nguồn vitamin K vô cùng phong phú. Khi ăn vào, giống như trà xanh, lượng vitamin K trong rau lá xanh dễ làm ảnh hưởng tới hiệu quả chống đông của thuốc.
Thuc pham cam dung khi uong thuoc chong dong mau-Hinh-7
Nội tạng động vật. Một trong những lưu ý cho người dùng thuốc chống đông là cần tránh dùng nội tạng động vật trong các bữa ăn hàng ngày. Các nhà khoa học từng chứng minh, nội tạng động vật như gan gà dễ dàng sản sinh lượng vitamin K rất lớn sau khi được làm chín.
Thuc pham cam dung khi uong thuoc chong dong mau-Hinh-8
Đặc biệt, cần tránh các loại gia vị như tỏi, gừng, nghệ bởi chúng sẽ làm giảm tác dụng của thuốc.

Thuốc giảm đau gây trụy tim, đột tử

Cơ quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã đưa ra cảnh báo về những loại thuốc giảm đau thông dụng như ibuprofen và naproxen, cho biết chúng "làm tăng nguy cơ trụy tim và đột quỵ".

Những loại thuốc có trong cảnh báo bao gồm vài loại thuốc chống viêm không steroid, không aspirin (NSAIDs) rất phổ biến như Advil, Motrin, và Aleve.
Các loại thuốc NSAIDs là phương pháp chữa trị đau đớn, cảm sốt phổ thông cho những trường hợp viêm khớp, đau bụng kinh, đau đầu, cảm lạnh và cúm. Mặc dù những loại thuốc này đã được cảnh báo từ năm 2005, cơ quan chức trách thấy rằng dữ liệu mới chứng tỏ chúng còn được dùng nhiều hơn trong 10 năm này. Trong khi, tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe và liều dùng, nguy cơ trụy tim và đột quỵ khi uống NSAID tăng từ 10-50%.
Để giải thích nguy cơ rõ ràng hơn, FDA đang yêu cầu nhà sản xuất thuốc phải sửa đổi nhãn cảnh báo. Họ muốn mọi người nhận biết nguy cơ trụy tim, tim ngừng đập, đột quỵ sẽ tăng cao theo thời gian họ dùng những loại thuốc giảm đau này.
"Người có bệnh tim mạch nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng NSAID". Phát ngôn viên của FDA nói. Nhưng dù bạn có tiền sử bệnh tim mạch hay không, nguy cơ của mọi người đều hiện diện.
"Bệnh nhân dùng thuốc NSAID nên đi khám y tế ngay lập tức nếu bị các triệu chứng như đau ngực, hơi thở ngắn gấp, khó thở, một bên hay một phần cơ thể bị yếu đi, hoặc hay bị nói lắp," thông báo của FDA cảnh báo mạnh hơn cho tất cả mọi người.


Tăng cảnh báo nguy cơ của thuốc giảm đau không kê toa

Cơ quan Quản lý thực phẩm và thuốc men (FDA) Hoa Kỳ muốn đưa ra một cảnh báo người dân mạnh mẽ hơn về những nguy cơ sức khoẻ của thuốc giảm đau.

Điều này xảy ra sau khi FDA xem xét những bằng chứng mới nhất về các loại thuốc kháng viêm không chứa steroid (NSAIDs) bày bán tự do trên thị trường. 
Hiện nay, những loại thuốc như ibuprofen (được bán với tên gọi thông thường Advil) hay naproxen (Aleve) đều ghi cảnh báo “có thể gây ra” một nguy cơ tăng cao về nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Nhưng từ nay nhãn thuốc mới phải ghi rõ là “gây ra một nguy cơ tăng cao” về nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Nhiều nghiên cứu cho thấy các loại thuốc giảm đau tạo ra những phản ứng phụ nguy hiểm. Nghiên cứu năm 2013 cho thấy liều cao của NSAIDs làm tăng 1/3 nguy cơ nhồi máu cơ tim. 
Bên cạnh đó, ibuprofen có khả năng làm tăng gấp đôi sự cố mạch vành nghiêm trọng và tất cả những loại thuốc NSAIDs đều làm tăng 2 - 4 lần nguy cơ xảy ra các vấn đề tiêu hoá. Đáng quan tâm là nghiên cứu vào năm 2014 cho thấy trong những cái chết do đột quỵ 19% có liên quan đến việc sử dụng NSAIDs. 
Một viên chức của FDA nói: "Ngày nay chúng ta biết rằng nguy cơ đột quỵ và nhồi máu cơ tim có thể xảy ra sớm trong điều trị, thậm chí là những tuần đầu tiên".


Người ăn chay vô tình "ngã mặn"

Không biết thì không có tội. Tuy nhiên, nếu bây giờ biết vẫn chưa hẳn là muộn. Một số người ăn chay có thể vô tình "ngã mặn" khi sử dụng dược phẩm để điều trị những chứng bệnh cấp thời hoặc mãn tính.
Cả thầy thuốc cũng... quên
Đa số các loại dược phẩm có chứa những dẫn chất protein từ động vật gọi là gelatine được "thu gom" và chiết xuất từ da, gân và xương động vật. Ngoài ra, trứng gà cũng được dùng trong một số chế phẩm chẳng hạn như vắc-xin.
Những người có tiền sử bệnh gan thận cần hết sức thận trọng khi sử dụng thuốc có gelatine Ảnh: Tấn Thạnh
Những người có tiền sử bệnh gan thận cần hết sức thận trọng khi sử dụng thuốc có gelatine Ảnh: Tấn Thạnh
Một nghiên cứu đã được đăng tải trên chuyên san Postgraduate Medical cho thấy 25% số bệnh nhân ăn chay được kê toa với những dược phẩm có chứa gelatine mà người sử dụng "tôi nào biết, tôi nào có hay". 
Không riêng gì những người ăn chay, cả bác sĩ cũng chẳng có ai để ý hỏi xem bệnh nhân của mình có ăn chay hay không để có thể kê cho họ những toa thuốc thích hợp. 
Hầu hết thầy thuốc chỉ nhìn vào thành phần hoạt tính của thuốc (những chất có tác dụng trị liệu) chứ chẳng mấy ai nhìn xem vào thành phần tá dược (là những "phụ gia" cho vào thuốc nhằm tạo màu tạo mùi giúp thuốc phân rã tốt và ổn định thành phần bao viên...).
Theo một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2010, những nhà nghiên cứu đã đặt câu hỏi cho 500 bệnh nhân, trong đó có 200 bệnh nhân là người ăn chay. 
Theo nghiên cứu, 43% trong tổng số người được nghiên cứu cho biết họ không muốn dùng những loại dược phẩm có gelatine cho dù không có những dược phẩm thay thế khác. Riêng 49 người trong tổng số 200 người ăn chay thì cho biết họ hoàn toàn không hề hay biết rằng những loại thuốc được kê toa có chứa gelatine.
Một số hãng bào chế "xuống nước"
Hiện nay, các bệnh nhân ăn chay khó tính đã yêu cầu bác sĩ, dược sĩ phải cung cấp thông tin cho họ rằng những loại thuốc mà họ đang sử dụng có chứa nguyên liệu từ động vật hay không.
Một số hãng bào chế cũng phải "xuống nước" để chiều lòng những bệnh nhân vốn là người ăn chay. Một số loại thuốc đã thay thế gelatine bằng những chất liệu chiết xuất từ thực vật.
Về phía người sử dụng thuốc cũng cần nên hiểu rằng không phải chỉ có thuốc bắt buộc kê toa mới có chứa gelatine mà đa số các dược phẩm không cần kê toa hay còn gọi là thuốc OTC (Over The Counter) cũng chứa chất này. Những loại thuốc có chứa gelatine thường là các loại viên nang.
Nghịch lý ở chỗ, trong khi những người ăn chay yêu cầu nhà sản xuất phải cung cấp thông tin về các loại dược phẩm có chứa gelatine hay không thì đa số người sử dụng thuốc lại không chịu đọc thông tin về thuốc.
Không chỉ riêng người ăn chay mà nói chung đối với tất cả những ai sử dụng thuốc, các loại dược phẩm mà phần nang làm bằng gelatine đều có những rủi ro tiềm tàng cho sức khỏe của họ. 
Có rất nhiều trường hợp người sử dụng nhạy cảm với gelatine và bị phản ứng dị ứng rất nghiêm trọng. Một rủi ro khác từ gelatin là độc tố do được chế biến từ động vật mang bệnh cũng như động vật được nuôi dưỡng bằng thức ăn có trộn kháng sinh, thức ăn chứa hormone, chưa kể những loại động vật ăn nhầm cây cỏ có dính thuốc trừ sâu...
Những protein có trong gelatine còn làm cho gan và thận gánh vác công việc nặng nhọc hơn vì phải hoạt động nhiều hơn để xử lý protein này. Vì vậy, những người có tiền sử bệnh gan thận cần hết sức thận trọng khi sử dụng thuốc có gelatine.
Không chỉ có trong dược phẩm, gelatine cũng khiến cho những người ăn chay vô tình "ngã mặn" khi họ ăn những loại thực phẩm có chứa chất này, nhất là các loại kẹo dẻo, kem... Ở đây, người ăn chay cứ nghĩ chúng chỉ là bánh kẹo nên không để ý và vô tình đưa gelatine vào cơ thể.
Trong khi những người ăn chay rất kỹ lưỡng trong việc chọn lựa thực phẩm khó tính cho việc nấu nướng, như dùng dụng cụ nhà bếp riêng thì họ lại vô tình đưa những protein từ động vật vào cơ thể thông qua dược phẩm.
DS Nguyễn bá Huy Cường

Mỹ phát triển thành công thuốc có khả năng trị khỏi ung thư

Các nhà khoa học Mỹ đã phát triển thành công một loại thuốc có thể chữa khỏi ung thư có tên gọi "Chén Thánh DNA-PKcs", hiện đang trong quá trình thử nghiệm trực tiếp trên người.

Kết quả sẽ được công bố vào đêm nay.
Các nhà khoa Mỹ tin tưởng từ nghiên cứu mới nhất này thì bệnh ung thư sẽ bị khống chế sau khi tiến hành nhiều bước xét nghiệm cẩn thận cho thấy cách mà loại thuốc này ngăn ngừa khối u lành tính thành khối u ác tính.
Các nhà khoa học hiện nay tin rằng một loại protein xấu làm tế bào nhân đôi và lan rộng, tấn công cơ thể cũng như tàn phá các cơ quan nội tạng quan trọng của bệnh nhân.
Hầu hết khối chỉ trở nên nguy hiểm khi chúng lan rộng, một quá trình được gọi là di căn.
Tuy nhiên, nghiên cứu mới về ung thư tuyến tiền liệt cho thấy phương pháp điều trị ung thư nên chỉ đơn giản là biện pháp "vô hiệu" tế bào ung thư bằng DNA-PKcs.
Đêm nay, các chuyên gia sẽ công bố hiệu quả của loại thuốc trị ung thư mới giết chết 160.000 người Anh/năm.
Mỹ phát triển thành công thuốc có khả năng trị khỏi ung thư
TS.BS Karen Krudsen, giáo sư sinh học ung thư ĐH Thomas Jefferson (Mỹ), nơi nghiên cứu đang được tiến hành cho biết: "việc tìm ra cách khống chế hoặc ăn chặn di căn ung thư từng có kết quả không tốt".
"Chúng tôi phát hiện một phân tử gọi là DNA-PKcs có thể cung cấp cho chúng ta giải pháp ngăn chặn di căn ngay từ khi nó bắt đầu", ông Karen phát biểu.
"Những kết quả này cho thấy DNA-PKcs là một điều chỉnh quan trọng để ngăn chặn di căn ung thư tiền liệt tuyến", ông Karen cho biết thêm.
Di căn được coi là giai đoạn cuối cùng của bệnh ung thư khi khối u đột biến làm tế bào di chuyển nhiều hơn, có thể xâm nhập vào mạch máu, hủy hoại phổi, gan và các cơ quan nội tạng khác.
DNA-PKcs là một loại enzyme có thể sửa chữa các sợi DNA bị vỡ hoặc đột biến trong tế bào ung thư. Bởi vì tế bào ung thư thường tự hủy để tự nuôi sống nó.
Thí nghiệm trên chuột để so sánh kết quả với ung thư tiền liệt tuyến ở người cho thấy, loại enzym này ngăn chặn được khối u ác tính.
Những phân tích mẫu tế bào từ 232 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tiết lộ ức chế hiệu quả di căn.
TS Knudsen vui vẻ chia sẻ: "Chúng tôi rất phấn khởi về bước đánh giá lâm sàng trong thời gian tới đối với DNA-PKcs tại cơ sở y tế cụ thể".


Gentamicin tôi độc với thính giác và thận

Gentamicin tôi là thuốc kháng sinh nhóm aminoglycosid, được dùng phối hợp với các kháng sinh khác (beta - lactam) để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn nặng toàn thân gây ra bởi các vi khuẩn gram âm.

Gentamicin tôi là thuốc kháng sinh nhóm aminoglycosid, được dùng phối hợp với các kháng sinh khác (beta - lactam) để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn nặng toàn thân gây ra bởi các vi khuẩn gram âm và các vi khuẩn khác còn nhạy cảm: nhiễm khuẩn đường mật (viêm túi mật và viêm đường mật cấp). 

Nhiễm Brucella, viêm nội tâm mạc, nhiễm khuẩn huyết, nhiễm Listeria, viêm màng não, viêm phổi, nhiễm khuẩn ngoài da như bỏng, loét, nhiễm khuẩn xương, khớp, nhiễm khuẩn trong ổ bụng, các nhiễm khuẩn về đường tiết niệu (viêm thận bể thận cấp) cũng như trong việc phòng nhiễm khuẩn khi mổ và trong điều trị chăm sóc tăng cường... 

Ngoài ra, tôi cũng được dùng cùng với các chất diệt khuẩn khác để mở rộng phổ tác dụng và làm tăng hiệu lực điều trị.
Tuyệt đối không dùng tôi cho bệnh nhân dị ứng với gentamicin và với các aminoglycosid khác.Tất cả các aminoglycosid đều độc hại đối với cơ quan thính giác và thận.Tác dụng không mong muốn quan trọng thường xảy ra với người bệnh cao tuổi và/hoặc với người bệnh đã bị suy thận. 
Cần phải theo dõi rất cẩn thận đối với người bệnh được điều trị với liều cao hoặc dài ngày, với trẻ em, người cao tuổi và người suy thận, cần phải giảm liều. Người bệnh có rối loạn chức năng thận, rối loạn thính giác... có nguy cơ bị độc hại với cơ quan thính giác nhiều hơn.
Phải sử dụng rất thận trọng nếu có chỉ định bắt buộc ở những người bị nhược cơ nặng, bị Parkinson hoặc có triệu chứng yếu cơ.Nguy cơ nhiễm độc thận thấy ở người bị hạ huyết áp hoặc có bệnh về gan hoặc ở phụ nữ. Thận trọng dùng tôi cho phụ nữ mang thai và cho con bú.
Khi sử dụng tôi, các bạn có thể gặp một số tác dụng phụ: nhiễm độc tai không hồi phục và do liều tích tụ, ảnh hưởng cả đến ốc tai (điếc, ban đầu với âm tần số cao) và hệ thống tiền đình (chóng mặt, hoa mắt).
Để tránh những tương tác thuốc khi dùng tôi, tốt nhất bạn nên tuân thủ tuyệt đối hướng dẫn của thầy thuốc nhé.


Lưu ý khi dùng cồn ethylic (C2H5OH) và isopropyl

Thuốc sát khuẩn hay còn gọi là thuốc khử khuẩn (antiseptics) là những thuốc bôi, rửa ngoài da, được bào chế bằng những chất hóa học có tác dụng diệt khuẩn.

Làm sạch da trước khi tiêm, trước khi mổ hoặc dùng điều trị tại chỗ các bệnh nhiễm khuẩn, làm sạch vết thương, vết loét hoặc để rửa tay tránh nhiễm khuẩn. 

Lưu ý khi dùng cồn ethylic (C2H5OH) và isopropyl
Cần dùng thuốc sát khuẩn đúng phương pháp để tránh bị kích ứng
Thuốc sát khuẩn phải có tác dụng ức chế sự phát triển của vi khuẩn khi bôi trên bề mặt da trong những điều kiện thích hợp. 
Cần phân biệt với các chất tẩy uế (disinfectants) là thuốc có tác dụng diệt khuẩn trên dụng cụ, đồ đạc, môi trường cũng thường dùng trong các cơ sở y tế. 
Khác với kháng sinh hoặc các hóa trị liệu dùng đường toàn thân, các thuốc này ít hoặc không có độc tính đặc hiệu. 
Tác dụng kháng khuẩn phụ thuộc nhiều vào nồng độ, nhiệt độ và thời gian tiếp xúc: nồng độ rất thấp có thể kích thích sự phát triển của vi khuẩn, nồng độ cao hơn có thể ức chế và nồng độ rất cao có thể diệt khuẩn.
Người ta thường phân loại thuốc sát khuẩn theo cơ chế tác dụng. Thường trong y tế hay dùng một số thuốc sát khuẩn sau:
Cồn ethylic (C2H5OH) và isopropyl: Các thuốc này phải dùng ở nồng độ dung dịch trong khoảng 60 - 70%. Tác dụng sát khuẩn sẽ giảm mạnh khi độ cồn nhỏ hơn 60% và lớn hơn 90%. 
Các chất sát khuẩn này hiện rất phổ biến trong các cơ sở y tế do cơ chế sát khuẩn là gây biến chất protein của tế bào vi khuẩn, nấm, virut làm chúng nhanh chóng bị tiêu diệt. Tuy nhiên, chúng không có tác dụng trên bào tử. 
Có thể dùng riêng hoặc phối hợp với tác nhân diệt khuẩn khác. Ở nồng độ thấp cồn có thể được sử dụng như các cơ chất cho một số vi khuẩn, nhưng ở nồng độ cao các phản ứng khử hydro sẽ bị ức chế. Cần lưu ý tránh để cồn bắn vào mắt và không được uống.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons