Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Thuốc "kích thích trẻ ăn ngon và tăng cân": Lợi bất cập hại



Nhiều bà mẹ muốn cho con em mình hay ăn chóng lớn đã tìm đến sự trợ giúp của thuốc. Vậy những thuốc nào có tác dụng này và sự nguy hại khi sử dụng không đúng như thế nào?
Trước hết, các bậc phụ huynh cần biết bản chất của các thuốc kích thích trẻ ăn ngon và tăng cân ở trẻ. Thuốc thường được các bà mẹ mách nhau dùng là cyproheptadin. Ðây là thuốc kháng histamin chống dị ứng nhưng có thêm tác dụng kích thích sự thèm ăn.
Thuốc không làm tăng trọng mà tác dụng gián tiếp điều trị chứng chán ăn cho trẻ, làm cho trẻ dùng thuốc ăn ngon hơn. 
Cần lưu ý, cyproheptadin chỉ kích thích trẻ thèm ăn tạm thời và có nhiều tác dụng phụ. Khi đang dùng thuốc, thuốc sẽ kích thích ăn ngon miệng nhưng khi ngưng thuốc trẻ sẽ chán ăn trở lại. Thuốc có tác dụng phụ gây buồn ngủ và không được dùng cho trẻ em dưới 2 tuổi. 
Ðối với trẻ nhỏ, thuốc có thể gây cơn co giật còn gọi là tác dụng phụ thần kinh ngoại tháp. Do lợi bất cập hại như vậy nên nhiều nước đã không còn dùng cyproheptadin để điều trị chứng chán ăn cho trẻ em nữa.
Các thuốc chống viêm glucocorticoid, thường được gọi tắt là corticoid hay steroid cũng hay bị lạm dụng cho mục đích này. Thuộc nhóm này gồm dexamethason thường được quen gọi là "đề xa", prednison, pednisolon... 
Corticoid là thuốc dùng để chống viêm, điều trị các bệnh thấp khớp, các bệnh dị ứng ngoài da và hệ hô hấp như hen phế quản, bệnh thận hư, nhưng không bao giờ được sử dụng làm thuốc kích thích trẻ ăn ngon và tăng cân. Do cơ thể trẻ có vẻ béo ra và tăng trọng khi uống thuốc này kéo dài mà một số người tưởng là tốt nhưng thực ra là biểu hiện của tác dụng phụ có hại của thuốc. 
Vì corticoid có tác dụng giữ nước và muối natri trong cơ thể. Ngoài corticoid, một số thuốc khác cũng có tác dụng tương tự như phenylbutazon chống viêm, carbenoxolon điều trị viêm loét dạ dày... gây rối loạn chuyển hóa lipid và làm đọng mỡ lại ở mặt, cổ và lưng, nên trẻ em dùng thuốc lâu ngày sẽ bị béo phì, nhưng thật ra cơ thể lại bị teo cơ. 
Ngoài tác dụng phụ gây béo phì, thuốc còn có một số tác dụng phụ nguy hiểm khác như làm loãng xương, tăng huyết áp, gây tắc mạch, có thể gây loét dạ dày - tá tràng, làm giảm sự đề kháng của cơ thể dễ dẫn đến các bệnh nhiễm trùng.
Một thuốc khác là durabolin (nandrolon phenylpropionat), một dẫn chất tổng hợp tương tự hormon sinh dục nam testosteron nhưng có cấu trúc hóa học hơi khác testosteron. 
Tác dụng chủ yếu của durabolin là đồng hóa protein, nghĩa là giúp cơ thể hấp thu, chuyển hóa chất đạm và vận chuyển các acid amin của chất đạm vào bên trong mô cơ, làm cho cơ thể phát triển cơ bắp, tăng cân.
Durabolin còn gọi là thuốc tăng đồng hóa, được chỉ định điều trị chứng gầy ốm, sụt cân, mất sức sau khi mắc bệnh nặng. Dạng thuốc của durabolin là thuốc tiêm. Một số thuốc anabolic steroid được dùng dưới dạng uống. Không dùng thuốc cho trẻ dưới 15 tuổi.
Bên cạnh đó cũng phải đề cập đến các loại thuốc "Đông y giả". Một số thuốc Đông y có pha trộn corticoid, cyproheptadin để tạo những tác dụng trước mắt kích thích trẻ ăn ngon và tăng cân, nhưng tác hại do việc dùng lâu ngày các loại này là không thể lường trước được. 
Vì vậy, các bậc cha mẹ cần lưu ý đừng bao giờ lạm dụng các thuốc trên để kích thích trẻ ăn ngon và tăng cân là hết sức nguy hiểm.




Thuốc + rượu = họa

Rượu là một loại đồ uống có cồn, gây kích thích cho người uống, có nhiều tác dụng trên hệ thần kinh trung ương. 
Vì vậy, khi vừa uống rượu, vừa dùng thuốc chữa bệnh, rượu có thể sẽ tương tác với một số loại thuốc, làm tăng hoặc giảm tác dụng, hiệu lực của thuốc hoặc chuyển hóa thuốc thành chất độc hại. Vậy cần phải biết những loại thuốc nào không được dùng khi uống rượu!
Thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương: Các thuốc như thuốc an thần(diazepam) điều chỉnh rối loạn quá trình hưng phấn - ức chế, thuốc ngủ (phenobarbital) ức chế quá trình kích thích, thuốc động kinh (carbamazepin) làm giảm quá trình kích thích... khi dùng cùng với rượu thì rượu sẽ làm tăng tác dụng của các thuốc này gây độc giống như dùng quá liều.
Thuốc + rượu = họa
Khi uống thuốc, không nên uống rượu đề phòng tác dụng phụ nguy hiểm
Thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương (caffein): Khi dùng các thuốc này với rượu thì rượu sẽ làm đảo ngược tác dụng của thuốc làm cho thuốc giảm hiệu lực.
Các kháng histamin thế hệ cũ (chlopheniramin, alimemazin, promethazin cycloheptadin) thấm vào não gây ức chế hệ thần kinh trung ương. Đối với các thuốc này, khi dùng cùng với rượu thì rượu làm tăng tác dụng của thuốc gây độc.
Thuốc hạ huyết áp: Rượu khi uống làm giãn mạch làm thoát nhiệt ra ngoài, mặt đỏ bừng làm cho có cảm giác ấm nhưng thực chất là làm giãn mạch gây hạ thân nhiệt. 
Sự giãn mạch này đưa đến hạ huyết áp. Nếu dùng chung với thuốc làm hạ huyết áp (dù với cơ chế làm hạ huyết áp như thế nào) thì rượu cũng làm tăng tính hạ huyết áp của thuốc gây nên việc giảm huyết áp đột ngột, nguy hiểm.
Nhóm thuốc gây độc cho gan: Rượu gây độc cho gan, nếu dùng rượu chung với các nhóm thuốc gây độc cho gan như thuốc chống lao (pyrazinamid), thuốc sốt rét (mepraquin), thuốc chống nấm (griseopulvin), thuốc mạch vành (herhexilin), thuốc chữa loạn nhịp (quinidin) thì rượu và thuốc cùng gây độc cho gan làm cho tính độc cho gan tăng lên.
Ngoài ra, cần biết khi uống rượu, gan phải dùng gluthation để giải hóa làm cạn kiệt chất này và những thuốc nào nhờ chất này mà chuyển hóa thành chất không độc như paracetamol thì quá trình chuyển hóa bị trở ngại và trở nên độc cho gan hơn.
Thuốc hạ đường huyết: Rượu làm tăng phản ứng hạ đường huyết. Khi dùng chung với các thuốc hạ đường huyết trong bệnh tiểu đường týp II (chlopropamid, glibenclamid, glipizid tolbutamid) thì nó tác dụng như một chất hiệp đồng làm hạ đường huyết đột ngột, dẫn đến hôn mê.
Kháng sinh: Rượu còn bị một số kháng sinh gây ra phản ứng sợ rượu (gọi là phản ứng altabuse) như các kháng sinh nhóm cephalosporin, nhóm phenicol (chloramphenicol), nhóm azol (metronidazol, ketocanzol). Khi dùng các nhóm kháng sinh này (hiện nay có rất nhiều) thì không được uống rượu.
Thuốc kháng viêm không steroid thế hệ cũ: Rượu còn gây ra một số phản ứng phức tạp trên các kháng viêm không steroid thế hệ cũ. 
Các kháng viêm không steroid thế hệ cũ vừa ức chế cyclo-oxydase II làm giảm đau, ức chế cả cyclo-oxydase I gây tác dụng phụ trên đường tiêu hóa. Với tác dụng ức chế của mình, rượu làm tăng tác dụng có hại nhiều hơn. Vì thế, khi dùng các kháng viêm không steroid thế hệ cũ (như aspirin, paracetamol, ibuprofen...), phải tuyệt đối kiêng rượu.



Lợi ích của vitamin B5

Vitamin B5 còn được gọi là acid pantothenic, pantothenate; là một vitamin tan trong nước. Vitamin B5 được phát hiện bởi Roger J. Williams vào năm 1919. Trong tiếng Hy Lạp, pantothenic mang nghĩa là "có ở khắp nơi", nên B5 là một trong những vitamin có nhiều nhất trong thiên nhiên.
Vitamin B5 có nhiều trong men, ngũ cốc, lạc, các loại đậu, đỗ, lòng đỏ trứng, các loại nấm, thịt gia súc, gia cầm, hoa quả và rau xanh...
Lợi ích của vitamin B5
Tuy nhiên, vitamin B5 không có trong các loại thực phẩm đã qua chế biến. Ngoài ra, lượng lớn vitamin B5 sẽ bị mất khi thực phẩm được đóng hộp, làm đông lạnh.
Song do nó có sẵn trong tự nhiên nên cơ thể chúng ta ít khi bị thiếu hụt loại vitamin này trừ khi suy dinh dưỡng nặng, không ăn được, đến tuổi dậy thì... Thiếu hụt vitamin B5 có thể gây ra mệt mỏi, khó ngủ, nhức đầu, buồn nôn, rụng tóc và sự khó chịu trong dạ dày.
Cơ thể rất cần vitamin B5 để tạo ra các hormon và các tế bào hồng cầu khỏe mạnh; chuyển hóa carbohydrate và chất béo thành năng lượng, góp phần hình thành các kháng thể và được cho là một chất tăng cường khả năng chịu đựng của cơ thể. 
Ngoài ra, coenzym A chuyển hóa từ vitamin B5 còn được sử dụng trong cai nghiện, đào thải các loại thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, các loại thuốc có hại ra khỏi cơ thể.
Vitamin B5 được sử dụng để trị liệu như làm giảm các nguy cơ gây bệnh suyễn, rụng tóc, dị ứng, căng thẳng và lo âu, rối loạn hô hấp và bệnh tim. 
Nó cũng giúp tăng cường khả năng miễn dịch, giảm viêm xương khớp và ngăn ngừa các dấu hiệu lão hóa, tăng sức đề kháng với các loại bệnh nhiễm trùng và quản lý các rối loạn về bệnh đái tháo đường và da dẻ.




Những loại thuốc gây độc cho thận

Thận có chức năng điều hòa nội môi. Khi thận bị nhiễm độc, chức năng này bị rối loạn sẽ ảnh hưởng dây chuyền đến các cơ quan khác. Thuốc gây độc cho thận bao gồm những thuốc trực tiếp gây nhiễm độc thận, không tính đến các thuốc gây độc khác do sự thải trừ kém của thận gây ra.
Các nhóm thuốc gây độc cho thận
Xếp các thuốc gây nhiễm độc thận thành từng nhóm theo cơ chế gây nhiễm.
Các thuốc gây tổn thương ống thận:
Kháng sinh: rất nhiều kháng sinh gây tổn thương ống thận.
Nhóm Aminosid: gây suy thận với tỉ lệ 10%; xuất hiện sau khi dùng 7 - 10 ngày. Streptomycin, neomycin gây nhiễm độc thận nặng, tobramycin gây nhiễm độc thận trung bình. Hiện neomycin không dùng dạng tiêm rất hiếm khi dùng dạng uống, streptomycin chỉ dùng với liều xác định trong điều trị lao, tobramycin chỉ dùng dưới dạng thuốc tra mắt. 
vậy thực tế, tần suất gây nhiễm độc thận của ba loại thuốc này thấp. Gentamycin gây nhiễm độc thận ở mức tương tự như tobramycin. Tuy nhiên, gentamycin được dùng và bị lạm dùng nhiều nên thực tế tần suất gây nhiễm độc thận lại cao nhất.
Nhóm Cephalosporin: thế hệ 1(cephalexin, cefadroxil, cefalotin, cefazolin) thường gây nhiễm độc ống thận. Trong khi đó, các cephalosporin thế hệ 2 - 3 trở đi lại ít gây nhiễm độc ống thận nhưng dạng tiêm lại gây rối loạn chức năng thận mạnh hơn.
Những loại thuốc gây độc cho thận
Nhóm Amphotericin B: tác dụng lên lipid của màng biểu mô ống thận, gây suy thận cấp, nếu dùng với liều tiêm 5g/ngày có thể bị tổn thương thận vĩnh viễn.
Nhóm kháng virút: các kháng virus (adefovir, cidofovir, tenofovir, foscarnet) làm bong tróc tế bào biểu mô từ mức nhẹ (khu trú ở ống lượn gần) đến nặng (gây hoại tử ống thận cấp, đòi hỏi phải lọc máu). Trong số này tenofovir ít gây độc, foscarnet dễ gây độc hơn (trên 27% người dùng, tuy không nặng). Mức độ độc của các thuốc này lệ thuộc vào liều dùng.
Thuốc giảm đau: các thuốc giảm đau hiếm khi gây nhiễm độc ống thận. Riêng paracetamol có thể gây suy thận cấp (và viêm gan) nhưng chỉ gây suy thận cấp khi dùng liều rất cao (15g/ngày) hoặc liều tương đối cao kéo dài hoặc khi uống paracetamol nhưng lại uống nhiều rượu (do trong trường hợp này, gan không sản xuất ra đủ gluthation để hóa giải chất trung gian độc N-acetylbenzoquinonium do paracetamol tạo ra).
Các thuốc làm giảm lượng máu đến thận:
Kháng viêm không steroid thế hệ cũ: các thuốc này ức chế sản xuất prostaglandin, làm giảm lưu lượng máu đến thận, giảm độc lọc cầu thận, có thể dẫn đến suy thận; tuy nhiên tai biến này ít xảy ra khi dùng theo liều điều trị từng đợt ngắn, chỉ xảy ra khi dùng liều cao và/hoặc kéo dài.
Thuốc hạ áp có cơ chế gây giãn mạch: thuốc hạ áp nhóm ức chế men chuyển gây tụt huyết áp mạnh, làm giảm lưu lượng máu qua thận, gây suy thận.Tai biến này xảy ra khi dùng khởi đầu với liều cao hoặc dùng ngay sau đợt dùng thuốc lợi tiểu.
Các thuốc gây tắc ống thận:
Các thuốc này có độ hòa tan thấp, gây kết tinh trong ống thận.
Sulfamid: xảy ra ngay khi dùng ở liều điều trị lúc cơ thể bị mất nước (tiêu chảy, sốt cao) hay khi dùng mà không uống đủ nước (uống 0,5g sulfamid đúng ra phải uống kèm 0,5 lít nước).
Thuốc dự phòng cơn gút cấp: các thuốc allopurinol, probenecid, sulphipyrazon làm tan các tủa urat, tăng thải acid uric. Khi dùng liều cao acid uric thải ra nhiều hay khi dùng mà không uống đủ nước (đúng ra phải uống 2 lít/ngày) thì acid uric có nồng độ cao sẽ gây kết tính urat trong đường niệu.
Thuốc kháng virút: acyclovir có độ tan thấp. Dùng liều bình thường cũng có thể gây kết tinh ở ống thận, dễ xảy ra nhiều và nặng hơn khi dùng liều cao hay tiêm tĩnh mạch nhanh; xảy ra sau khi dùng 24 - 48 giờ với tỉ lệ 12 - 48% người dùng. Đa số thường nhẹ, không có triệu chứng, tự phục hồi sau khi uống đủ nước hoặc ngừng thuốc.
Các thuốc gây suy thận mạn:
Hai thuốc gây suy thận mạn thường gặp là thuốc ung thư cisplatin, thuốc hướng thần lithium carbonat. Khi dùng liều cao kéo dài chúng tích lũy lại tại ống thận gây suy thận mạn.
Các thuốc gây dị ứng miễn dịch ở ống thận, mô kẽ:
Các tế bào ở vị trí này rất dễ nhạy cảm, dị ứng với nhiều thuốc không lệ thuộc vào liều như các kháng sinh (betalactam kể cả cephalosporin, erythromycin, vancomycin, miocyclin; thuôc chống tiết acid (cemitidin); thuốc chữa động kinh (phenobacbital) thuốc chống rối loạn lipid (clofibrat). Tai biến chỉ xảy ra ở người có cơ địa dị ứng nên tần suất thấp nhưng vì không thể biết trước nên khó đề phòng.
Những loại thuốc gây độc cho thận
Các thuốc gây hội chứng thận hư:
Các thuốc này gây lắng đọng phức hợp miễn dịch dẫn đến hội chứng thận hư nhưng không gây suy thận, khi ngừng thuốc cầu thận trở lại bình thường. Thường gây tai biến này là thuốc chữa thoái hóa khớp (D-penicilamin), thuốc chữa động kinh (trimethadion), thuốc hạ huyết áp (catopril).
Cách phòng tránh
Khi dùng các thuốc này, người khỏe mạnh cũng có thể có nguy cơ nhiễm độc thận; người có chức năng thận suy giảm do cao tuổi hay quá nhỏ tuổi, do mắc bệnh thận hay một số bệnh mạn kèm theo thì nguy cơ này càng cao, dễ xảy ra và nặng. Trước khi dùng các thuốc này phải xem xét chức năng thận; với người có nguy cơ cao thì điều này là bắt buộc.
Phải dựa vào hệ số thanh thải creatinin để tính liều dùng. Nơi không làm được hệ số thanh thải creatinin (như trạm y tế xã) thì cần dùng khởi đầu với liều thấp rồi tăng dần, theo dõi chặt chẻ lâm sàng ( số lượng và độ đục của nước tiểu). Kinh nghiệm với người suy chức năng thận thì chỉ dùng liều bằng 40 - 50% liều người trung niên khỏe mạnh.
Tuân thủ các điều kiện dùng thuốc, tránh ảnh hưởng xấu đến thận. Chẳng hạn: không dùng kháng viêm không steroid kéo dài. Phải dùng khởi đầu liều thuốc hạ huyết áp có cơ chế giãn mạch với liều thấp, ngừng dùng thuốc lợi tiểu vài ba ngày mới được dùng thuốc này. Uống đủ nước khi dùng sulfamid, acyclovir hay các thuốc dự phòng gút cấp allopurinol, probenecid, sulphipyrazon, riêng với thuốc dự phòng gút cấp còn phải khởi đầu liều thấp.



Thuốc trị hôi nách

Hôi nách là hiện tượng ra mồ hôi có mùi nặng hơn bình thường. Tình trạng này không gây nguy hiểm nhưng lại gây ra phiền toái cho bản thân và những người xung quanh… nhất là trong những ngày hè nóng nực này.
Thuốc trị hôi nách
Vì sao nách hôi?
Bình thường trên da có 2 tuyến mồ hôi: tuyến mồ hôi thông thường (còn gọi là tuyến mồ hôi nước, có chức năng tiết mồ hôi để điều hòa thân nhiệt, giữ độ ẩm cho da, làm da mịn màng, mềm mại) và tuyến mồ hôi nhầy. 
Tuyến mồ hôi nhầy tiết ra một chất lỏng như dầu có thể có màu (do thành phần chất tiết có cholesterol và sắt). 
Thông thường chất tiết ban đầu không có mùi nhưng do sự phân hủy của các chất sừng (keratin) kèm một số axit amin, các chất hữu cơ với tác dụng của vi khuẩn khi lên tới mặt da tạo nên mùi đặc biệt, đôi khi mùi hôi có mùi giống mùi tỏi, mùi thuốc… ở người hôi nách có sự cấu tạo đặc biệt nào đó của thành phần mồ hôi và chất bã do quá nhiều các hỗn hợp amoniac và các axit béo. 
Thêm vào đó sự phân hủy của các chất sừng đã bị ngấm mồ hôi bởi vi khuẩn hoặc nấm có trong tuyến mồ hôi hoặc tuyến bã tạo nên tính chất "nặng mùi" của người hôi nách.
Thuốc nào để chữa trị?
Hôi nách không nguy hiểm nhưng lại gây ra phiền toái cho bản thân và những người xung quanh. Trong khi đó việc điều trị lại rất khó khăn. 
Nếu hôi nách nhẹ chỉ cần thường xuyên giữ vệ sinh thân thể sạch sẽ, đặc biệt là hai hố nách. Lau rửa hai hố nách bằng xà phòng hoặc nước chanh pha loãng 1 - 3% là được. Khi về già các tuyến mồ hôi lớn sẽ co hẹp hôi nách bớt dần rồi tự khỏi.
Có thể dùng xoa vào nách một trong các bột sau:
Bột axit salicilic hoặc bột carbonat canxi hoặc hỗn hợp bột gồm axit salicylic 1g, axit boric 3g, tanin 3g, ô xít kẽm 3g, và bột talc 30g.
Có thể dùng phèn chua chưng lên trở thành dạng cục bột. Dùng tay bóp mịn hoặc nghiền thành bột mịn. Rửa sạch nách rồi bôi bột lên nách ngày 1 - 2 lần.
Thuốc trị hôi nách
Phèn chua trị hôi nách
Dùng hoạt thạch nghiền thành bột mịn, rửa sạch nách rồi bôi bột đó lên 1 - 2 lần/ngày. Sau vài ngày sẽ bớt hôi nách.
Dùng dung dịch formain 2 - 3% hoặc dung dịch tanin 2 - 5% bôi lên nách có tác dụng ức chế mồ hôi và trừ mùi hôi khét. Nên hạn chế ăn tỏi
Ngoài ra, trong trường hợp nặng hơn, có thể hạn chế sự bài tiết mồ hôi bằng thuốc an thần, điều hòa thần kinh giao cảm bằng chạy điện hoặc chiếu quang tuyến tại chỗ hay phẫu thuật. Tuy nhiên các biện pháp trên phải do các thầy thuốc chuyên khoa thực hiện. Người bệnh không được tự ý áp dụng các phương pháp này.



Thuốc sốt rét có thể ngăn ngừa ung thư gan

Các nhà khoa học thuộc Đại học London (Anh) đã phát hiện ra một loại thuốc chống sốt rét giá rẻ có thể ngăn ngừa ung thư gan, mang tới tia hy vọng mới cho nhiều bệnh nhân.


thuoc
Chloroquine - một dẫn xuất của quinin là một loại thuốc giá rẻ và an toàn, phổ biến ở rất nhiều hiệu thuốc và là thuốc được lựa chọn cho du khách tham quan các vùng nhiệt đới.
Các nhà khoa học tại ĐH London đã phát hiện ra rằng nó cũng có thể ngăn ngừa ung thư gan.
Mặc dù các nghiên cứu từ trước cho đến nay chỉ được tiến hành trên chuột nhưng nhóm nghiên cứu hy vọng thành công sẽ được lặp lại trong các thử nghiệm lâm sàng trên con người.
Khoảng 4.000 người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư gan mỗi năm ở Anh. Chỉ 1 trong số 5 người sống sót được trong vòng 1 năm, và 1 tỏng số 20 người sẽ sống được 5 năm. Hơn 600.000 người bị viêm gan cho thấy nguy cơ bị ung thư gan là rất lớn.
Khoảng 60% các trường hợp ảnh hưởng đến nam giới và 40% ảnh hưởng đến phụ nữ.
Số liệu mới nhất từ ​​Văn phòng Thống kê quốc gia (ONS) cho thấy, từ năm 2003-2012 tỷ lệ ung thư gan ở Anh tăng 70% đối với nam và 60% đối với nữ.
Chloroquine hoạt động bằng cách tiêu diệt hai protein (protein Toll-like 7 và 9), được cho là có khả năng tái tạo lại khi các tế bào gan chết, gây ra tình trạng viêm mãn tính, dừng tái tạo các tế bào phù hợp và gây ra ung thư.
Gan là một trong những cơ quan phức tạp nhất trong cơ thể con người, thực hiện hơn 500 chức năng bao gồm tiêu hóa chất béo và protein, loại bỏ độc tố và giúp kiểm soát đông mạch.
Khi bị xơ gan do uống quá nhiều rượu hoặc viêm gan, gan bị tổn thương, các cơ quan bị hư hỏng, không thể tái sản xuất và từ đó tạo ra các tế bào ung thư.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng thuốc ngăn ngừa ung thư có tác dụng trong 80% các trường hợp. Nó cũng đã giảm khối u.
TS Kat Arney, Giám đốc truyền thông khoa học nghiên cứu ung thư Anh, cho biết: "Đây là những phát hiện thú vị từ phát triển các tế bào trong phòng thí nghiệm trên các mô hình và động vật, thấy được chloroquine ảnh hưởng đến các phân tử liên quan đến ung thư gan như thế nào sẽ mở ra hi vọng mới cho các thử nghiệm lâm sàng trên người, giúp ngăn chặn căn bệnh quái ác này."
Nghiên cứu được đăng trên tạp chí Liver International.



Azithromycin - Kháng sinh có dược động học đặc biệt

Azithromycin là một kháng sinh mới có hoạt phổ rộng thuộc nhóm macrolid, được gọi là azalid. Thuốc có tác dụng diệt khuẩn mạnh bằng cách gắn với ribosom của vi khuẩn gây bệnh, ngăn cản quá trình tổng hợp protein của chúng. 
Tuy nhiên, cũng đã có kháng chéo với erythromycin, vì vậy, cần cân nhắc cẩn thận khi sử dụng azithromycin do đã lan rộng vi khuẩn kháng macrolid ở Việt Nam.
Trong thực tế điều trị, azithromycin có khá nhiều dạng bào chế để chọn lựa tùy đối tượng sử dụng. Thuốc cũng hay được sử dụng cho trẻ em với các dạng hỗn dịch uống, gói bột uống, bột pha si-ro, viên nang... và hay được kê đơn cho điều trị tại nhà. 
Việc sử dụng các dạng thuốc uống một cách khá dễ dàng đã làm cho dạng thuốc này thường bị lạm dụng dẫn đến tình trạng kháng thuốc khá cao.
Loại thuốc có dược động học đặc biệt
Azithromycin thường được dùng đường uống, phân bố rộng rãi trong cơ thể với khả dụng sinh học khoảng 40%. Thức ăn làm giảm khả năng hấp thu azithromycin khoảng 50%, do đó, không được uống thuốc này cùng với thức ăn hoặc ngay sau khi ăn. 
Tốt nhất là nên uống trước bữa ăn 1h hoặc sau khi ăn 2h. Sau khi dùng thuốc, nồng độ đỉnh huyết tương đạt được trong vòng từ 2 - 3h. Thuốc này có chỉ số thể tích phân bố khá lớn và được phân bố chủ yếu trong các mô như phổi, amidan, tiền liệt tuyến, bạch cầu hạt và đại thực bào... 
Điều đặc biệt là nồng độ azithromycin phân bố trong các mô cao hơn trong máu nhiều lần (khoảng 50 lần nồng độ tối đa tìm thấy trong huyết tương). Đây là loại kháng sinh có thể tích phân bố (Vd) lớn, phân bố nhiều vào mô, có tái phân bố, dùng thuốc 3 ngày nhưng nồng độ đủ cho 7 ngày. 
Thời gian bán thải (T1/2) tỷ lệ thuận với Vd. Vì vậy, đây là loại kháng sinh chỉ dùng 1 lần duy nhất trong ngày. Tuy nhiên, nồng độ của thuốc trong hệ thống thần kinh trung ương rất thấp. Một lượng nhỏ azithromycin bị khử methyl trong gan và được thải trừ qua mật ở dạng không biến đổi và một phần ở dạng chuyển hóa. 
Khoảng 6% liều uống thải trừ qua nước tiểu trong vòng 72h dưới dạng không biến đổi. Nửa đời thải trừ cuối cùng ở huyết tương tương đương nửa đời thải trừ trong các mô mềm đạt được sau khi dùng thuốc từ 2 - 4 ngày. 
Chính vì thế, khác với đa số các loại thuốc kháng sinh khác thường phải đưa thuốc nhiều lần trong ngày để duy trì nồng độ điều trị và dùng kéo dài từ 7 - 10 ngày thì azithromycin chỉ đưa thuốc vào cơ thể 1 lần trong ngày và nên dùng thuốc khoảng 3 ngày đối với thuốc tiêm và từ 3 - 5 ngày đối với các dạng thuốc uống.
Đau đầu là một tác dụng phụ của azithromycin.Đau đầu là một tác dụng phụ của azithromycin
Những lưu ý khi sử dụng
Azithromycin được chỉ định cho các nhiễm khuẩn đường hô hấp như viêm xoang, viêm amidan, viêm họng, viêm phế quản, viêm phổi. Với các nhiễm khuẩn da, mô mềm, viêm tai giữa, thuốc này cũng được lựa chọn do phân bố rất tốt vào mô. Điều trị bệnh lây qua đường sinh dục do Chlamydia trachomatis được khuyến cáo dùng liều duy nhất 4 viên.
Không dùng thuốc này cho người có tiền sử quá mẫn với azithromycin hoặc bất kỳ kháng sinh nào thuộc nhóm macrolid (như clarithromycin hoặc erythromycin...). Thận trọng khi sử dụng cho người mắc bệnh gan, thận, phụ nữ có thai và cho con bú.
Theo dõi phản ứng dị ứng thuốc có thể xảy ra. Thực tế điều trị ít gặp tác dụng không mong muốn khi dùng azithromycin, hầu hết các tác dụng phụ thường gặp ở mức độ nhẹ đến vừa như rối loạn tiêu hoá, buồn nôn, nôn, đau bụng, đầy hơi, tiêu chảy. 
Nó có thể gây đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi, lơ mơ. Dùng lâu dài, liều cao có thể làm giảm sức nghe có hồi phục ở một số người bệnh. 
Nếu phải dùng đồng thời với các thuốc antacid, cimetidin trong các bệnh lý về dạ dày tá tràng thì nên dùng azithromycin trước 1h hoặc sau 2h để tránh tương tác. Cần theo dõi nếu dùng cùng với cyclosporin, digoxin do azithromycin ảnh hưởng tới chuyển hóa của những thuốc này.
Azithromycin là một kháng sinh tốt và dễ sử dụng cho các nhiễm khuẩn không cần điều trị tại bệnh viện. Tuy nhiên, do không hiểu biết và lạm dụng thuốc tràn lan trong cộng đồng nên có thể ở một số nơi, thuốc đã bị kháng với tỉ lệ khá cao. Trong trường hợp đó, cần cân nhắc và chọn loại kháng sinh khác phù hợp.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons