Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

Thuốc an thần khi nào cần dùng?

Trong thành phần thuốc an thần có chứa chất gây nghiện, nếu dùng nhiều sẽ dẫn tới việc mất kiểm soát hành vi, nguy cơ tự sát cao.



Ai cần sử dụng thuốc an thần?
- Những người mất ngủ không thường xuyên khi gặp căng thẳng hay stress trong đời sống.
- Những người thường xuyên lo âu quá mức, biến thành những cơn hoảng sợ dẫn tới mất ngủ triền miên, hoang tưởng.
- Những người mắc bệnh động kinh.
- Người cần phải gây mê đê an thần trước khi nội soi, hay những trường hợp bệnh nhân không hợp tác khi chụp cộng hưởng từ.
- Những bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm, tự kỷ cũng được sử dụng các loại thuốc an thần này, nhất là trong những ngày đầu khi mà thuốc chống trầm cảm chưa phát huy tác động thực sự bởi lẽ lo âu thường là bạn của trầm cảm và chính triệu chứng lo âu nhiều khi dẫn đến tự sát…
- Đặc biệt, thuốc an thần thường được dùng và không thể thiếu được trong chuyên khoa tâm thần để điều trị trường hợp kích động đập phá, chống đối gây các hành vi nguy hiểm.
Một số loại thuốc an thần
Nhóm thuốc an thần gây ngủ là những thuốc có tác dụng an thần giải lo (khi dùng liều thấp) và gây ngủ (dùng liều cao hơn). Nếu lạm dụng hoặc dùng không đúng sẽ gây nghiện. Điển hình là các loại thuốc: Barbiturat, Amobarbital, Butabarbital, Immenoctal, Secobarbital...
Thuốc Phenobarbital và Thiopental trước đây sử dụng nhiều, nhưng hiện nay gần như không còn sử dụng, chỉ sử dụng Phenobarbital chống co giật và Thiopental tiêm gây mê. Phải hết sức cảnh giác vì có thể gây ngộ độc và tử vong nếu sử dụng không đúng cách quá liều.
Thuốc kháng histamin như; Doxylamin, Promethazin, Alimemazin... các thuốc này thường được dùng với mục đích khác như chống dị ứng, cảm cúm... nhưng có tác dụng an thần, gây ngủ.
Levomepromazin là thuốc an thần hay sử dụng trong lâm sàng để điều trị bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc cơn hưng cảm, cai nghiện ma túy... Thuốc gây ngủ mạnh, giảm đau mạnh, hạ huyết áp.
Olanzapin là thuốc để điều trị nhiều rối loạn tâm thần như tâm thần phân liệt, hưng cảm, kết hợp với thuốc chống trầm cảm để điều trị trầm cảm, cai nghiện ma túy, rối loạn giấc ngủ, trạng thái chán ăn tâm lý...
Một số khuyến cáo về sử dụng thuốc an thần
Theo dược sĩ Lê Thị Thanh (Công ty Dược IMS Việt Nam): Không dùng thuốc an thần lâu hơn 3 tuần, nên cố gắng giảm dần liều lượng cho đến khi ngưng thuốc. Tránh dùng thuốc hóa chất hoặc nếu phải dùng thì tìm cách thay thế bằng dược thảo hay bằng liệu pháp khác càng sớm càng tốt như thiền định, thư giãn, châm cứu...
Nếu sử dụng thuốc an thần để có giấc ngủ ngon hơn, bạn nên uống thuốc 20-30 phút trước khi đi ngủ. Sau khi bạn đã uống thuốc, nên nhanh chóng đi ngủ ngay sau đó, thường là không quá 5-10 phút. Hầu hết các toa thuốc ngủ đạt đến mức tối đa khoảng 1-1h30' sau khi uống.
Không dùng thuốc khi lái xe hoặc điều khiển máy móc, bởi thuốc có tác dụng ức chế thần kinh trung ương làm giảm sự tỉnh táo. Khi dùng thuốc này tuyệt đối không dùng rượu bia vì có sự tương tác tăng tác dụng lên thần kinh trung ương gây lú lẫn trầm trọng cho bệnh nhân.
Không được dùng thuốc cho bệnh nhân mắc bệnh, bệnh nhân quá lớn tuổi… sẽ dễ dẫn đến nguy cơ liệt hô hấp, gây tử vong…




Thuốc Nivalin có điều trị dứt điểm bệnh Alzheimer không?

Bệnh Alzheimer là một bệnh thoái hóa não nguyên phát, căn nguyên chưa rõ ràng, biểu hiện lâm sàng bằng trạng thái mất trí tiến triển, không phục hồi, thường khởi phát ở lứa tuổi trên 65. 
Các dấu hiệu sau đây có thể là biểu hiện đầu tiên của bệnh Alzheimer: Tình trạng suy giảm trí nhớ làm xáo trộn cuộc sống thường ngày, gặp khó khăn khi lập kế hoạch hay giải quyết vấn đề, gặp khó khăn khi hoàn thành các công việc quen thuộc ở nhà, tại nơi làm việc hay khi vui chơi, lú lẫn về thời gian hoặc nơi chốn, gặp khó khăn trong việc hiểu các hình ảnh trực quan và mối quan hệ trong không gian, phát sinh những khó khăn mới về từ ngữ khi nói hoặc viết, đặt đồ vật nhầm chỗ và mất khả năng hồi tưởng lại các bước, giảm khả năng phán đoán hay đánh giá kém, rút lui khỏi công việc hay các hoạt động xã hội, tâm trạng và tính cách thay đổi
Nếu nhận thấy bất cứ dấu hiệu nào, người bệnh phải lập tức đến chuyên khoa thần kinh để được chẩn đoán và điều trị phù hợp. Alzheimer là bệnh tiến triển, hiện nay bệnh chưa có cách điều trị đặc hiệu.

Nivalin chứa Galantamine là một chất ức chế men Cholinesterase, điều hòa thụ thể Nicotine giúp thúc đẩy các cấp của một chất hoá học tham gia vào bộ nhớ, làm chậm hoặc giảm thiểu sự phát triển của triệu chứng trong các trường hợp bệnh Alzheimer mức độ nhẹ và trung bình.



Nếu đang uống 8 loại thuốc sau, tuyệt đối không được uống rượu

Rượu lúc đầu mới uống ít hoặc chưa ngấm sâu chỉ ức chế trung tâm ức chế ở não, tạo ra hiện tượng giống như hưng phấn (nói nhiều, hoa chân múa tay), sau đó do uống thêm hoặc do rượu ngấm sâu mà sự ức chế ấy lan khắp não (không biết gì, ngủ như chết)... Như vậy, trong mọi giai đoạn rượu là chất ức chế. Vì vậy không dùng rượu khi dùng các thuốc sau:
Nếu đang uống 8 loại thuốc sau, tuyệt đối không được uống rượu
Thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương: Các thuốc như thuốc an thần (diazepam) điều chỉnh rối loạn quá trình hưng phấn - ức chế, thuốc ngủ (phenobarbital) ức chế quá trình kích thích, thuốc động kinh (carbamazepin) làm giảm quá trình kích thích... khi dùng cùng với rượu thì rượu sẽ làm tăng tác dụng của các thuốc này, gây độc giống như dùng quá liều.
Thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương: Khi dùng các thuốc này với rượu thì rượu sẽ làm đảo ngược tác dụng của thuốc làm cho thuốc giảm hiệu lực.
Thuốc có tác dụng phụ ức chế hệ thần kinh trung ương: Các kháng histamin thế hệ cũ (chlopheniramin, alimemazin, promethazin cycloheptadin) thấm vào não gây ức chế. Đối với các thuốc này khi dùng cùng với rượu thì rượu làm tăng tác dụng của thuốc, gây độc.
Thuốc hạ huyết áp: Rượu khi uống làm giãn mạch làm thoát nhiệt ra ngoài, mặt đỏ bừng làm cho có cảm giác ấm nhưng thực chất là làm giãn mạch làm thân nhiệt hạ. Sự giãn mạch này đưa đến hạ huyết áp. Nếu dùng chung với thuốc làm hạ huyết áp (dù với cơ chế làm hạ huyết áp như thế nào) thì rượu cũng làm tăng tính hạ huyết áp của thuốc gây nên việc giảm huyết áp đột ngột, nguy hiểm.
Nhóm thuốc gây độc cho gan: Rượu gây độc cho gan, nếu dùng rượu chung với các nhóm thuốc gây độc cho gan như thuốc chống lao (pyrazinamid), thuốc sốt rét (mepraquin) thuốc chống nấm (griseopulvin), thuốc mạch vành (herhexilin), thuốc chữa loạn nhịp (quinidin) thì rượu và thuốc cùng gây độc cho gan làm cho tính độc cho gan tăng lên.
Ngoài ra cần biết khi uống rượu, gan phải dùng gluthation để giải hóa làm cạn kiệt chất này và những thuốc nào nhờ chất này mà chuyển hoá thành chất không độc như paracetamol thì quá trình chuyển hóa bị trở ngại và trở nên độc cho gan hơn.
Thuốc hạ đường huyết: Rượu làm tăng phản ứng hạ đường huyết. Khi dùng chung với các thuốc hạ đường huyết trong bệnh tiểu đường týp II (chlopropamid, glibenclamid, glipizid tolbutamid) thì nó tác dụng như một chất hiệp đồng làm hạ đường huyết đột ngột, gây hôn mê.
Các nhóm kháng sinh cephalosporin, nhóm phenicol (chloramphenicol), nhóm azol (metronidazol, ketocanzol): Rượu còn bị một số kháng sinh gây ra phản ứng sợ rượu (gọi là phản ứng altabuse) như các kháng sinh nhóm cephalosporin, nhóm phenicol (chloramphenicol), nhóm azol (metronidazol, ketocanzol). Khi dùng các nhóm kháng sinh này (hiện nay có rất nhiều) thì không được uống rượu.
Thuốc kháng viêm không steroid thế hệ cũ: Rượu còn gây ra một số phản ứng phức tạp trên các kháng viêm không steroid thế hệ cũ. Các kháng viêm không steroid thế hệ cũ vừa ức chế cyclo-oxydase II làm giảm đau, ức chế cả cyclo-oxydase I gây tác dụng phụ trên đường tiêu hóa. Với tác dụng ức chế của mình, rượu làm tăng tác dụng có hại nhiều hơn. Vì thế, khi dùng các kháng viêm không steroid thế hệ cũ (như aspirin, paracetamol, ibuprofen...) phải tuyệt đối kiêng rượu.



Những loại thuốc bà bầu cần uống để sinh con không dị tật

Canxi, sắt và acid folic (hay còn gọi là folat) là dưỡng chất không thể thiếu với phụ nữ mang thai giúp giảm nguy cơ sẩy thai, sinh non và khuyết tật ống thần kinh của thai nhi.

Thai nhi có nguy cơ nứt đốt sống và não úng thủy vì thiếu acid folic
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Lâm (Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia), acid folic có chức năng cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào của người, động vật, thực vật, vi khuẩn và cần cho sự hình thành của tế bào máu. 
Hậu quả của thiếu hụt acid folic ở phụ nữ mang thai sẽ gây nên thiếu máu hồng cầu; Nguy cơ sẩy thai cao; Sinh non, sinh con nhẹ cân; Có thể gây nên khuyết tật của ống thần kinh thai nhi (nứt đốt sống và não úng thủy).
Nứt đốt sống có thể xảy ra ở bất cứ đốt sống nào nhưng thông thường nhất là ở dưới thắt lưng và mức độ nghiêm trọng tùy thuộc vào số lượng mô thần kinh bị phô bày. 
Triệu chứng của tật nứt đốt sống có thể là liệt 2 chân, tiêu, tiểu không kiểm soát được hay não úng thủy (não có nước). Sự không hoàn thiện của ống thần kinh (ống thần kinh đóng không kín) xảy ra vào ngày thứ 28 sau thụ thai. 
Do vậy phải bổ sung acid folic trước khi thụ thai thì mới có hiệu quả dự phòng khuyết tật ống thần kinh cho thai nhi. 
Những nghiên cứu lớn trên thế giới trong vòng 30 năm trở lại đây ở Anh, Hungary, Trung Quốc… chứng minh rằng nồng độ đủ cao của acid folic trong máu người mẹ rất cần thiết cho việc đóng ống thần kinh bình thường. Những bà mẹ có nồng độ acid folic trong máu thấp có nhiều nguy cơ sinh con bị nứt đốt sống.
Nhu cầu trung bình của người trưởng thành khoảng 180-200mcg/ngày. Khi mang thai, nhu cầu này tăng lên khoảng 400mcg/ngày để đáp ứng sự gia tăng của quá trình phân chia tế bào cũng như tăng kích thước tử cung. 
Ngoài ra còn cần cho tổng hợp nhân tế bào Acid Deoxyribo Nucleic (ADN); Acid Ribo Nucleic (ARN); và protein; Hình thành nhau thai; Số lượng tế bào hồng cầu gia tăng theo khối lượng máu tăng; Tăng trưởng của bào thai; Và do tăng thải folate qua nước tiểu trong khi mang thai.
Việc bổ sung đầy đủ các dưỡng chất trong thời kỳ mang thai vô cùng quan trọng.
Việc bổ sung đầy đủ các dưỡng chất trong thời kỳ mang thai vô cùng quan trọng.
Khi phát hiện có thai mới bắt đầu đảm bảo đủ khẩu phần ăn có 400mcg acid folic thì đã chậm mà nhất thiết nồng độ acid folic phải đảm bảo đủ cao vào thời điểm mang thai. Vì vậy, điều quan trọng là phải bổ sung đủ acid folic trước khi thụ thai. 
Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo tất cả phụ nữ dự định mang thai phải bắt đầu bổ sung đủ acid folic 3 tháng trước thời điểm dự định có thai. Nhất thiết phải đảm bảo đủ khẩu phần hàng ngày có 400cmg acid folic. Những thực phẩm giàu acid folic là gan động vật (bò, gà, lợn); rau có lá màu xanh thẫm, hoa lơ xanh...

Uống sắt từ khi mang thai đến sau khi sinh một tháng

Trong thai kỳ, thể tích máu của người mẹ tăng 50%. Sắt cần thiết để tạo hemoglobin mà hemoglobin là một thành phần quan trọng của máu. Hemoglobin mang ôxy đến khắp cơ thể người mẹ và thai nhi. Sắt có mặt ở hầu hết trong các loại thực phẩm đặc biệt là thực phẩm động vật. 
Nhưng không phải lúc nào sắt cũng được hấp thu tốt, do đó người mẹ thường không đủ sắt trong thời kỳ mang thai. Do vậy, chương trình chăm sóc thai sản đã bổ sung thuốc chứa sắt cũng như hướng dẫn cho thai phụ một chế độ ăn giàu chất sắt, cân đối và đủ dinh dưỡng.
Để tránh tác dụng phụ của viên sắt nên uống sau bữa ăn 1- 2h và giúp sắt hấp thu được tốt nên tăng sử dụng những thực phẩm chứa nhiều vitamin C. Không uống sắt cùng với chè, cà phê vì chất tanin trong chè, cà phê sẽ giảm hấp thu sắt.
Sắt còn giúp bảo vệ cơ thể không bị nhiễm khuẩn vì sắt cũng là thành phần của một enzym trong hệ miễn dịch, sắt giúp biến đổi Betacaroten thành vitamin A, giúp tạo ra Colagen (chất này gắn kết các mô cơ thể lại với nhau).
Phụ nữ lần đầu tiên phát hiện có thai nên uống ngay viên sắt, uống kéo dài tới sau khi sinh một tháng. Liều: 60mg sắt nguyên tố kèm theo acid folic 400mcg/ngày. Ngoài ra cũng nên sử dụng các thực phẩm có tăng cường sắt, acid folic cho phụ nữ mang thai.

Dễ xốp xương vì thiếu canxi

Một thai phụ cần 1.000-1.200mg canxi mỗi ngày. Việc cung cấp đủ nhu cầu canxi trong thai kỳ sẽ giúp tạo thành và phát triển bộ xương thai nhi mà vẫn đảm bảo toàn vẹn bộ xương bà mẹ.
Vì xương là mô sống nên hàng ngày canxi đều lắng đọng và thoát khỏi bộ xương nên rất cần canxi. Việc tích lũy canxi đều đặn là rất cần thiết, nó vừa thay thế cho phần canxi mất đi vừa tạo nguồn dự trữ canxi khi các thực phẩm cung cấp không đủ. 
Trong trường hợp canxi thiếu do cơ thể không hấp thu đủ canxi (có thể do thiếu vitamin D) hoặc do lượng đưa vào ít thì lượng canxi bị rút ra từ xương của cơ thể người mẹ sẽ nhiều hơn, dần dần làm tiêu xương, xốp xương và dễ gãy. Canxi còn có vai trò giúp cho sự co cơ, sự đông máu và giúp hệ thần kinh gửi đi các thông tin.
Tuy nhiên, một số thực phẩm có chứa oxalat và các loại hạt ngũ cốc chứa phytat, cả hai loại này gắn kết với canxi và sắt làm hạn chế một phần sự hấp thu của hai loại chất khoáng này. Vì thế, cũng như sắt thì nên uống canxi xa bữa ăn để tránh hiện tượng này. Ngoài ra, có thể bổ sung từ những thực phẩm như sữa, lá rau xanh đậm, tôm đồng, cá nhỏ ăn cả xương.




Thời điểm uống quyết định tác dụng của thuốc

Thoi diem uong quyet dinh tac dung cua thuoc
Thời điểm uống quyết định tác dụng của thuốc
Tùy thuộc vào từng loại thuốc, tính chất, tác dụng, thành phần của nó mà người ta quy định thời điểm uống khác nhau để đạt hiệu quả tối ưu nhất. Thời điểm uống thuốc sẽ quyết định tác dụng nhiều hay ít của thuốc đến bệnh.
Ví dụ, những loại thuốc cầm tiêu chảy thì uống trước bữa ăn sẽ giúp rút ngắn thời gian thuốc đi vào ruột và duy trì nồng độ cao của thuốc. Thuốc chống loãng xương được khuyến khích uống vào buổi sáng, trước khi ăn.
Loại thuốc chữa chứng axit trào ngược và ợ nóng chỉ phát huy tối đa hiệu quả và giúp dạ dày dễ chịu nếu uống trước khi ăn 20 - 30 phút. Đó là các loại thuốc có tính chất gây kích ứng đường tiêu hóa như aspirin, chống viêm, giảm đau, sắt sunfat... Sau khi bị thức ăn pha loãng ra, sự kích thích của những loại thuốc này với niêm mạc dạ dày sẽ giảm bớt.


Tác dụng phụ nghiêm trọng của một số thuốc thường dùng

Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) vừa có các thông báo cảnh báo một số thuốc thường dùng có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng.

Các thông tin mới này không có nghĩa là mang tới một sự lo lắng cho người sử dụng, cũng không phải để khuyến khích họ lựa chọn sang các loại thuốc khác mà nó có ý nghĩa quan trọng để giúp mọi người nhận biết và phản ứng nhanh với các triệu chứng ban đầu của các tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng, trong đó có khả năng gây tử vong do thuốc.
Thuốc hạ sốt, giảm đau acetaminophen
Thông báo ngày 1/8/2013 cho biết, thuốc acetaminophen (paracetamol) làthuốc hạ sốt, giảm đau đang được dùng rất phổ biến để điều trị đau và sốt, có mặt rộng rãi trong nhiều đơn thuốc cũng như người bệnh tự sử dụng.
Hoạt chất này cũng thường được phối hợp với các loại thuốc khác (bao gồm cả thuốc phiện) và các loại thuốc để điều trị cảm lạnh, ho, dị ứng, đau đầu và khó ngủ... có thể gây ra những phản ứng da nghiêm trọng. Đó là hội chứng Stevens-Johnson (SJS), hoại tử biểu bì nhiễm độc (TEN), viêm da do phản ứng cấp tính (AGEP) có thể gây tử vong.
Tác dụng phụ nghiêm trọng của một số thuốc thường dùng 1
Acetaminophen có thể gây phản ứng da hiếm gặp nghiêm trọng
FDA yêu cầu các nhà sản xuất cần thêm vào nhãn thuốc lời cảnh báo về nguy cơ phản ứng da nghiêm trọng này đối với các thuốc có chứa acetaminophen. Nếu bạn sử dụng acetaminophen thấy có triệu chứng như phát ban, mụn nước... cần ngừng thuốc và đến cơ sở y tế ngay lập tức. 
Nếu bạn đã từng có một phản ứng da khi dùng acetaminophen, không dùng lại thuốc này trong những lần sau. Cần nói với bác sĩ về phản ứng dị ứng da của mình với acetaminophen để bác sĩ có thể dùng sang các loại thuốc hạ sốt, giảm đau khác.
Thuốc chống sốt rét mefloquine
Thông báo ngày 29/7/2013 cảnh báo về nguy cơ gây ra tác dụng phụ về tâm thần và thần kinh nghiêm trọng của thuốc chống sốt rét mefloquine hydrochloride. Các tác dụng phụ thần kinh có thể bao gồm: chóng mặt, mất thăng bằng hoặc ù tai. Các tác dụng phụ về tâm thần bao gồm cảm thấy lo lắng, nghi ngờ, chán nản hoặc có ảo giác...
Khi sử dụng thuốc để ngăn chặn bệnh sốt rét, nếu bệnh nhân có triệu chứng thần kinh hoặc tâm thần cần ngừng thuốc và thay thế bằng một loại thuốc khác. Trong quá trình dùng thuốc, bệnh nhân cũng có thể tự phát hiện tác dụng phụ này và thông báo cho bác sĩ biết. 
Bệnh nhân không nên tự ngưng dùng mefloquine trước khi có ý kiến của thầy thuốc. FDA yêu cầu phải ghi cảnh báo này lên nhãn thuốc và sẽ tiếp tục đánh giá sự an toàn của mefloquine, sẽ có những thông tin tiếp theo tới công chúng.
Thuốc chống nấm chứa ketoconazol
Thông báo ngày 26/7/2013 cảnh báo, viên nén uống nizoral (ketoconazol) có tác dụng chống nấm có thể gây tổn thương gan nghiêm trọng và các vấn đề về tuyến thượng thận (gây suy thượng thận) và nguy cơ dẫn đến tương tác thuốc có hại với các thuốc khác khi dùng đồng thời.
Về tổn thương gan (nhiễm độc gan): FDA cho biết, viên nén nizoral có thể gây tổn thương gan dẫn đến phải ghép gan hoặc tử vong. Tổn thương gan nghiêm trọng đã xảy ra ở bệnh nhân dùng liều cao của nizoral trong thời gian ngắn hoặc những người dùng liều thấp trong thời gian dài. Các tổn thương gan đôi khi hồi phục khi ngừng sử dụng thuốc nhưng cũng có khi không hồi phục.
Vấn đề về thượng thận (gây suy thượng thận): Viên nén nizoral có thể gây suy thượng thận bằng cách làm giảm sản xuất corticosteroid của cơ thể. Corticosteroid được sản xuất bởi tuyến thượng thận, ảnh hưởng đến sự cân bằng của nước, muối khoáng và chất điện giải trong cơ thể. 
Các chuyên gia chăm sóc sức khỏe nên theo dõi chức năng tuyến thượng thận ở bệnh nhân dùng thuốc nizoral, người có vấn đề về tuyến thượng thận hoặc ở bệnh nhân bị stress...
Về tương tác thuốc: Nizoral viên có thể tương tác với các thuốc khác khi dùng đồng thời và có thể dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng, đe dọa tính mạng. Ví như như rối loạn nhịp tim... Vì vậy, tất cả các thuốc mà bệnh nhân hiện đang dùng nên được đánh giá về tương tác với nizoral.
Hiện FDA đang tiến hành một số hoạt động liên quan đến viên nén uống nizoral (ketoconazol), bao gồm hạn chế sử dụng thuốc, chấp thuận thay đổi nhãn thuốc và thêm hướng dẫn thuốc mới để đảm bảo an toàn cho người sử dụng. 
Theo đó, viên nén uống nizoral không phải là thuốc điều trị đầu tay cho bất kỳ nhiễm trùng nấm nào. Nizoral nên được sử dụng để điều trị nhiễm nấm nhất định và chỉ khi liệu pháp kháng nấm thay thế không có sẵn hoặc không dung nạp. 
Viên nén nizoral không được chỉ định để điều trị các bệnh nhiễm trùng do nấm ở da, móng tay và không được sử dụng ở bệnh nhân có bệnh gan cấp tính hoặc mạn tính. FDA cũng đã phê duyệt một hướng dẫn thuốc mới có chứa thông tin về các nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến thuốc nizoral và sẽ tiếp tục đánh giá sự an toàn của thuốc này.



Hễ ho là dùng kháng sinh: Cẩn thận ho thêm

Ho nhằm tống đẩy các chất cặn bã và các vật thể lạ ra ngoài đường thở. Thuốc trị ho là thuốc có tác dụng cắt phản xạ ho này. Thuốc ho không phải là thuốc kháng sinh.

Nhưng trên thực tế có nhiều người lại nghĩ rằng dùng kháng sinh có thể trị được ho. Thuốc kháng sinh chỉ có tác dụng diệt vi khuẩn, không bao giờ có tác dụng cắt  cơn ho hay giảm ho.
3 hệ lụy có thể mắc phải:
1.Gây nhờn thuốc
Thuốc kháng sinh là thuốc diệt vi khuẩn. Trong trường hợp này là diệt vi khuẩn đường hô hấp. Nhưng nếu như không có vi khuẩn thì việc dùng kháng sinh lại làm cho vi khuẩn quen thuốc. 
Trên thực tế, đến 80% nguyên nhân của những tiếng ho đầu tiên, trận ho đầu tiên không hề lien quan tới vi khuẩn, mà đa phần là do hơi lạnh, nhiễm virus, tế bào bị viêm do tiếp xúc với gió mạnh. Tức là dùng kháng sinh hết sức vô nghĩa. Đồng thời còn gây ra nhờn thuốc.
2. Làm ho thêm
Kháng sinh thực tốt với các trường hợp ho do nhiễm khuẩn, viêm đường hô hấp. Nhưng chúng trở lên bó tay với các chứng ho gió, ho do thay đổi thời tiết. Việc cố dùng kháng sinh lúc này, không những không giảm mà còn nặng thêm. 
Lý do: cơ thể đã ho mệt, nay lại bị mệt thêm bởi thuốc kháng sinh. Vì thế, ho không những không cắt được mà cơ thể lại bị suy yếu thêm, sức đề kháng giảm nên ho càng nặng. Một số thuốc kháng sinh gây dị ứng thì còn làm cho tình trạng trở lên phức tạp hêm.
3. Kéo tụt sự phát triển
Kháng sinh là thuốc trị bệnh, không phải là thuốc bổ. Nên nếu cho trẻ uống khi không cần thiết thì bệnh không khỏi mà còn làm chậm phát triển ở trẻ. Trên thực tế, kháng sinh có độc tính với tế bào bình thường. Khi không có vi khuẩn để diệt, chúng gây độc tế bào xung quanh nên người dùng sẽ thấy mệt mỏi, nhất là trẻ em. 
Thêm vào đó, kháng sinh còn làm gia tăng rối loạn vi khuẩn ruột gây tiêu chảy. Kết quả, người bệnh ho mệt không ăn uống gì được, nay lại bị tiêu chảy, thì cầm chắc suy dinh dưỡng. Với những đứa trẻ mà 1 năm phải dùng tới 4-6 đợt kháng sinh thì em bé rơi vào nguy cơ còi cọc, suy dinh dưỡng cao.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons