Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Nhỏ thuốc mắt chớ nhỏ bệnh

Thói quen tự mua thuốc về nhỏ mắt có thể khiến bạn có cảm giác dễ chịu lúc đó nhưng thực chất chúng đang khiến bạn bị bệnh nặng thêm, thậm chí có nguy cơ mù lòa.



Coi chừng đục thủy tinh thể
Trong một lần đau và ngứa mắt, chị Lê Thu Hoa, Thanh Xuân, Hà Nội đã không đi khám và mua thuốc mà lại dùng thuốc của người bạn, vì nghe nói: "Lần trước, tôi cũng bị như thế, dùng thuốc này rất tốt".
Chị nhỏ thuốc vào buổi tối thì ban đầu chỉ thấy dặm dặm mắt khó chịu, đến sáng hôm sau mắt sung vù lên, đỏ. Khi đến khám tại BV Mắt Quốc tế, Hoa mới biết cô bị như thế là do dị ứng với corticoid trong lọ thuốc nhỏ mắt. Ngay lập tức các bác sĩ cho dừng sử dụng loại thuốc nhỏ mắt này, và cô phải điều trị tại đây 3 ngày thì khỏi.
Không ít người cũng giống chị Hoa, hễ thấy ngứa mắt nhỏ mắt là tự ý mua thuốc về dùng, hoặc nhất định yêu cầu quầy thuốc tư bán cho loại thuốc đã dùng như lần trước. Tình trạng bán thuốc không theo đơn, dùng thuốc ko theo chỉ định của bác sĩ… tương đối phổ biến ở Việt Nam.
BS Đặng Văn Quế - Phó Giám đốc BV Mắt Quốc tế cho biết, thuốc nhỏ mắt có nhiều loại (kháng sinh, corticoid…), trong đó việc sử dụng thuốc nhỏ mắt có chứa corticoid nhất thiết phải theo sự chỉ định của bác sĩ. Ngay cả trường hợp bác sĩ chỉ định những thuốc có corticoid để nhỏ vào mắt thì bác sĩ cũng phải thận trọng khuyên người ta nhỏ trong vòng bao nhiêu lâu.
Thuốc nhỏ mắt có corticoid có công dụng trị bệnh rất nhanh nếu dùng đúng. Nhưng chúng lại dễ để lại tác dụng phụ nguy hiểm, không chỉ gây nguy cơ dị ứng như trường hợp của chị Hoa mà còn có thể gây hỏng mắt như thủy tinh thể, tăng nhãn áp. Lý do là quá trình chuyển hóa thuốc trong cơ thể có thể làm ảnh hưởng đến tương tác trong phần thủy tinh thể nên nó gây đục.
Trước nguy cơ trên, BS Quế còn nhấn mạnh: Không chỉ những loại thuốc nhỏ mắt chứa corticoid mới cần dùng theo đơn của bác sĩ, mà ngay các loại thuốc nhỏ mắt thông thường khác người bệnh cũng không nên tự ý mua dùng.
Tốn tiền, bệnh không khỏi
Các loại bệnh về mắt được chia làm nhiều dạng, nhưng chúng thường có một vài biểu hiện bên ngoài giống nhau như: đỏ, ngứa. Chính vì thế, dù nhiều người đang bị một bệnh khác với lần trước nhưng lại chủ quan cho rằng dùng thuốc như lần trước cũng hiệu quả.
Đồng thời, thuốc nhỏ mắt loại corticoid lại vừa mang tính kháng viêm, vừa giảm đau luôn có thể làm mắt êm hơn, đỡ đau nhức, đỡ xót, giảm dấu hiệu đỏ và ngứa. Thế nên bệnh nhân nhầm tưởng loại nhỏ mắt có thành phần corticoid có công hiệu, dù đang bị bệnh gì.
Nhưng trên thực tế, BS Quế cho biết thuốc corticoid không chống được tình trạng viêm loét (như trong bệnh viêm loét giác mạc) nên nếu người bệnh dùng coricoid có thể khiến viêm nhiễm mạnh hơn, bệnh nặng thêm. Trong trường hợp này, đáng lẽ bệnh nhân phải dùng loại nhỏ mắt có kháng sinh hoặc thuốc có kết hợp kháng sinh với corticoid.
Việc dùng thuốc nhỏ có kháng sinh có công hiệu trong trị bệnh viêm loét ở mắt nhưng dùng không theo chỉ định cũng có thể gây nguy hiểm là quen thuốc, nhờn thuốc, khiến mắt lâu khỏi và khó khỏi hơn. 
Việc dùng lại các lọ thuốc của lần trị bệnh trước, hoặc dùng chung với người khác cũng có thể khiến mắt thêm nhiễm khuẩn. Nguyên nhân là lọ thuốc sau khi đã mở nắp có có không khí vào đem theo vi khuẩn, vi nấm gây nhiễm bẩn.
Những lưu ý khi dùng thuốc nhỏ mắt
Sau khi đã được chỉ định đúng loại thuốc, bạn cũng cần học cách "nhỏ":
- Không nhỏ 2 hoặc 3 loại thuốc cùng lúc: Hai loại thuốc phải nhỏ cách nhau tối thiểu 15 phút để tránh phản ứng thuốc với nhau và tránh lãng phí thuốc do bị trào ra ngoài.
- Một lọ thuốc sau khi đã mở nắp thì không dùng quá 15-20 ngày
- Không cất trữ lọ thuốc dùng dở dang sau khi đã khỏi bệnh.
- Khi sử dụng, tránh đụng chạm vào đầu lọ thuốc nhỏ mắt vì sẽ gây nhiễm bẩn lọ thuốc và lọ thuốc lúc này sẽ trở thành nguồn gây bệnh.



Thuốc chữa bệnh: Một thủ phạm gây suy giảm tình dục ở nam giới

Tác dụng không mong muốn của thuốc rất phong phú và đa dạng, trong đó suy giảm tình dục là một tác dụng không mong muốn thường gặp ở một số thuốc, được biểu hiện như giảm ham muốn, liệt dương… Vậy, đó là những thuốc nào?
Nhóm thuốc kháng histamin
Trong lâm sàng hiện đang dùng các thuốc kháng histamin H1 và kháng histamin H2.
Nhóm thuốc kháng hisamin H1, thế hệ 1 hiện được dùng rất phổ biến chống dị ứng, hoặc chống say tàu xe, gồm các thuốc có thể đi qua hàng rào máu não dễ dàng, có tác dụng an thần mạnh, chống nôn và kháng cholinergic. Chính do tác dụng kháng cholinergic nên thuốc có thể gây suy giảm tình dục (liệt dương).
Thuốc chữa bệnh: Một thủ phạm gây suy giảm tình dục ở nam giớiMột số thuốc chữa bệnh có thể gây giảm ham muốn tình dục
Nhóm thuốc kháng histamin H2, điển hình như cimetidin, có tác dụng ức chế cạnh tranh với histamin tại thụ thể H2 của tế bào thành dạ dày, làm giảm bài tiết và giảm nồng độ acid dạ dày cả ở điều kiện cơ bản (khi đói) và khi được kích thích bởi thức ăn… 
Vì vậy, thuốc được dùng trong các trường hợp: điều trị ngắn ngày (4 - 8 tuần) để làm liền loét tá tràng tiến triển và loét dạ dày lành tính tiến triển, bao gồm cả loét do stress và do thuốc chống viêm không steroid; Điều trị duy trì loét tá tràng với liều thấp sau khi ổ loét đã lành để giảm tái phát; Điều trị ngắn ngày (12 tuần) khi viêm loét thực quản ở người bị bệnh trào ngược dạ dày - thực quản... 
Tuy nhiên khi dùng liều cao, kéo dài thì một trong những tác dụng phụ của thuốc là gây chứng bất lực (làm giảm ham muốn tình dục, gây ức chế việc kích thích, cương cứng, làm khô các mô âm đạo...). 
Nguyên nhân do cimetidine có tác động đến hệ thống enzyme cytocrom P450 ở gan nên thuốc có tác dụng đối kháng với các thụ thể của androgen (hormon sinh dục nam) và tăng cường chuyển hoá testosteron thành estrogen. 
Điều này là lý do gây ra các trục trặc trong chuyện chăn gối ở những người phải dùng thuốc lâu ngày. Khi dùng cimetidine từ 1 tháng trở lên (thậm chí có trường hợp sớm hơn) có thể xuất hiện thiểu năng tình dục. Khi dùng các kháng histamin H2 khác như rannitidin, famotidin sẽ ít gặp tác dụng phụ này hơn so với khi dùng cimetidine.
Thuốc chống trầm cảm
Nhiều thuốc trong nhóm chống trầm cảm, như chống trầm cảm loại 3 vòng (imipramin) gây rối loạn nội tiết và tình dục. Các biểu hiện như thiểu lực, chậm khoái cảm cực độ… thường gặp khi dùng liều cao kéo dài. Amitriptyline gây giảm ham muốn tình dục, liệt dương, hoặc khó khăn trong việc đạt cực khoái.
Các thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRI) như prozac, paxil, zoloft hoặc họ hàng với SSRI như effexor hay với tricyclics như elavil, sinequan... đều có tác dụng phụ làm giảm ham muốn, sao nhãng chuyện chăn gối và làm chậm quá trình khoái cảm.
Cách khắc phục: Nên giảm liều dùng hoặc chuyển sang dùng loại thuốc ít phản ứng phụ này hơn hay dùng thuốc tăng cường tình dục. Việc dùng thuốc khắc phục tình trạng này như thế nào cần do bác sĩ tư vấn, chỉ định.
Thuốc ức chế thần kinh
Các thuốc ức chế thần kinh như nhóm dẫn xuất phenothiazin (clorpromazin…) hoặc dẫn xuất benzodiazepin (diazepam), các tác dụng phụ thường gặp của thuốc như có thể gây rối loạn sinh dục, ức chế phóng noãn, vô kinh, chảy sữa, giảm ham muốn tình dục, sao nhãng và chậm quá trình khoái cảm. 
Để khắc phục, nếu có thể, nên thay thế bằng thuốc khác có tác dụng tương ứng nhưng ít ảnh hưởng đến chức năng tình dục hơn. Điều này cần có sự tư vấn của bác sỹ chuyên khoa cho từng trường hợp cụ thể.
Thuốc chữa tăng huyết áp
Hầu hết các nhóm thuốc dùng trong điều trị tăng huyết áp đều có thể gây bất lực ở các mức độ khác nhau do có tác dụng trực tiếp trên hệ thống mạch máu và làm giảm áp lực máu tại cơ quan sinh dục. Trong các nhóm thuốc điều trị tăng huyết áp, thì thuốc lợi niệu, thuốc ức chế beta-giao cảm có tác dụng làm giảm ham muốn tình dục rõ rệt, làm chậm quá trình khoái cảm. Cụ thể:
Các loại thuốc lợi niệu nhóm thiazide thường được chỉ định điều trị trong các bệnh tim mạch, tăng huyết áp. Thuốc lợi niệu nhóm thiazide ngoài tác dụng đào thải muối (Na+ và Cl) và nước ra khỏi cơ thể làm hạ huyết áp, thuốc còn gây hạ K+ máu. 
Đây là nguyên nhân làm cho “cậu nhỏ” không thể cương hoặc cương nhưng không cứng hoặc cương nửa chừng rồi lại mềm đi ngay. Suy giảm khả năng tình dục do các thuốc lợi niệu gặp ở khoảng 5% số người sử dụng. Các biểu hiện có thể gặp là rối loạn cương, rối loạn khả năng phóng tinh và giảm hưng phấn. Mặc dù tất cả các nhóm lợi niệu đều có thể gây ra các biểu hiện này nhưng thường gặp nhất là với nhóm thiazide.
Thuốc chẹn beta-giao cảm là những thuốc được dùng phổ biến trong chuyên khoa tim mạch do thuốc có tác dụng ức chế hoạt động giao cảm nên làm hạ huyết áp và giảm nhịp tim. 
Cũng do tác dụng ức chế giao cảm nên thuốc gây co thắt cơ trơn của vật hang dương vật, làm cho lượng máu đến dương vật giảm đi dẫn đến hiện tượng “cậu nhỏ” khó cương cứng hay không thể cương được. Nguy cơ này tăng tỷ lệ thuận với liều dùng của thuốc. Các thuốc metoprolol, nadolol, propranolol còn làm giảm ham muốn tình dục và rối loạn chức năng phóng tinh, riêng propranolol còn gây ra chứng cương dương buổi sáng.
Ngoài ra, một số thuốc tim mạch khác cũng gây rối loạn tình dục. Ví dụ digoxin gây rối loạn chức năng cương và hội chứng vú to ở khoảng 1/3 số nam giới dùng thuốc, cơ chế có thể do thuốc làm giảm nồng độ testosteron và tăng nồng độ estrogen. Disopyramidole - một loại thuốc chống loạn nhịp tim cũng được ghi nhận có thể gây rối loạn chức năng cương.
Có nhiều cách để hạn chế, như thay thế các thuốc phù hợp hơn, nhưng đều cần sự tư vấn của bác sỹ, vì điều trị ngắt quãng hay dừng thuốc có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho người đang dùng thuốc.
Rượu
Mặc dù nhiều người tin rằng rượu (bia) có thể làm tăng các hoạt động tình dục, nhưng nếu dùng rượu kéo dài thường dẫn đến tình trạng huỷ hoại khả năng tình dục. Sử dụng rượu nhìn chung đều có thể dẫn tới liệt dương ở nam giới. Tỉ lệ liệt dương có thể tới 50% trong số các bệnh nhân nghiện rượu mạn tính. 
Bên cạnh đó, nghiện rượu còn dẫn tới giảm khả năng sinh sản, do thay đổi chức năng vùng dưới đồi và do độc tố trực tiếp từ rượu đến tế bào sinh tinh. Nghiện rượu cũng ảnh hưởng đến ham muốn tình dục và khả năng sinh sản của nữ giới.
Một số thuốc khác
Ngoài các thuốc thường gặp trên, một số thuốc khác cũng ảnh hưởng đến khả năng tình dục như các thuốc chống động kinh, thuốc chống loạn thần, thuốc điều trị parkinson, các thuốc điều trị bệnh lý tiền liệt tuyến, và đặc biệt việc sử dụng không theo chỉ dẫn các thuốc điều trị rối loạn cương như viagra cũng gây ra tình trạng tương tự. 

Bên cạnh đó, methadone, chất dạng thuốc phiện hiện đang được dùng điều trị thay thế cho người nghiện heroin, khi dùng dài ngày, có thể dẫn đến giảm ham muốn và năng lực tình dục



Hiểm họa khi dùng thuốc hết hạn

Tiếc 1 thiệt 10
Đợt vừa rồi chị Nguyễn Quỳnh Hoa ở Quận 7, TPHCM bị nóng trong, mặt nổi rất nhiều mụn trứng cá. Thấy người bạn mách thuốc kháng sinh Tetracyclin uống vào trị trứng cá rất tốt. Trong nhà còn vỉ thuốc kháng sinh Tetracyclin để điều trị đau mắt hột mua cách đây hơn hai năm nhưng còn thừa hai vỉ. Của nhà sẵn có chị liền bỏ ra dùng cho đỡ phí.
Chị uống được 5 ngày, mỗi ngày hai viên trước bữa ăn theo lời hướng dẫn của bà bạn. Chị bắt đầu thấy người buồn nôn, tiêu chảy, da mẩn ngứa và khó thở. Ngay sau đó người nhà đưa chị đi bệnh viện kiểm tra. Sau khi cho chị Hoa thở ôxy và lọc thận bác sĩ cho biết chị bị sốc phản vệ do dùng thuốc không đúng cách và yêu cầu gia đình mang loại thuốc chị đã sử dụng đến kiểm tra.
Sau khi kiểm tra thuốc và hỏi về lý do dùng thuốc của chị Hoa, bác sĩ cho biết, do tự ý dùng thuốc điều trị lại là thuốc đã quá hạn sử dụng nên chị Hoa bị sốc thuốc. Vẫn còn may là gia đình đưa đến bệnh viện ngay khi có các triệu chứng sốc nếu để lâu sẽ rất nguy hiểm. Chị Hoa phải ở lại bệnh viện để bác sĩ theo dõi suốt 3 ngày mới được cho về nhà.
Trường hợp Bà Nguyễn Thị Quế ở phường Lĩnh Nam, Quận Hoàng Mai, Hà Nội cũng tương tự chị Hoa. Nhà có lọ thuốc Berberin đã mua từ lâu mà trong nhà chẳng bị bác tào đuổi nên lọ thuốc gần như còn nguyên. 
Hôm ấy bà thèm món bún đậu mắm tôm nên ra ngoài đầu ngõ ăn. Bình thường bà vẫn ăn ở hàng bùn ấy chẳng sao thế mà hôm ấy bà bị bác tào tháo hỏi thăm. Sau bữa trưa về nhà bà cứ cắm chốt trong nhà toilet. Ngại ra ngoài mua thuốc mà trong nhà lại sẵn có Berberin bà lấy ra uống liền một lúc 20 viên như chỉ định trên lọ.
Uống xong cũng thấy đỡ được chừng mười lăm phút, bà lại đau dữ dội và đi như thường cứ nghĩ thuốc mới uống chắc chưa kịp có tác dụng bà cố nhìn đến chiều nhưng tình trạng ấy vẫn không giảm. Đi ra ngoài nhiều người bà Quế phờ phạc, mệt lả người nhà liền đưa bà vào bệnh viện khám.
Đến bệnh viện bác sĩ hỏi bà quế có dùng thức ăn gì lạ không bà kể đầu đuôi câu chuyện bữa trưa với món bún đậu mắm tôm và đã uống thuốc Berberin những 20 viên mà không khỏi. Bác sĩ cho biết bà bị ngộ độc thức ăn và yêu cầu người nhà đem lo thuốc bà đã uống đến bệnh viện cho bác sĩ xem. Sau khi xem lọ thuốc bác sĩ lắc đầu bảo với bà bác uống thuốc hết hạn sử dụng hơn một năm thế này thì làm gì còn tác dụng nữa.
Chớ dùng hàng cũ
Nhiều gia đình trữ lọ thuốc bổ chứa vitamin, chất khoáng thuộc loại to chứa hàng mấy trăm viên, dùng một thời gian thì ngưng khi thuốc vẫn còn nhiều, sau đó dự định sẽ dùng lại để tẩm bổ khi cần thì đúng lúc hết hạn. Nhìn bề ngoài viên thuốc vẫn mới vỏ bóng lưỡng, màu sắc vẫn tươi rói, một số người cho rằng như vậy là thuốc vẫn có thể sử dụng dùng chắc chẳng sao, thế là tiếp tục dùng để không lãng phí.
Nhưng thực tế theo GS.TS Phạm Thanh Kỳ (Nguyên Hiệu trưởng, Trường ĐH Dược Hà Nội), thuốc hết hạn dùng sẽ không còn giữ được các tính chất cần thiết như đã đăng ký trong tiêu chuẩn chất lượng, mặc dù trông vẻ bề ngoài, đặc tính cảm quan của thuốc không có sự thay đổi, thuốc trông giống y như khi còn hạn dùng.
Nhiều người thấy thuốc bề ngoài còn tốt nghĩ rằng thuốc quá hạn dùng trong thời gian ngắn không sao nên cứ dùng để tránh lãng phí nhưng điều đó có thể gặp nguy hiểm. Thuốc quá hạn dùng không chỉ giảm hoặc mất tác dụng điều trị mà còn có thể gây độc. Việc thuốc biến đổi hay bị hỏng ra sao thì còn tùy vào từng loại thuốc cụ thể. Nhưng một điều chắc chắn là tuyệt đối không dùng thuốc đã hết hạn.
Thuốc men, giống như thực phẩm, nó có hạn sử dụng và điều quan trọng là phải hiểu những rủi ro liên quan đến khi tiêu thụ các thuốc đã hết hạn.Khi dùng thuốc hết hạn cũng giống như khi ta ăn thịt hoặc các sản phẩm bị hỏng. 
Thậm chí thuốc hết hạn có thể trở thành độc hại và gây ra ngộ độc trong một số trường hợp.Và việc giữ các loại thuốc đã hết hạn trogn tủ thuốc có thể làm cho người dùng có khả năng dùng thuốc sai khi nhãn mác không nguyên vẹn hoặc đã bị mờ.
Các loại thuốc có thời hạn sử dụng được bảo quản khi được cung cấp các điều kiện thích hợp về ánh sáng, nhiệt, nhiệt độ và độ ẩm. Sau khi thuốc hết hạn hiệu quả của thuốc có thể không như đã được ghi trên bao bì và nó có thể gây ra các tác dụng có hại nếu uống phải.
Thuốc chứa những hợp chất phức tạp và các thành phần này sẽ phá vỡ theo thời gian và làm cho chúng kém hiệu quả hoặc vô dụng. Không chỉ mất các tác dụng của nó khi thuốc hết hạn, mà khi không còn hạn dùng thuốc có khả năng sản xuất chất độc hoặc gây ra một phản ứng tiêu cực khi được sử dụng kết hợp với các thuốc khác.
Tương tác thuốclà một vấn đề sẽ xảy ra với các thuốc đã hết hạn. Vi khuẩn hoặc nấm mốc cũng có thể phát triển trong các loại thuốc hết hạn sử dụng gây tác hại nếu tiêu thụ chúng. Vì vậy cần phải loại bỏ thuốc quá hạn sử dụng kịp thời và đúng cách.
Thực tế là một số thuốc hết hạn có thể dẫn đến hậu quả chết người. Như viên nén Nitroglycerin, được sử dụng để ngăn những cơn đau thắt ngực và nhưng cơn đau tim nhưng nó bị phân hủy rất nhanh và không còn tác dụng khi đã hết hạn sử dụng.
Nếu sử dụng viên Nitroglycerin đã hết hạn hậu quả có thể gây chết người. Epinephrine là một loại thuốc có thể tự phun và được sử dụng khi bịong đốt hoặc cho những người bị dị ứng nặng.Nếu tiêm 1 liều thuốc Epinephrine đã hết hạn sẽ gây nguy hiểm cho người sử dụng và có thể dẫn đến tử vong.
Những người sử dụng các loại thuốc cho những bệnh đe dọa đến tính mạng và các thuốc điệu kiện như insulin cho bệnh đái tháo đường hoặc nitroglycerin cho các vấn đề về tim mạch thì việc dùng thuốc rất quan trọng vì thế tuyệt đối không được dùng thuốc đã hết hạn.
Khi dùng các loại thuốc đã hết hạn có nghĩa là đang mạo hiểm cuộc sống của người sử dụng. PGS.TS Nguyễn Hữu Đức (ĐH Y dược TPHCM cũng từng cho biết, khi dùng thuốc hãy chú ý xem hạn sử dụng của thuốc có còn không. Cũng có một số thuốc có đến 2 hạn dùng. Đó là các thuốc gọi là không phân liều, được dùng nhiều lần.
Điển hình là thuốc nhỏ mắt. Ngoài hạn dùng ghi trên bao bì, hộp, nhãn thuốc (hạn dùng chỉ kể khi thuốc chưa được mở) còn có hạn dùng nữa phải tính khi lọ thuốc nhỏ mắt được mở ra sử dụng. Khi mở nắp thuốc nhỏ mắt để sử dụng, hạn dùng ghi trên nhãn không còn ý nghĩa nữa, mà sau 15 ngày dùng thuốc, nếu thuốc còn thừa phải bỏ đi vì sau nhiều lần sử dụng, thuốc có nguy cơ bị nhiễm vi khuẩn, nấm mốc.
Thuốc nước tiêm hay uống dùng nhiều lần cũng thế, sau khi dùng cho một đợt điều trị có thể sau một ngày hay một tuần nếu còn thừa phải bỏ đi, không được căn cứ vào hạn dùng được ghi trên bao bì mà để dành dùng sau này là rất nguy hiểm.



Các thuốc gây độc cho gan

Phần lớn thuốc khi vào cơ thể được chuyển hóa tại gan trước khi được đào thải qua đường mật hoặc qua thận. Bình thường, thuốc đưa vào cơ thể là chất không độc, nhưng sau khi được chuyển hóa tại gan, một số thuốc trở thành chất gây độc với chính bản thân gan.
Thuốc có thể gây độc cho gan ở các mức độ khác nhau từ nhẹ đến hoại tử rất nặng, bệnh có thể cấp tính nhưng cũng có thể mạn tính. Bệnh thường xuất hiện trong vòng từ 5 - 90 ngày sau khi dùng thuốc, với biểu hiện rất khác nhau từ chán ăn, mệt mỏi cho đến vàng da, nước tiểu vàng, đau tức vùng gan, xuất huyết dưới da, thậm chí có thể xuất hiện xuất huyết tiêu hóa, hôn mê gan, suy gan nặng dẫn đến tử vong. 
Với sự ra đời của nhiều thuốc mới, danh sách các thuốc gây độc cho gan ngày càng dài thêm, trong đó phải kể đến các nhóm thuốc như giảm đau hạ sốt, thuốc kháng virut, thuốc điều trị lao...
Một số thuốc rất độc với gan, gây nên các bệnh gan mạn tính.Một số thuốc rất độc với gan, gây nên các bệnh gan mạn tính.
Thuốc kháng retrovirus
Phần lớn các thuốc kháng retrovirus ức chế men transcriptase ngược hay kháng protease, gây viêm gan. Tổn thương gan rất đa dạng từ nhiễm mỡ gan đến viêm gan cấp, tiến triển bệnh có thể dẫn đến tử vong. Cơ chế gây độc rất đa dạng hoặc do tạo thành các chất chuyển hóa gây phản ứng và ức chế chuyển hóa ở các thể hạt trong gan, hoặc có thể tác động đến gan do kích động lại các bệnh viêm gan siêu vi B và C.
Thuốc giảm đau hạ sốt paracetamol
Đây là thuốc dùng phổ biến để điều trị giảm sốt. Thuốc gây độc cho gan tùy theo liều sử dụng. Khi điều trị cần chú ý xem xét liều lượng gây độc cho gan. Với liều nhỏ hơn 2 - 3g/ngày, paracetamol thấy an toàn và bệnh nhân chịu đựng được. 
Khi dùng đường uống với liều lớn hơn 10 - 15g sẽ đưa đến tổn thương gan nặng thường sẽ tử vong, liều này dùng khi có ý định tự sát. Tổn thương gan do paracetamol là dạng phổ biến của bệnh gan do thuốc. 
Ở người nghiện rượu, liều paracetamol thông thường điều trị vẫn có thể gây độc cho gan, vì vậy phải cẩn thận khi dùng paracetamol cho người nghiện rượu, không dùng nước uống có cồn để uống paracetamol.
Thuốc chống lao
Các thuốc như isoniazid, rifampicin, streptomycin..., đặc biệt là isoniazid (INH). Từ giữa thế kỷ 20, INH là thuốc điều trị chính cho bệnh lao. Sự tăng men gan xuất hiện vài tuần sau khi bắt đầu điều trị lao khoảng 10 - 20% bệnh nhân dùng INH. 
Sự tăng men gan này thường ở mức vừa phải và không liên quan dấu hiệu hay triệu chứng bệnh gan. Ở nhiều bệnh nhân tăng men gan tiếp tục dùng INH vẫn chịu đựng được và có thể sau đó men gan lại trở về gần bình thường. 
Nếu có tăng men gan, ngưng dùng INH thì men gan trở về bình thường trong vòng 1 - 4 tuần. Tuy nhiên vẫn có ít bệnh nhân khi dùng INH có thể suy gan cấp (có thể xảy ra khoảng 0,1 - 2% bệnh nhân). 
Bệnh nhân lớn hơn 50 tuổi có nhiều nguy cơ bị viêm gan khi dùng INH, trẻ em ít khi có tổn thương gan xảy ra. Bệnh nhân nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn nam. Khi điều trị nên theo dõi kỹ để phát hiện viêm gan do INH để ngưng điều trị kịp thời, tránh ảnh hưởng nặng cho gan.
Vitamin A
Uống vitamin A quá nhiều là nguyên nhân gây ngộ độc gan phụ thuộc vào liều lượng có thể đưa đến xơ gan. Uống thường xuyên liều lớn vitamin A (>25.000 đơn vị/ngày) có thể gây ngộ độc mạn tính và tổn thương gan. 
Tổn thương gan có thể xảy ra khi uống 15.000 - 40.000 đơn vị/ngày trong một năm, nhưng liều cao hơn có thể ngộ độc trong vòng vài tháng. Tổn thương gan nhiều hay ít tùy thuộc liều lượng và thời gian sử dụng. 
Nhiều bệnh nhân có bệnh gan do vitamin A gây ra có khi không nhận thấy, chỉ khi bác sĩ lâm sàng thấy có hiện tượng bệnh nhân dùng vitamin A kéo dài kèm viêm gan mỡ, tăng áp lực tĩnh mạch cửa thì mới phát hiện ra. Người nghiện rượu nguy cơ càng cao.
Một số nhóm thuốc khác
Ngoài ra, một số nhóm thuốc khác cũng có thể gây hại gan như thuốc điều trị nấm (nystatin, ketoconazole, fuconazole), thuốc kháng giáp trạng (PTU, MTU), thuốc điều trị đái tháo đường (sulfamid, troglitazone, rosiglitazole), thuốc điều trị bệnh tim mạch (amiodazon, methyldopa, quinidine), thuốc chống co giật (phenytoin, carbamazepin)...
Bên cạnh những tác dụng phụ của thuốc, chúng ta cũng cần chú ý một số yếu tố làm tăng độc tính của thuốc đối với gan đó là rượu (rượu làm tăng độc tính của hầu hết thuốc đối với gan trong đó phải kể đến paracetamol, isoniazid); có bệnh lý gan mật từ trước (như viêm gan mạn tính, xơ gan...); liều lượng của thuốc (một số thuốc dùng ở liều thấp thì an toàn nhưng dùng ở liều cao hoặc quá liều sẽ gây ngộ độc cấp cho gan); sự tương tác giữa các thuốc làm tăng khả năng gây độc cho gan (sự phối hợp giữa isoniazid với rifampicin sẽ làm tăng độc tính của rifampicin với gan).
Chính vì vậy, để dùng thuốc an toàn, người bệnh cần hết sức tuân thủ hướng dẫn, y lệnh của bác sĩ, không được lạm dụng thuốc và tự ý dùng thuốc, khi dùng thuốc mà có biểu hiện như chán ăn sợ mỡ, nước tiểu sẫm màu, đau tức vùng gan thì cần đến ngay các cơ sở y tế để được kiểm tra phát hiện và điều trị kịp thời.



Tránh tai biến hạ đường huyết khi dùng insulin

Hiện nay, insulin được dùng mở rộng hơn trước. Cần hiểu, dùng thận trọng để tránh tai biến hạ đường huyết do insulin trực tiếp hay gián tiếp gây ra.
Muốn tránh hạ đường huyết, người bệnh nếu có nguyện vọng dùng thuốc phối hợp thì phải khám lại bệnh tại các bệnh viện chuyên khoa để được hướng dẫn chu đáo.
Trước đây thuốc tiêm insulin chỉ dùng cho đái tháo đường (ĐTĐ) týp 1, thuốc uống chỉ dùng cho ĐTĐ týp 2. Trong khi đó, trong số người ĐTĐ chỉ có 10% thuộc týp 1, còn 90% thuộc týp 2. Do đó, tần suất sử dụng insulin không cao. 
Sau 2005, đặc biệt sau khi có hướng dẫn của Hội ĐTĐ Mỹ (2010), việc dùng các nhóm thuốc này có thay đổi. Với ĐTĐ týp 1, giai đoạn đầu chỉ dùng insulin song giai đoạn sau có thể dùng insulin kết hợp với các thuốc uống như acarbose (làm giảm hấp thu glucose). 
Với ĐTĐ týp 2, giai đoạn đầu chỉ dùng thuốc uống nhưng giai đoạn sau có thể phối hợp với thuốc tiêm insulin. Việc phối hợp như vậy có lợi về mặt điều trị, làm tăng đáng kể tần suất sử dụng insulin, do đó cần dùng đúng để không tăng thêm tai biến do việc tăng tần suất sử dụng này.
Tránh tai biến hạ đường huyết khi dùng insulin
Tai biến khi dùng insulin là hạ đường huyết, gọi là sốc insulin. Theo quy ước, hạ đường huyết là đường huyết xuống mức < 70mg/dL, nặng hơn nữa là ≤ 50mg/dL. Người bị ĐTĐ thường bị hạ đường huyết nặng khoảng 1,15 lần/năm; nhẹ 16,37 lần/năm. 
Hạ đường huyết nặng bị vã mồ hôi, choáng váng, loạng choạng, hạ huyết áp, tim nhanh và loạn, nặng hơn là trụy tim mạch, mất ý thức, hôn mê... có thể dẫn đến tử vong. Hạ đường huyết nhẹ có cảm giác đói, mệt mỏi... cũng có khi biểu hiện không rõ, không nhận biết được, song nếu nhắc đi nhắc lại nhiều lần cũng gây tác hại như hạ đường huyết nặng. 
Nếu cứ để cơn hạ đường huyết nhẹ lặp đi lặp lại, cơ thể sẽ quen đi với các biểu hiện này, chỉ khi có cơn hạ huyết áp nặng mới nhận biết được thì đã quá muộn.
Thường có 4 nguyên nhân gây hạ đường huyết gián tiếp hay trực tiếp do insulin gây ra:
Do ăn uống, hoạt động thất thường:
Ăn uống làm tăng lượng đường hấp thu vào máu (tăng đường huyết). Hoạt động làm tăng lượng đường tiêu thụ (giảm đường huyết). Dùng thuốc làm tăng dung nạp glucose vào cơ não, vào gan (giảm đường huyết). 
Điều trị ĐTĐ là phối hợp ăn uống, hoạt động, dùng thuốc hợp lý… để tổng cộng các mức tăng mức giảm đường huyết lại, sẽ có một mức đường huyết ngang với mức bình thường. Nếu vẫn giữ mức dùng thuốc với liều như cũ mà ăn uống thất thường (chậm bữa, ăn ít hơn, bỏ bữa) hay hoạt động quá mức (làm việc quá nhiều, làm việc nặng) thì sẽ bị hạ đường huyết.
Như vậy, muốn tránh hạ đường huyết không chỉ dùng đúng liều insulin là đủ mà còn phải ổn định cả việc ăn uống hoạt động.
Do xử lý không đúng khi bị tăng đường huyết:
Khi bị tăng đường huyết, nếu người bệnh tự ý tăng liều, tăng số lần dùng insulin sẽ có thể dẫn đến tác dụng ngược là bị hạ đường huyết. Việc kiểm soát đường huyết là cần, nhưng không được hạ đường huyết quá nhanh, quá mạnh, không làm hạ đường huyết xuống mức quá thấp, kiểm soát đường huyết bằng biện pháp nào, ở mức nào, do thầy thuốc quyết định.
Muốn tránh hạ đường huyết thì khi bị tăng đường huyết, người bệnh nhất thiết phải nhập viện, tuân thủ mọi chỉ định kiếm soát đường huyết của thầy thuốc.
Do không biết cách tính, cách dùng bút tiêm insulin dẫn tới quá liều:
Phần lớn người ĐTĐ thường có máy đo đường huyết tự động, bút tiêm insulin. Người bệnh có thể tính liều dựa vào thân trọng, điều chỉnh liều phù hợp với bữa ăn. 
Tuy nhiên, nếu không thạo tính toán, thao tác sai (không trộn đều thuốc, nhầm lẫn khi lấy thuốc cho mỗi lần tiêm) sẽ dẫn đến lấy sai lượng insulin. 
Nếu lấy quá số lượng cần, sẽ dùng quá liều insulin, dẫn đến hạ đường huyết. Cũng có khi người bệnh tự ý dùng liều dự phòng nhằm tránh tăng đuờng huyết nhưng kết quả mang lại là gây hạ đường huyết.
Muốn tránh hạ đường huyết, người bệnh phải học cách tính, cách dùng bút tiêm insulin thành thạo, không tự ý dùng liều dự phòng.
Do phối hợp insulin và các thuốc ĐTĐ khác chưa đúng:
Khuyến nghị chung với ĐTĐ týp 2 là nên dùng sớm insulin (khoảng sau khi mắc bệnh 10 năm). Tuy nhiên, muốn xác định đúng thời điểm dùng insulin thì phải xác định được mức suy yếu tuyến tụy. Điều này không phải tuyến y tế nào cũng làm được mà phải do các cơ sở chuyên khoa (có thầy thuốc kinh nghiệm, có khả năng xét nghiệm).
Thông thường trong ĐTĐ giai đoạn cuối hay phối hợp insulin với metformin. Do metforin có khả năng hạ đường huyết thấp (chỉ làm giảm lượng glucose sinh ra từ glycogen), nên việc phối hợp này ít khi gây ra hạ đường huyết chung, dễ thực hiện.
Trong thực tế ở ĐTĐ týp 2, giai đoạn sau, thầy thuốc cũng có cho phối hợp insulin với sulfonylure với mục đích tận dụng khả năng của tuyến tụy để giảm mức đề kháng insulin, từ đó có thể giảm liều dùng insulin. Nhiều nghiên cứu cho biết việc phối hợp này thường đạt được mục đích đề ra trên. 
Tuy nhiên, đây là một phối hợp khó, nếu tính không khéo liều mỗi thành phần thì khi phối hợp có thể gây ra hạ đường huyết. Khi phối hợp mà gặp sự cố hạ đường huyết, thì phải tính lại liều phối hợp, trước tiên phải giảm liều insulin theo chỉ định của thầy thuốc. 
Người bệnh cần lưu ý: đây là một phối hợp khó, thầy thuốc thường chỉ định cho người bệnh biết dùng thành thạo thuốc (biết dùng thành thạo bút tiêm insulin).
Trên thị trường, có loại thuốc phối hợp sẵn (insulin + sulfonylure) với hàm lượng ổn định, chỉ dùng được cho một số người (theo sự chỉ định của thầy thuốc), không nên tự ý mua dùng (vì chưa chắc đã phù hợp với mình).



Chớ nhầm thuốc ho với thuốc có tác dụng trên đờm

Thuốc tác dụng trên đờm như làm long đờm, hóa giáng đờm... rất hay bị dùng nhầm. Nguyên do có sự nhầm lẫn về tác dụng, cơ chế và thông tin dược học của thuốc...
Thuốc tác dụng trên đờm là gì?
Thuốc tác dụng trên đờm là tất cả các thuốc làm thay đổi đặc tính, tính chất, số lượng và độ bám dính của đờm trên bề mặt đường thở. 
Thông thường, trên đường thở lúc nào cũng có một lớp nhầy, có độ dính, độ ẩm vừa phải và số lượng vừa phải để bảo vệ đường hô hấp. Nhưng khi hệ hô hấp bị bệnh lý, lớp nhầy này bị thay đổi tính chất, trở nên bám dính, đặc quánh và khi đó nó được gọi là đờm.
Cần dùng các thuốc có tác dụng trên đờm một cách hợp lý.Cần dùng các thuốc có tác dụng trên đờm một cách hợp lý
Đờm gây ra nhiều tai hại. Trong điều trị bệnh, lớp đờm này phải được tống ra ngoài. Để thải bỏ được đờm ra ngoài, người ta dùng các thuốc gọi là thuốc tác dụng trên đờm.
Thuốc tác dụng trên đờm bao gồm có 4 nhóm cơ bản sau đây: nhóm làm loãng đờm, nhóm làm hóa giáng đờm, nhóm làm giảm bám dính đờm và nhóm tăng thải đờm. 
Về nguyên lý và cơ chế tác dụng, thuốc tác dụng trên đờm rất hay bị dùng nhầm dưới dạng thuốc chống ho. Thật ra, trên cơ chế dược học, các thuốc này không hề tác dụng vào các cơ chế gây ho.
Những nhầm lẫn...
Các nhầm lẫn về thuốc tác dụng trên đờm khá phổ biến trong thực tế. Nó có thể bị nhầm lẫn bởi ngay chính các nhà cung cấp thuốc (công ty dược), nhầm lẫn bởi chính bác sĩ và nhầm lẫn về thuật ngữ.
Trước hết, bàn tới sự nhầm lẫn về thuật ngữ. Chúng ta không thể đồng nhất thuốc làm loãng đờm với thuốc hóa giáng đờm, cũng không thể đồng nhất thuốc làm tăng thải đờm với thuốc giảm bám dính đờm. Vì thực tế, chúng có tên khác nhau thì tác dụng và hiệu quả sẽ khác nhau.
Thuốc làm loãng đờm là những thuốc làm tăng sự tiết dịch (chủ yếu là nước) trên bề mặt đường hô hấp. Sự tăng tiết này làm đờm có thêm nước hòa tan nên sẽ làm tăng khối lượng đờm, tăng thể tích đờm, đờm trở nên lỏng ra trông thấy. Thuốc điển hình trong nhóm này trên thị trường là guaifenesin.
Trong khi đó, thuốc hóa giáng đờm là những thuốc tác dụng trực tiếp vào đờm, có tác dụng bẻ gãy các cấu trúc hóa học liên kết trong nội bộ đờm làm sự liên kết của chúng trở nên lỏng lẻo hơn. Kết quả cuối cùng, chúng không làm tăng tiết dịch, tăng số lượng đờm nhưng lại làm cho đờm bớt đặc, dễ bị thải bỏ ra ngoài. Thuốc kinh điển nhóm này là acetylcystein, ambroxol, carbocistein, bromhexin...
Khác nhau là vậy, nhưng về mặt thuật ngữ, người ta hay đồng nhất chúng và gọi chung là tuốc long đờm.
Trong điều trị bệnh, người dùng (trong đó có một số nhân viên y tế và bệnh nhân) có quan niệm, cứ ho có đờm là dùng "thuốc long đờm". 
Nhưng rất đáng tiếc, công thức điều trị này đôi khi không phù hợp với tất cả mọi người. Thuốc tác dụng trên đờm chỉ thực sự hữu ích trong điều trị nếu như biết dùng đúng thời điểm. Nếu dùng chưa đúng thời điểm, tác dụng thu được không như người điều trị mong muốn.
Ví dụ, lời khuyên chung là có đờm thì phải long đờm, loãng đờm để khạc ra ngoài. Nhưng người ta lại quên mất có đờm ở mức độ nào mới dùng thuốc long đờm. Một trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, nếu đang có sự tăng tiết đờm quá nhiều, đang nhiều ran ẩm và ran nổ, đang có viêm phổi sòng sọc thì việc dùng thuốc lúc này sẽ đẩy viêm phổi mạnh hơn. 
Lý do: phổi sẽ càng nhiều dịch, càng nhiều tiếng ran hơn và càng khó thở. Một bệnh nhân COPD người lớn, lượng đờm tiết ra trong những đợt cấp tính là rất dữ dội. Nếu tiếp tục dùng các thuốc này vào sẽ rất bất lợi, vì ho sẽ càng tăng và khó thở sẽ càng rõ rệt. 
Vấn đề lúc này phải giảm tiết đờm nhằm mục tiêu kiểm soát lượng đờm cho phép trước khi quyết định dùng thuốc tác dụng trên đờm vào thời điểm sau đó. Xác định rõ mức độ đờm thế nào, dùng khi nào hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ, sự cẩn thận, sự tỉ mỉ trong khám bệnh cũng như kinh nghiệm điều trị.
Để dùng đúng thuốc
Để có cách dùng đúng, chúng ta cần nắm vững về cơ chế và nguyên lý tác dụng. Khi nào cần dùng thuốc làm loãng đờm, khi nào cần dùng thuốc hóa giáng đờm, khi nào cần dùng thuốc chống bám dính đờm.
Trong thời điểm đờm đang quá nhiều, việc dùng thuốc làm loãng đờm hoặc thuốc hóa giáng đờm là rất không nên. Vấn đề lúc này cần điều tiết lượng đờm bằng các thuốc khác nhau. Sau khi đã kiểm soát được lượng đờm, vấn đề thải bỏ đờm là quan trọng. Lúc này các thuốc tác dụng trên đờm thực sự hữu ích.
Thuốc long đờm không phải là thuốc chống ho. Vì thuốc không có tác dụng cắt đứt cơn ho trên cơ chế và trên thực tế. Vì vậy, giải pháp cho dùng thuốc để cắt đứt cơn ho là không phù hợp. 
Một vài trường hợp dùng thấy khỏi ho hoàn toàn không do thuốc có tác dụng mà đó chỉ là sự khỏi đồng thuận may mắn do tình cờ mà có. Ví dụ, trong cảm cúm nhẹ, bạn sẽ có ho. Dù bạn có uống thuốc long đờm hay không thì một vài ngày sau bạn cũng khỏi cúm và cũng khỏi ho. Việc khỏi này hoàn toàn không do thuốc long đờm tạo ra.
Rất quan trọng với dùng thuốc tác dụng trên đờm là nước. Thuốc sẽ không đạt công hiệu tối đa nếu không uống nước nhiều và đầy đủ. Nước là một chất trực tiếp làm tăng dịch tiết trong đờm, tăng độ loãng cho đờm. 
Nên nếu như không uống kèm thêm một chỉ định thì dù có uống liều cao guaifenesin hay liều cao ambroxol thì hiệu quả thu được rất hạn chế. Thường phải uống ít nhất 1,5 lít nước/ngày với một người trưởng thành. Thêm chừng 300-500ml nếu có sốt cao.




6 loại thuốc làm tăng bệnh trầm cảm

Ngoài phản ứng phụ gây suy giảm trí nhớ, làm phát mùi cơ thể thường gặp ở một số dược phẩm, những loại thuốc chữa bệnh quen thuộc dưới đây có thể làm tăng thêm chứng bệnh trầm cảm ở con người.
1. Thuốc chữa cao huyết áp
Thuốc chữa cao huyết áp được kê đơn là nhóm thuốc ức chế bêta như: atenolol (Tenormin), carvedilol (Coreg), metoprolol, propranolol (Inderal), sotalol (Betapace), timolol (Timoptic) và các loại thuốc có hậu tố là "olol". Nhóm thuốc hạ nhịp tim và hạ huyết áp thường hoạt hóa bằng cách ngăn chặn tác động của hoóc-môn adrenaline. 
Nhóm thuốc chẹn bêta còn được dùng để trị cơn đau thắt ngực và các chứng bệnh khác: đau nửa đầu, run, nhịp tim không đều, mắt sụp và một số dạng bệnh về tăng nhãn áp. Mặc dù đã tiến hành nhiều nghiên cứu nhưng các nhà khoa học vẫn chưa hiểu cặn kẽ vì sao nhóm thuốc chẹn bêta lại gây chứng trầm cảm, thậm chí nó còn gây mệt mỏi và suy giảm tình dục.
Giải pháp: nhóm người khi phải dùng thuốc huyết áp thì nên dùng thuốc chẹn benzothiazepine hoặc tư vấn bác sĩ thay bằng thuốc hạ huyết áp khác, ít làm tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, nhất là nhóm người cao niên có tiền sử mắc phải căn bệnh này.
2. Nhóm thuốc Corticosteroid
Corticosteroid được sử dụng để điều trị chứng viêm mạch máu và cơ bắp cũng như: viêm khớp dạng thấp, lupus, hội chứng Sjogren và bệnh gút. Phổ biến như: thuốc cortisone, methylprednisolone, prednisone và triamcinolone. 
Qua nghiên cứu cho thấy rằng mức độ corticosteroid thấp sẽ làm giảm serotonin trong cơ thể và một khi nồng độ serotonin giảm có thể gây ra trầm cảm và rối loạn tâm thần. Đôi khi bỏ dùng corticosteroid đột ngột cũng có thể gây trầm cảm.
6 loại thuốc làm tăng bệnh trầm cảm
Giải pháp: nếu có thể thay bằng Acetaminophen (Tylenol), aspirin, tramadol (Ultram) hoặc dùng nhóm thuốc có chứa thành phần thuốc phiện nhẹ như hydrocodone/acetaminophen (Vicodin). Khi con người ta về già, các chứng đau khớp không phải từ tình trạng viêm do dùng corticosteroids mà nó xuất phát từ tình trạng tổn thương khớp do viêm nhiễm tích tụ trong nhiều năm gây ra.
3. Nhóm thuốc ngủ Benzodiazepine
Nhóm thuốc này còn được gọi là thuốc an thần benzodiazepine, thường được kê đơn để điều trị bệnh lo âu, mất ngủ và thư giãn cơ bắp. Ví dụ như thuốc alprazolam (Xanax), diazepam (Valium), estazolam (ProSom), flurazepam (DALMANE), lorazepam (Ativan), Temazepam (Restoril) và triazolam (Halcion). 
Sở dĩ Benzodiazepines thường gây trầm cảm hệ thần kinh trung ương là do khi nó không được chuyển hóa hoàn toàn ở gan, gây tích tụ trong cơ thể và dẫn đến độc hại. Phát sinh "hiệu ứng nôn nao" và làm gia tăng bệnh trầm cảm. Nhóm người lớn tuổi do sức khỏe yếu, do gan thiếu một loại enzyme quan trọng để chuyển hóa các loại thuốc nên cũng dễn bị trầm cảm do dùng Benzodiazepine.
Giải pháp: hãy tạo ra thói quen ngủ nghỉ khoa học ngủ và thức đúng giờ, tránh ăn no trong vòng hai giờ trước khi đi ngủ, dành 30 phút thư giãn trước khi lên giường. Ngoài ra, có thể bổ sung Melatonin để hỗ trợ giấc ngủ, hạn chế tối đa việc dùng thuốc ngủ.
4. Nhóm thuốc làm thay đổi nội tiết tố
Các loại thuốc làm thay đổi nội tiết tố được bác sĩ kê đơn để điều trị một loạt bệnh, như: thuốc Estrogen (Premarin) để trị chứng bốc hỏa và các triệu chứng mãn kinh khác. 
Sở dĩ nhóm thuốc này làm gia tăng bệnh trầm cảm là do việc sao chép các chức năng của hoóc-môn trong cơ thể và gây ra vấn đề nan y khác, nhất là tương tác thuốc với hệ thống thần kinh trung ương. Nghiên cứu cho thấy việc thay đổi hoóc-môn có liên quan đáng kể việc gia tăng các triệu chứng của bệnh trầm cảm.
Giải pháp: những phụ nữ mãn kinh cần đánh giá lại nguyên nhân gây bệnh bốc hỏa, nóng bừng, xem xét các loại thuốc đang dùng và tư vấn bác sĩ để thay đổi phương án điều trị, tăng cường luyện tập, thay đổi lối sống sẽ có tác dụng hơn là dùng thuốc, thậm chí còn rất nhiều phản ứng tiềm ẩn đến nay khoa học vẫn chưa biết hết.
5. Các loại thuốc kích thích
Rất đa dạng như methylphenidate (Ritalin) và modafinil (Provigil), thường được kê đơn điều trị chứng buồn ngủ quá mức ban ngày, chứng buồn ngủ triền miên, chứng ngủ rũ hoặc ngưng thở khi ngủ. Nhóm thuốc này còn được kê đơn cho bệnh nhân ADHD (tăng động giảm chú ý) và mệt mỏi. Nhóm thuốc này làm tăng dopamine, phát sinh chứng trầm cảm.
Giải pháp: giống như nhóm thuốc benzodiazepine nói trên, khi bị mất ngủ nên xác định nguyên nhân và xem lại phác đồ điều trị. 
Một số nhóm thuốc kê đơn hay không kê đơn cũng có thể gia tăng bệnh buồn ngủ như thuốc chẹn alpha và beta, thuốc chống tiêu chảy, thuốc kháng histamin, thuốc chống loạn thần, thuốc chống co thắt, ức chế ho, thuốc động kinh, thuốc giãn cơ xương và thuốc Parkinson. Nên tư vấn bác sĩ chuyển sang dùng loại thuốc có lợi hơn, thay đổi lối sống, ăn uống cân bằng, khoa học và năng luyện tập.
6. Nhóm thuốc statin và thuốc hạ lipid máu
Statins là nhóm thuốc thường dùng theo đơn để giảm cholesterol (mỡ máu), thuốc fibrate, ezetimibe, colesevelam và acid nicotinic. Qua nghiên cứu cho thấy, các loại thuốc hạ lipid máu có thể gây trầm cảm thông qua cơ chế làm giảm cholesterol trong não, nơi nó hỗ trợ tạo ra các tín hiệu truyền dẫn thần kinh.
Giải pháp: có thể sử dụng kết hợp vitamin B12 (tiêm hoặc loại ngậm dưới lưỡi), vitamin B6, acid folic và dầu cá có thể làm giảm homocysteine trong cơ thể. Homocysteine là acid amin gây tổn thương niêm mạc động mạch bên trong (nội mạc), các tế bào khác của cơ thể và làm tăng lipid.
Theo nghiên cứu cho thấy, việc giảm cholesterol bằng ăn uống, luyện tập và áp dụng lối sống tích cực sẽ có lợi hơn là dùng thuốc, nhất là làm giảm tác dụng phụ, trong đó có bệnh trầm cảm,



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons